Đề ôn tập bài thơ "Từ ấy" môn Ngữ văn Lớp 11

docx 5 trang thaodu 18093
Bạn đang xem tài liệu "Đề ôn tập bài thơ "Từ ấy" môn Ngữ văn Lớp 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_cuong_on_tap_bai_tho_tu_ay_mon_ngu_van_lop_11.docx

Nội dung text: Đề ôn tập bài thơ "Từ ấy" môn Ngữ văn Lớp 11

  1. Đề bài: 1. Phân tích bài thơ “Từ ấy” để làm rõ tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dân thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân 2. Phân tích bài thơ “Từ ấy” để thấy được niềm say mê hạnh phúc của người chiến sĩ cách mạng khi gặp lí tưởng của Đảng 1. Khổ 1: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lý tưởng của Đảng Ở khổ thơ đầu có sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo bút pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng trẻ: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim - Nhan đề của bài thơ được lặp lại ngay khổ thơ thứ nhất có tác dụng nhấn mạnh thời điểm nhà thơ giác ngộ lí tưởng cách mạng. “Từ ấy” trạng từ chỉ thời gian, đánh dấu một thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Tháng 7/1938, Tố Hữu mười tám tuổi - tuổi trẻ giàu ước mơ, khát khao lí tưởng đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” thì được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Đây là sự gặp gỡ của hai mùa xuân: mùa xuân của tuổi trẻ và mùa xuân của lý tưởng, của tương lai. “Từ ấy” như điểm chốt của thời gian, không gian đã xác định: từ bóng đêm của cuộc đời cũ, ánh sáng lí tưởng của Đảng làm bừng sáng cuộc đời nhà thơ.  Liên hệ: “Từ ấy” đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và sau “Từ ấy” cho chúng ta sự khác biệt trong một con người. Phải đặt khổ đầu của bài thơ vào trước thời điểm “từ ấy” mới thấy niềm vui đó quả thực lớn lao như thế nào. Đây là lúc người thanh niên trẻ tha thiết tìm kiếm lẽ sống: Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời. (Nhớ đồng) Trước “Từ ấy”, cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường. Đó không phải là tâm trạng của riêng mình nhà thơ mà là chung cho cả một hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ có tấm lòng yêu nước nhưng chưa có cơ hội để đến với cách mạng. Lớp thanh niên ấy đã rơi vào tâm trạng bế tắc, chán chường, người thì tìm đến với thế giới cô đơn, người lại tìm đến với thế giới tưởng tượng để trốn tránh hiện thực hoặc tìm quên bằng những cách của riêng mình. Tâm trạng bế tắc của lớp thanh niên ấy được thể hiện rất rõ trong Thơ mới. Tố Hữu may mắn hơn, ông đã tìm ra con đường đi cho cuộc đời mình, đó là con đường chung của cả dân tộc. “Từ ấy” khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. - Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh ẩn dụ giàu tính hình tượng“nắng hạ” và “mặt trời chân lí”. Lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là nắng thu vàng nhẹ hay nắng xuân dịu dàng mà là “nắng hạ” chói chang, rực rỡ, mạnh mẽ của ngày hè soi tỏ khắp nơi, đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức của nhà thơ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là “mặt trời chân lí”
  2. là nguồn sáng ấm nóng, bất diệt. Sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa, nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian áng sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, đem đến những điều tốt lành cho đời sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính, đầy ân tình của nhà thơ đối với cách mạng. - Phút giây bắt gặp lí tưởng cách mạng trở thành “bừng nắng hạ”, “chói qua tim”. Sử dụng các động từ mạnh:“bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột,“chói” chỉ ánh sáng chiếu thẳng, mạnh, có sức xuyên thấu mạnh mẽ. Hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới đã xua tan màn sương mù của ý thức cá nhân, mở ra một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Tố Hữu không chỉ đón nhận lí tưởng Đảng bằng trí tuệ mà bằng cả tình cảm rạo rực, say mê, sôi nổi nhất. Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản: Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim - Hình ảnh so sánh “hồn tôi - vườn hoa lá” cùng lối vắt dòng từ câu thơ thứ ba tràn xuống câu thơ thứ tư như âm thanh của một tiếng reo vui phấn khởi, hân hoan. Những xao xuyến trong tâm hồn sâu kín của nhà thơ được phơi trải ra thật sống động. - Tâm hồn nhà thơ hóa thành một khu vườn tưng bừng sức sống. Niềm vui hóa thành một thế giới đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị, có sắc tươi xanh yên bình của cây lá, có hương thơm ngọt ngào lan tỏa của các loài hoa và có âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc để nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. - Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như “bừng”, “chói”, “rất”, “đậm”, “rộn”, Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời, cũng như đối với tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” còn gì quý giá hơn khi có một lý tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt? Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ hoa, cây lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng đã làm con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa hơn. - Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật trái lại đã khơi dậy một sức sống mới đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.  Liên hệ: Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá trong sáng, hồn nhiên: Rồi một hôm nào tôi thấy tôi Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
  3. Say đồng hương nắng vui ca hát Trên chín tầng cao bát ngát trời. 2. Khổ 2: Những nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. - Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Lẽ sống mới được đặt ra ở đây là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người, mối quan hệ hài hòa giữa riêng - chung, cá nhân - cộng đồng. Tố Hữu tự nguyện gắn bó cái tôi cá nhân của mình vào cái ta chung của dân tộc; từ bỏ cái tôi cá nhân tiểu tư sản để nhập vào khối đời chung của nhân dân lao khổ; thoát ra khỏi “cái tôi” cô đơn bế tắc để gắn bó với các giai cấp cần lao. Đó là mối quan hệ đoàn kết tạo ra sức mạnh trong cuộc đấu tranh cách mạng, hướng tới tự do. - Lẽ sống cao đẹp ấy được thể hiện qua những từ ngữ đặc sắc, có tác dụng gắn kết như: “Buộc, trang trải, hồn tôi – hồn khổ, gần gũi, khối đời” + “Buộc” : buộc chặt, gắn bó với mọi người → Tố Hữu ý thức tự nguyện sâu sắc, quyết tâm cao độ muốn thoát khỏi giới hạn của “cái tôi” cá nhân để hướng vào cộng đồng, để sống chan hòa với mọi người. + “Trang trải”: Tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với từng con người cụ thể. + “Hồn tôi với bao hồn khổ”: trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ quan tâm đến quần chúng lao khổ. Từ “với” thể hiện mối liên kết chặt chẽ với nhân dân. + “Gần gũi”: Gần nhau về quan hệ tinh thần, tình cảm, đó là sự gắn bó ruột thịt. +“Khối đời” : Hình ảnh ẩn dụ, chỉ một khối người đông đảo, cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào một tập thể cùng chung lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội. Đó là sức mạnh của tập thể nhân dân. - Điệp từ “để” tạo nhịp thơ dồn dập, thôi thúc, hăm hở. => Tình yêu thương con người của Tố Hữu là tình hữu ái giai cấp. Tố Hữu đặt mình vào giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ờ đấy, Tố Hữu tìm thấy sức mạnh, niềm vui mới bằng nhận thức, tình cảm yêu mến, sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.  Liên hệ: Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một tiểu tư sản. Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi” cá nhân chủ nghĩa, cô đơn, bế tắc: Ta là một là riêng là thứ nhất (Xuân Diệu) Hỡi Thượng đế! tôi cúi đầu trả lại Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang Sầu đã chín, xin Người thôi hãy hái! Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đàng (Huy Cận) Lí tưởng cộng sản đã giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ.
  4. 3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm cù bất cù bơ - Cấu trúc “ Tôi đã là ” với điệp từ “là” với cách xưng hô ruột thịt: “con, em, anh” và số từ ước lệ “vạn” là lời khẳng định cho sự hoà nhập tuyệt đối. Nhà thơ cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Tình cảm gia đình nồng ấm, thân thiết, ruột thịt. - Hình ảnh “những kiếp phôi pha"là những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, dãi dầu nắng mưa để kiếm sống và những em bé “không áo cơm, cù bất cù bơ" là những đứa trẻ không có tuổi thơ, không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó. Đây cũng là đối tượng sáng tác chủ yếu của thế hệ sau này.  Liên hệ: Kiếp phôi pha, người không áo cơm cù bất cù bơ ở đây được tạo nên bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng. Đó là em bé trong bài “Đi đi em” sớm chịu cảnh nô lệ, là cô gái giang hồ trong “Tiếng hát sông Hương”, là ông lão khốn khổ trong “Lão đầy tớ”, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con cho người khác và biết bao người khác nữa. Cô gái giang hồ trong “Tiếng hát sông Hương” Trăng lên trăng đứng trăng tàn Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng Thuyền em rách nát Mà em chưa chồng Em đi với chiếc thuyền không Hay chú bé đi ở trong “Đi đi em” Em len lét, cúi đầu, tay xách gói Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te Vẫn chưa thôi lời day dứt nặng nề Hàng giây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ! Ông lão khốn khổ trong “Lão đầy tớ” Gánh nước, cuốc vườn cau Đất bụi lấm đầy đầu Mà chủ còn hất hủi! Như cái kiếp ăn mày Ngồi ăn trong góc xó Buồn thiu như con chó Áo rách chẳng ai may
  5. - Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy. Số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời. Nhà thơ không chỉ thể hiện tấm lòng đồng cảm, xót thương đối với những kiếp người đau khổ, bất hạnh, những con người lao động vất vả mà cao hơn, ông tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. - Đồng thời Tố Hữu cũng bày tỏ lòng căm giận trước những bất công ngang trái của cuộc đời cũ, làm nô lệ sống dưới ách đô hộ. Điều này thúc giục nhà thơ phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho mọi gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ. => Nhà thơ đã đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, nhận thức sâu sắc về mối liên hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao. Đây là tình cảm mới mẻ và cao đẹp của một chiến sĩ cách mạng, một nhà thơ cách mạng. Bài thơ là tuyên ngôn cho tập “Từ ấy” nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung.