Ôn tập Ngữ văn 11 - Năm học 2019-2020 - Mai Thị Diễm My

docx 124 trang thaodu 5372
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập Ngữ văn 11 - Năm học 2019-2020 - Mai Thị Diễm My", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxon_tap_ngu_van_11_nam_hoc_2019_2020_mai_thi_diem_my.docx

Nội dung text: Ôn tập Ngữ văn 11 - Năm học 2019-2020 - Mai Thị Diễm My

  1. ÔN TẬP NGỮ VĂN 11 Năm học: 2019 -2020. Họ và tên: Mai Thị Diễm My. Lớp: 11C1. 1
  2. Bài 1: Hai đứa trẻ - Thạch Lam - I. Giới thiệu chung. 1. Tác giả. - Thạch Lam (1910-1942) (32 tuổi) tên thật là Nguyễn Tường Lân, sinh ra ở Hà Nội nhưng nhiều năm tháng sống ở huyện Cẩm Giàng - Hải Dương. Ông là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo và là thành viên nhóm Tự lực văn đoàn cùng với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng, họ thường viết về tình yêu đôi lứa, nên những trang văn của họ thường ít được lưu truyền trong sách giáo khoa. - Xuất thân trong gia đình công chức, gốc quan lại. Nội dung: cuộc sống đời thường bình dị. - Sau khi đỗ tú tài lần thứ nhất, ông làm báo, viết văn. (Chú thích: Tú tài lần thứ nhất ( tú tài bán phần): tương đương với lớp 11 ngày nay. - Ông thường viết những truyện không có cốt truyện, mỗi chuyện là một bài thơ trữ tình đượm buồn, thường đi sâu vào nội tâm nhân vật, với những cảm xúc mơ hồ, long lanh, tinh tế, văn học nhân sinh, có sự hòa quyện giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn. - Tác phẩm tiêu biểu: Gió đầu mùa, nắng trong vườn, sợi tóc . 2. Tác phẩm: - Xuất xứ: Được in trong tập “ Nắng trong vườn” năm 1938. - Nghệ thuật có sự kết hợp giữa hai yếu tố giữa hiện thực và lãng mạn trên lớp truyện ngắn tiêu biểu mang phong cách. - Nội dung: Khắc họa bức tranh thiên nhiên phố huyện nghèo. Cảm thông sâu sắc trước cuộc sống cơ cực của những con người quẩn quanh sau lũy tre làng. Luôn trân trọng những hi vọng dẫu rất mong manh của họ. - Bố cục: 3 phần: + Phần 1: Tiếng trống thu không đến cười khanh khách nhỏ dần về phía làng. ND: Cảnh phố huyện lúc chiều tàn. + Phần 2: Trời đã bắt đầu đến cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ. ND: Cảnh phố huyện lúc đêm xuống. + Phần 3: Phần còn lại. ND: Cảnh chuyến tàu đi qua phố huyện. - Tóm tắt: Hai đứa trẻ là truyện ngắn nói về hai đứa trẻ Liên và An. Liên và An đã từng có một cuộc sống đủ đầy mơ ước tại Hà Nội. Sau đó vì biến cố gia đình phải chuyển về phố huyện Cẩm Giàng - Hải Dương gần ga xe lửa và chợ. Mẹ Liên giao cho hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Thế nhưng chừng người ấy hi vọng một thứ gì đó tươi sáng hơn. Mong ước ấy được thể hiện qua việc trông chờ đoàn tàu, qua đó Liên đã chứng kiến được bức tranh thiên nhiên của phố huyện lúc chiều tàn, đêm xuống, cùng với những mảnh đời bất hạnh như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, Bác Siêu, vợ chồng bác xẩm mù . Đoàn tàu như một ánh sáng rực rỡ, một ước mơ hoài bão với người dân phố huyện. Sau khi đoàn tàu đi qua thì mọi vật đều quay về trạng thái yên tĩnh vốn có của phố huyện, mọi người ra về đóng cửa đi ngủ. II. Đọc hiểu văn bản. 1. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn. a. Bức tranh thiên nhiên. - Âm thanh: Tiếng muối vo ve. Tiếng ếch nhái. Tĩnh vắng buồn. Tiếng trống thu không. Hình ảnh màu sắc: Đỏ rực. Dấu hiệu của 2
  3. Ánh hồng. sự tàn lụi. ( Liên hệ: “Bốn bề bát ngát xa trông; Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” Truyện kiều – Nguyễn Du) Thúy Kiều cô đơn, chỉ có cát không có dấu hiệu của con người. - “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Mong muốn tìm hơi ấm của con người nhưng chỉ thấy bờ bãi. - Đường nét: “ Dãy tre làng ” đường nét ảm đạm. * Nghệ thuật: - Sử dụng nhịp thơ chậm rãi, giàu tính nhạc, hình ảnh. Cộng hưởng tạo nên nét êm dịu. - Nét vẽ giản dị, chân thực Lột tả được thần và hồn về miền quê. Bức tranh thiên nhiên lúc chiều tàn đẹp thơ mộng, yên ả, thanh bình nhưng đồng thời có gì đó u buồn, êm ả. Cảm nhận bằng thính giác, thị giác. b. Bức tranh sinh hoạt: * Cảnh chợ tàn: - Âm thanh: Tiếng ồn ào, âm thanh tắt dần, trả lại sự yên tĩnh vốn có cho phố huyện. ( Liên hệ âm thanh tan chợ: “Hàng quán người về nghe xáo xác” Chợ đồng – Nguyễn Khuyến) ( Liên hệ khác: Tràng Giang – Huy Cận “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” ) hiện lên thật buồn, khắc khoải, làm cho không gian vắng vẻ. - Hình ảnh: “ Một vài người bán hàng về muộn” ở lại dọn hàng, trò chuyện . “ Của những đứa trẻ con nhặt thanh tre”. Hình ảnh phố huyện tàn tạ, u buồn, nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều sau khi tan chợ. - Mùi vị: “ Âm ẩm bốc lên” “ Hơi ấm trộn với cát bụi” Nồng đậm, không hề dễ chịu. Đối với Liên đã trở nên quen thuộc. * Hình ảnh kiếp người tàn: - Hình ảnh đứa trẻ: “ Cúi lom khom dưới mặt đất” Thương tâm, tuổi thơ không được vui đùa. - Mẹ con chị Tí: “ Ban ngày mò cua, đêm bán nước cho người quen” Thế nhưng thu nhập của chị chẳng kiếm được bao nhiêu, kiếp đời la lắt, không tương lai, ánh sáng của chị. - Bà cụ Thi: “Hơi điên, nghiện rượu” Tiếng cười ám ảnh, nổi đau bật lên bằng tiếng cười, tiếng cười như báo hiệu tương lai của người dân phố huyện sẽ vơi đi một nửa. - Liên – An: sống mưu sinh, bán cửa hàng tạp hóa Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực không được như những đứa trẻ khác, mất đi tuổi thơ tươi đẹp vốn có. - Mẹ Liên: trụ cột gia đình, nuôi cho chị em Liên sinh sống. Cơ cực quẩn quanh, tăm tối >< Vẫn hi vọng chờ đợi. c. Bức tranh tâm hồn nhân vật Liên: * Tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong thời khắc chiều tàn. - Sự cảm nhận của Liên về đất, tình yêu của Liên dành cho đất, sự thân thuộc. - “ Trong cửa chị” Khiến cho Liên cảm nhận nỗi buồn cân xứng nhịp nhàng, hài hòa. Êm dịu, ngây thơ, man mác. * Nhân hậu, thương yêu: - Hỏi han chị Tí. - Nhìn mấy đứa trẻ con nhà nghèo. - Rót đầy rượu cho bà cụ Thi. 2. Bức tranh phố huyện lúc đêm xuống. a. Khung cảnh phố huyện. - Được tái hiện bằng hai mảng màu đối lập tương phản. * Bóng tối: “ Đường phố và các Bóng tối” Chứa đầy bóng tối. Bao trùm 3
  4. Tối hết cả - Sẩm đen bóng tối. Hiện diện ở khắp nơi, mỗi lúc. *Ánh sáng: Phát ra từ nhiều nguồn khác nhau: - Ánh sáng của đèn ( Dẫn chứng: cửa chỉ để hé ra ; Quầng sáng thân mật Chị Tí; Giờ chỉ còn lỏm qua phen nứa). - Nguồn sáng của bếp lửa ( Dẫn chứng: cái bếp lửa đất cát) Ánh sáng nhạt nhoà. - Nguồn sáng sao trời và đom đốm ( Dẫn chứng: vòm trời đom đóm; qua kẽ lá của cành bàng nhấp nháy) chân thực. Hiện ra với nhiều sắc độ và hình thù: khe sáng, quầng sáng, chấm sáng; hột sáng, vệt sáng, vùng sáng. - Điểm chung: ánh sáng len lỏi, yếu ớt, mong manh>< bóng tối bao trùm, dày đặc. Không đủ sức xua tan màn đêm, bị bóng đêm nuốt chửng. * Ý nghĩa biểu tượng: Ánh sáng tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh ở phố huyện bị bóng tối nuốt chửng. Bóng tối là biểu tượng cho màng đêm mênh mông của xã hội cũ, năm trước cách mạng thời kì thực dân phong kiến, mang nhiều hệ lụy cho người dân Việt Nam. b. Hình ảnh con người. * Cảnh sống cơ cực, nghèo nàn: - Bác xẩm : “ Dẫn chứng: góp chuyện rác bẩn” ở phố huyện nghèo, nhu cầu vật chất chưa dược thỏa mãn nói gì đến nhu cầu tinh thần, món hàng xa xỉ, cơ hội của bác Xẩm không cao. - Chị Tí: ( Dẫn chứng: “ phe phẩy thức hàng” Hàng vắng khách, ế khách, trông chờ mong đợi vẩn vơ. - Bác Siêu: Niềm mơ ước khó thành của người dân phố huyện, thức hàng rất xa xỉ, ế khách. - Chị em Liên: Sợ trái lời mẹ dặn, không dám hòa vào đám đông, chuyển hướng nhìn dáng người thiểu não ( Dẫn chứng: “ Đêm tối đối với Liên quen lắm ” Liên đã từng rất sợ bởi vì Hà Nội là thế giới hào quang ánh sáng, mà ở nơi đây bóng tối bao trùm khắp nơi đi kèm với nghèo nàn ( Liên hệ: Nhân vật cô Mị “ Ở lâu trong cái khổ mình đã quen với cái khổ” – Vợ chồng A Phủ.). * Ước mơ đổi đời: “ Chừng ấy người của họ”. - Sự mơ hồ, chính họ cũng không biết họ mơ hồ. - Ước mơ đổi đời, mong ước những điều tươi sáng hơn Biết ước mơ vươn tới những điều tốt đẹp. Trân trọng, thương cảm. c. Bức tranh tâm hồn nhân vật Liên. * Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh. - Thời khắc bóng đêm dần buông xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời với ngàn sao lấp lánh, Nhìn sao tưởng tượng ra sông Ngân Hà, tưởng tượng ra hai con vịt Thế giới cổ tích thời xa xưa ùa về, thế giới tuổi thơ trong trẻo, thế giới thần tiên Cảm nhận tinh tế. - Liên bắt nhảy với những chuyển biến tinh vi trong cuộc sống đời thường hàng ngày, Liên cảm nhận thấy những nguồn sáng của đom đốm , nguồn sáng khác nhau Tinh tế nhạy cảm. * Ước mơ đổi đời: - Hướng về nguồn sáng bởi vì thế giới phố huyện tăm tối, mờ mịt bế tắc Khao khát ánh sáng cuộc đời tươi đẹp. - Liên đi tìm nguồn sáng để xua tan bóng tối, nguồn sáng mong manh, yếu ớt. 4
  5. - Hà Nội là thế giới thần tiên ánh sáng thực sự rực rỡ, âm thanh náo nhiệt, vui tươi Ánh sáng của hoài niệm không hiện hữu. - Liên tìm ở đoàn tàu, mang theo ánh sáng thỏa mãn, ánh sáng thèm thuồng, mê say Khao khát đổi đời thoát khỏi cuộc sống tăm tối lẩn quanh bế tắc của thực tại. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam: + Sự thương cảm với những kiếp người ở phố huyện. + Trân trọng ước mơ thay đổi của người dân, của Liên. + Kín đáo thể hiện ước mơ thay đổi cuộc sống cho người dân. 3. Bức tranh phố huyện lúc đoàn tàu đến và đi qua. a. Hình ảnh chuyến tàu đêm. * Nguyên nhân dẫn đến cảnh đợi tàu: + Vì cuộc sống của người dân phố huyện và chị em Liên nghèo nàn, đơn điệu, buồn tẻ. + Vì đoàn tàu khơi dậy những kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng của chị em Liên. Đoàn tàu đem đến kí ức về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ, huyên náo. + Vì hai chị em muốn nhìn chuyến tàu. Đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Trong con mắt trẻ thơ, đoàn tàu không chỉ là hoạt động chạy đến, chạy đi mà là một thế giới khác, thế giới của ước mơ, khát vọng về một tương lai tươi sáng, ý nghĩa hơn. * Xuất hiện qua những dấu hiệu đầu tiên: - Tiếng reo đèn ghi. - Ngọn đèn của người gác ghi. - Tiếng còi xe lửa kéo dài theo ngọn gió. - Làn khói bừng sáng ở đằng xa. * Sự xuất hiện: - Âm thanh: + Tiếng dồn dập rít mạnh vào ghi to rộn rã. + Tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. + Tiếng còi rít lên. Âm thanh thực sự rộn rã náo nhiệt > < vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu, tiêu điều, thảm hại, vắng tanh. Ngập tràn vào giấc ngủ yên tĩnh, bóng tối, nỗi buồn. b. Ý nghĩa của chuyến tàu: - Chứng kiến sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. 5
  6. - Chuyến tàu là hình ảnh của quá khứ Hà Nội, nó mang hình ảnh của Hà Nội, sống trong hạnh phúc chốc lát Đánh thức hạnh phúc. - Biểu tượng thế giới hai đứa trẻ khao khát hạnh phúc, về một thế giới hạnh phúc hơn: sự giàu sang, ánh sáng rực rỡ, Giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc: + Sự xót thương cho đứa trẻ, người dân sống trong bóng tối. + Trân trọng ước mơ đổi đời. + Thông điệp: Nhắc nhở mọi người chúng ta nên vượt qua sự vô vị tẻ nhạt, áo đời phẳng lặng để hướng đến sự đẹp đẽ, tuyên ngôn nghệ thuật về một đời, cứu lấy những đứa trẻ đừng để chúng nó phải đợi tàu để tìm cuộc sống đáng sống hơn. - Qua chi tiết đợi tàu của chị em Liên, nhà văn gửi gắm thông điệp về tình người và tình đời: Hãy biết nâng niu, trân trọng những ước mơ nhỏ bé của tuổi thơ, hãy hướng về cuộc sống ý nghĩa hơn, hãy đốt mình lên như Xuân Diệu: “ Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. 4. Nhân vật Liên. - Một cô bé giàu lòng thương người: mấy đứa trẻ trong khung cảnh chợ tàn. - Cảm thông sâu sắc với mẹ con chị Tý, với bà cụ Thi, bác Xẩm, bác Siêu. - Một cô bé rất chú đáo và đảm đang: + Thay mẹ trông coi cửa hàng: Khóa tráp tiền. Đóng cửa hàng. + Thay mẹ chăm sóc em: Chở che cho em. Vực em vào hàng. - Một cô bé có tâm hồn nhạy cảm: + Cảm thấy buồn man mác qua ánh mắt tràn đầy bóng tối của Liên. + Liên còn nghe được mùi đất riêng của quê hương này. + Lặng ngắm vì sao, nhìn ánh đèn của chị Tí, bác Siêu Suy nghĩ cảm thông. + Hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ Tâm hồn yên tĩnh. + Ý thức dược cuộc sống tăm tối của mình và người dân phố huyện. 5. Hai đứa trẻ - Bài ca về tình yêu quê hương đất nuớc. - Chiều, chiều rơi: Một buổi chiều êm ả như ru. - Một mùi âm ẩm bốc lên + mùi cát bụi quen thuộc Mùi riêng của đất của quê hương này. - Hồi nhớ về Hà Nội. - Đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Vùng quê Việt Nam ở Bắc Bộ, một vùng quê nghèo buồn, nhưng thấm đẫm chất thơ. III. Tổng kết. 1. Giá trị nội dung: - Khắc họa bức tranh nông thôn Việt Nam. - Cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những con người quẩn quanh bế tắc. - Trân trọng niềm hi vọng mong manh họ. 2. Đặc sắc nghệ thuật: - Truyện không có cốt truyện. - Truyện ngắn trữ tình. - Giàu chất thơ. * Vẻ đẹp về nội dung: + Vẻ đẹp của thiên nhiên + Vẻ đẹp nhân vật. Người dân phố huyện. 6
  7. Liên. Nhân hậu yêu thương. Tình tế nhạy cảm. Khao khát đổi thay. + Vẻ đẹp cái “ tôi” của Thạch Lam. Sự xót thương. Sự trân trọng. * Vẻ đẹp về nghệ thuật, ngôn ngữ. - Nghệ thuật tượng phản đối lập. + Ánh sáng> < thực tại). * Những câu văn lưu ý học thuộc để dẫn chứng: + Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. + Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tán. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. + Chợ họp giữa chợ đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. + Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre. + Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá. + Hai chị em dứng sững nhìn theo cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần. + Trời đã bắt đầu vào đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối. + Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. + Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. + Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. * Một số đề thi: + Đề 1: Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam. Văn mẫu 1: Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Nhân vật Liên trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” là một trong số những nhân vật điển hình của ngòi bút Thạch Lam. Sự nhạy cảm ,sự chuyển biến tâm trạng nhân vật Liên gợi ra nhiều nét tâm trạng của một cô gái mới lớn. Những nét tính cách của Liên được bộc lộ qua những chi tiết nhỏ nhặt trong truyện ngắn, hay chính là những sự thay đổi trong tâm tư tình cảm của tác giả. Tâm trạng nhân vật Liên trong tác phẩm được thể hiện qua nhiều giai đoạn, nhưng có lẽ tâm hồn của một cô gái sẽ có sự nhạy cảm hơn khi cảnh chiều tà và ngày tàn buông xuống. Với một cô gái trẻ đầy suy tư những đường nét, âm thanh và màu sắc của chiều xuống càng khiến cho tâm trạng cô thêm lâng lâng khó tả. Buổi chiều ấy bắt nguồn từ những âm thanh quen thuộc,tiếng trống thu không vưng ra từng tiếng,gọi buổi chiều về, hình ảnh của những đám mây hồng ở cuối trời do ánh mặt trời hắt lên. Dưới con mắt của một cô gái, hình ảnh hoàng hôn thật khác. Trên nền áng mây ấy những ngọn tre cao vút như in hình và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Trong gian hàng đơn sơ chỉ có mấy thức hàng đơn giản âm thanh của 7
  8. tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, đến cả tiếng của những con muối vo ve, mà Liên cũng cảm nhận được. Chứng tỏ rằng không gian bây giờ rất yên tĩnh, ngoài Liên ra, không khí thật chìm vào buổi hoàng hôn,người ta thấy được sự chuyển đổi đó khi nhắc tới những âm thanh những dấu hiệu quen thuộc của một buổi chiều tà. Trước sự thay đổi của đất trời, cộng với mùi hơi đất bốc lên hay chính mùi đất mà chính phố huyện này mới có, nghĩ rồi Liên lại có một nỗi buồn man mác, có lẽ là do suy nghĩ của Liên về cuộc sống nơi đây , nghèo nàn, cái phố huyện tàn tạ. Những nét vẽ của đồng quê, với hình ảnh quen thuộc nhưng những âm thanh và cả buổi chiều êm như nhung đó,dưới con mắt của một cô gái nó lại trở thành cái cớ cho sự buồn lâng lâng không rõ vì sao. Tâm trạng nhân vật Liên - một cô gái 9 tuổi còn được thể hiện qua cái nhìn của cô trong bức tranh thiên nhiên và con người khi chợ tàn. Xuất hiện giữa cảnh chợ tàn là hình ảnh của những người bán hàng vẫn đang nán lại dù đã vãn chợ từ lâu,mấy đứa trẻ con thì nhặt nhạnh những thứ còn sót lại, đó chỉ là những thanh tre thanh nứa thôi, nhưng chúng cũng tỏ ra mải mê với công việc. Hình ảnh những rác rưởi vỏ cùng với những gì xuất hiện trong đầu một cô gái khiến cho cô buồn. Buồn không chỉ là do cô cảm thấy cuộc sống của cả những người ở đây đều nghèo khổ như cô mà còn chính cô cũng buồn vì không thể giúp được gì cho họ, kể cả những đứa trẻ. Một vài chi tiết nhỏ nhặt vậy nhưng lại nói lên được nhiều điều, tâm sự của một cô gái. Điều này còn cho thấy Liên là một người giàu lòng trắc ẩn. Đêm xuống hình ảnh của cuộc sống cũng nhanh chóng chìm vào bóng tối, khiến cho Liên buồn hơn nhưng có lẽ nỗi buồn đó đã quá quen thuộc đối với cô. Hình ảnh của phố huyện chìm vào bóng tối, cách tác giả lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối thật đặc sắc.Khi chợ tàn đi đêm bắt đầu buông xuống,Liên mở gian hàng mà cứ ngồi trên chõng tre ngắm ngía nơi ở của mình. Tất cả những hoạt động đều được Liên quan sát bằng một tình cảm yêu thương cái vùng quê hương của bản thân mình. Đó là hình ảnh ánh sáng và bóng tối quen thuộc nơi đây. Liên mơ màng ngồi trên chiếc chõng mà ngắm cảnh tượng ấy, dường như Liên đã đưa mắt đi khắp nơi để tìm kiếm những nguồn sáng trên không gian phố huyện: đó là những hột sáng, những khe ánh sáng từ ngọn đèn, phên nứa khiến cho cát cũng hiện lên lóng lánh như những hạt vàng. Đó còn là ánh sáng của hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh thế nhưng không xua được bóng tối của màn đêm. Khi đêm đến cả phố huyện chìm trong một màn đêm không đáy. Và có lẽ Liên cảm nhận được, trong cô vẫn là một cảm giác mơ hồ buồn. Hình ảnh của mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, ban ngày mẹ con chị mò cua bắt tép đêm đến mẹ con chị lại mở quán nước để kiếm thêm. Bên cạnh đó là gia đình nhà bác Sẩm với hình ảnh manh chiếu rách và hình ảnh đàn bầu, đứa con bò ra nghịch cát, bác chưa hát vì chưa có ai nghe. Còn bác Siêu thì lật đật với gánh hàng phở để đi cũng đi đến. Trong Liên cảm nhận được tất cả sự cố gắng của tất cả mọi người vì cuộc sống mưu sinh. Đặc biệt tình cảm và yêu thương trắc ẩn của Liên thể hiện tình thương với bà cụ Thi điên. Ngày nào bà cũng đến quan mua rượu uống rồi lại lảo đảo bước ra cười khanh khách. Liên rót đầy rượu cho bà cụ, không nói gì về hành động hay nhận xét gì về cụ nhiều nhưng qua cách kể , Liên cũng bộc lộ sự yêu thương qua cách Liên nghĩ tới nhân vật này. Thêm một chút gia vị cho tâm hồn liên, hình ảnh con Tàu đêm đến sẽ khiến cho những con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó, và Liên cũng thế. Chị em Liên cũng thao thức chờ cho đến khi tàu tới mới thôi. Và cũng chính con tàu là nguồn sáng đưa hai chị em sống về những kí ức thời còn sung sướng, được đi chơi và uống những thức uống xanh đỏ. An đã ngủ rồi, Liên cứ ngồi trên chõng mong đợi thao thức. 8
  9. Khi tàu đến vừa bừng sáng phố huyện nghèo vừa mang đến những nét vui trên gương mặt của những người nơi đây, khi họ mong tàu như mong một tương lai tươi sáng hơn còn chị em Liên đặc biệt là Liên, cô không muốn quên đi một quá khứ đẹp đẽ ngày nào. Liên đang tìm đến những niềm vui trong quá khứ để bù đắp cho những khó khăn hiện tại của gia đình. Đối với Liên mà nói con tàu là miền kí ức tuổi thơ trở về chính vì thế mà cô luôn trân trọng và muốn nhìn thấy nó qua hình ảnh đoàn tàu. Ánh mắt của Liên tập trung vào ánh sáng của tàu, ánh sáng đó như mở ra bao nhiêu kí ức kỉ niệm, cũng là niềm khát khao của cô khi muốn theo những ánh sáng đó tìm kiếm những điều đẹp đẽ nơi xa xôi mà ngay ở nơi phố huyện nghèo này sẽ rất lâu nữa mới có được. Khung cảnh khi ánh mắt Liên nhìn cho tới khi ánh sáng đó chỉ còn một chút le lói nữa mới thôi cũng cho ta càng hiểu thêm điều đó. Dù không bán được gì, hay cô không mong chờ gì nhiều khi hành khách trên tàu có thể xuống và mua nhiều thứ cho gian hàng của cô, mà đợi tàu là mong đợi những con người từ mọi miền, hương vị của kí ức chảy qua Chỉ là một cô gái nhỏ nhưng tâm hồn của cô chẳng khác gì một thiếu nữ trưởng thành, cùng với đó là sự nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn mà không phải ai cũng có. Sự yêu thương cảm thông và cả những ước mơ lẫn kí ức đẹp đẽ đa tạo nên một hình ảnh rất đặc biệt, qua đây cũng thể hiện tâm hồn của chính tác giả Thạch Lam. Khi miêu tả tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam muốn thể hiện được sự nghèo khổ hiện thực chua xót ấy nhưng vẫn mang những nét thi vị của chốn bùn lầy nước đọng và cũng là sự cảm thông sâu sắc đối với những nhân vật nhỏ bé của mình. Văn mẫu 2: Liên và An là hai nhân vật chính của câu chuyện nhưng mọi biến chuyển tinh vi của vạn vật đều hiện lên qua ánh nhìn nhạy cảm của cô bé Liên. Thạch Lam xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại và là một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để tạo nên phong cách riêng trong sáng, giản dị, đậm chất trữ tình. Ông có đóng góp đáng quý cho sự nghiệp văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. “Hai đứa trẻ” một “tác phẩm thơ mang y phục văn xuôi” đã để lại một niềm cảm thương sâu sắc trong lòng người đọc về hai đứa trẻ là Liên và An. Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình sa cơ thất thế nên trở về quê, một phố huyện nghèo hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Một gian hàng thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Liên chừng khoảng chín tuổi còn An khoảng bảy, tám tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đã có những toan tính cho cuộc sống. Có lẽ vì thế mà trong sâu thẳm tâm hồn cô bé này đã có những xúc cảm hết sức tinh vi về mọi vật, mọi việc ở phố huyện này. Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm, tinh tế của Liên. “Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve.” Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai loại hình ảnh: Hình ảnh êm đềm, lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nỗi buồn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Thật khó để phân định rạch ròi nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nỗi buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nỗi buồn sâu sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó. 9
  10. Không gian phố huyện còn được hiện lên qua hình ảnh: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này” , “đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mông và yên lặng”. Đó chính là mùi riêng của quê hương. Vậy là đủ thấy tình yêu quê hương trong Liên như một mạch nguồn len lỏi trong tâm hồn. Có lẽ bắt nguồn từ đó mà trong Liên luôn có sự xót thương những kiếp người nghèo khổ tròn phố huyện. Liên thực sự có một tấm lòng thương cảm vô hạn đối với những con người nghèo khổ, lam lũ, tù túng của phố huyện. Liên thương những đứa trẻ con nhà nghèo nhưng chính chị cũng chẳng có tiền cho chúng. Hình ảnh những đứa trẻ đã gợi sự xót thương của Liên đối với cảnh sống nghèo khó của chúng. Liên thương cho chị Tí, bởi vì cuộc sống của chị cũng khó khăn: “sớm với muộn mà có ăn thua gì?". Dường như trong lời hỏi thăm ân cần của Liên có một tiếng nấc khe khẽ. Liên thương cho cụ thi hơi điên, “chị lẳng lặng rót đầy cút rượu ti” và “hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”. Nhịp sống ở phố huyện cứ lặp đi, lặp lại, quanh quẩn, đơn điệu, tẻ nhạt. Những cảnh đời bế tắc, cuộc sống của những con người tàn. Họ đang gồng mình lên để sống nói cách khác họ đang sống leo lắt hay chỉ đang tồn tại. Dường như tất cả cảnh phố huyện đều được cô bé thu vào tầm mắt. Với trái tim đa cảm giàu lòng thương xót, Liên đã có những cảm nhận tinh tế về cuộc đời mờ nhạt, quanh quẩn, cái ao đời phẳng lặng trong phố huyện nghèo. Chính sự quan tâm, niềm cảm thương ấy của Liên đã làm nên tình người bàng bạc khắp thiên truyện. Tình người trong Liên không ồn ào mà dịu nhẹ, sáng trong lắng dần trên trang sách. Cái nhìn nhân hậu cùng niềm xót thương đã tạo nên giá trị nhân văn cho “Hai đứa trẻ”. Những kiếp người xuất hiện trong đêm tối, từ bóng tối đi ra rồi lại đi lần vào bóng tối chỉ được gợi lên qua cái nhình của Liên hay chính Thạch Lam? Bởi theo Thế Lữ nhận xét : “Thạch Lam là người sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh đã viết ra trên trang giấy. Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp, nhiều hình vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương.” Hai đứa trẻ dù cho già dặn trong suy nghĩ thì vẫn chỉ là hai đứa trẻ, là hai mầm cây mới nhú trên mảnh đất cằn cỗi, khắc nghiệt cảu không gian nơi phố huyện. Chúng vẫn thèm hòa nhập vào những cuộc chơi của bao đứa trẻ khác ở “thềm hè” nhưng cả hai đều sợ “trái lời mẹ dặn” và “đành ngồi trên chõng”. Hai chị em Liên lũ trẻ đang chơi ở thềm hè với con mắt thèm muốn và một chút nuối tiếc. Đó là điều hết sức tự nhiên trong tâm hồn trẻ thơ. Tuổi thơ của chúng sớm phải chia tay với những buổi dạo chơi trên phố, sớm quên đi bao niềm vui để phải già dặn, toan tính. Rồi Liên và An ngồi ở chõng mà ngước mắt lên bầu trời để khám phá, “vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ”. Chính sự khám phá tự nhiên ấy đã “làm mỏi trí nghĩ” của cả hai đứa trẻ. Thạch Lam hơn ai hết thấu cái bi kịch lớn của tình thương, muốn được san sẻ cùng mà chỉ có thể nâng đỡ về tinh thần. Hai đứa trẻ cũng như ấp ủ bao hi vọng mơ ước của nhà văn được thay đổi thực tại tù túng kia, để những đứa trẻ như liên và An được hưởng trọn vẹn trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của cuộc đời. Hai đứa trẻ-hai niềm hi vọng được nhen nhóm lên như ánh sáng của đoàn tàu làm bừng sáng cả không gian phố huyện, ánh lên nỗi khao khát về sự thay đổi. Sự khao khát, hi vọng mãnh liệt của Liên về sự thay đổi được thể hiện trong cảnh Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm. Đoàn tàu hiện ra trong bóng tối với “ngọn lửa xanh biếc”, với tiếng còi kéo dài, với “làn khói bừng sáng”. Con tàu hiện lên bằng một thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn leo lắt của chị Tí, của bác phở Siêu. Âm thanh “rầm rộ” làm xáo động cả không gian phố huyện. Trong sâu thẳm tâm hồn những con người nơi đây, đoàn tàu còn 10
  11. mang lại ánh sáng giàu sang, no ấm, hạnh phúc, ánh sáng mà “chừng ấy người trong bóng tối “ đang chờ đợi chăng? Đoàn tàu xuất hiện chỉ làm thay đổi không gian phố huyện trong khoảnh khắc nhưng cũng để mọi người thèm khát. Đặc biệt là Liên, Liên đã càng hiểu thấu sự khao khát đó do chính cô bé cũng từng là người Hà Nội, từng có cuộc sống ấm no như thế. Khi tàub tới “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực rỡ vui vẻ và huyên náo”. Con tàu như đã đem đén một chút thế giới khác, một thế giới khác hẳn đối với Liên, một thế giới hạnh phúc, giàu sang khác xa với cuộc sống nghèo khổ, tù túng hiện giờ nơi phố huyện. Đoàn tàu đi từ kí ức tới hiện tại, mang đến ước mơ và khát vọng và đem chúng đi trong sự nuối tiếc của Liên. Phố huyện lại trở về với sự yên tĩnh, tịch mịch và sự bủa vây của bóng tối, nguyên vẹn một cuộc sống tù túng, nghèo khó của bao kiếp người. Dù có khó khăn nhưng họ vẫn khao khát, vẫn mơ ước về một tương lai tươi sáng. Đó chính là niềm tin sâu sắc của Thạch Lam, là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhưng đó chỉ là ý niệm mà không thể thay đổi được thực tế. Đoàn tàu đến, đi qua nhưng chỉ làm Liên thanh thản, yên tĩnh chứ không thể thay đổi được thực tại về cuộc sống “tịch mịch và đầy bóng tối” của Liên. Không thấm được một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm thì thạch Lam không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người trong bóng tối mà đặc biệt là hai đứa trẻ. Quả thực thạch Lam là một hệ thống dây tơ nhạy bén đến mức có thể cảm nhận được sự biến chuyển tinh vi trong tâm trạng mỗi nhân vật. Dòng suối mát lành ấy cứ thấm dần rồi thẩm thấu vào trái tim mỗi người đọc về sự xót thương, về tình yêu nồng nàn đối với những con người nghèo khổ. Tác giả là một người rất đỗi tinh tế trong việc miêu tả sự biến đổi của cảnh vật và nhân vật mà cụ thể ở đây là cô bé Liên. Một cô bé mới 9 tuổi nhưng đã phải già dặn trong cuộc sống khó khăn, vất vả, tù túng, biết cảm thương cho những mảnh đời khốn khổ khiến người đọc xúc động. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã làm được giá trị đích thực của văn chương, giá trị thanh lọc tâm hồn con người, cho nó sức sống ngàn đời bất diệt. + Đề 2: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam. Văn mẫu 1: A. LẬP DÀN Ý: 1. Giới thiệu khái quát về Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ” cùng yêu cầu của đề. (Mở bài) (1.0 điểm) 2. Phân tích hình ảnh thiên nhiên.(3.0 điểm) a. Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên: (hình ảnh thiên nhiên) + Màu sắc. + Âm thanh. + Mùi vị. > Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật > Gợi hồn quê. b. Nghệ thuật mô tả của tác giả: - Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà qua cảm nhận và quan sát của Liên. - Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối. - Cảnh vật có một sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị. - Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca. c. Vai trò của bức tranh thiên nhiên: - Làm nền để trên đó khắc hoạ những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ, bế tắc, quẩn quanh và không ánh sáng. 11
  12. - Tạo ra cho tác phẩm nét trữ tình riêng biệt trong lối hành văn của nhà văn Thạch Lam và cũng tạo ra cho câu truyện một bối cảnh không gian mang đặc trưng của phố huyện nghèo rất chân thật. - Gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật. 3. Hình ảnh con người.(3.0 điểm) a. Những biểu hiện của con người trong tác phẩm: -Trong cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên. b. Đặc điểm chung của các mảnh đời: - Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt. > Tất cả đều buồn bã, ít hi vọng vào lối sống có tính cầu may nhưng họ đều mong đời có một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại nhưng thật mỏng manh, mơ hồ vì đó chỉ là một chuyến tàu. c. Nghệ thuật: - Tạo ra được sự tương đồng giữa cảnh vật và con người. - Dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ có vẻ ngẫu nhiên nhưng đều gợi tâm trạng buồn chán, thất vọng. - Các nhân vật được xây dựng trong sự đối lập: giữa cái dày đặc mênh mông của bóng tối với những luồng sáng, giữa quá khứ hạnh phúc và thực tại phũ phàng, rất gợi trạng thái tâm trạng của con người. 4. Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ cảnh vật và con người. (2 điểm) - Sự đồng cảm, thái độ trân trọng, nâng niu trước niềm tin và hi vọng dù có mơ hồ về tương lai tươi sáng hơn. - Qua cảnh vật, thiên nhiên và con người, nhà văn gửi vào đó niềm ước mong một sự đổi thay sẽ đến với những mảnh đời tội nghiệp nơi phố huyện > Đây cũng là chiều sâu nhân đạo của tác phẩm “Hai đứa trẻ”. 5. Kết luận: Đánh giá và cảm nghĩ.(1.0 điểm) ( 1.0 điểm cho bài viết trình bày khoa học, sáng tạo và ấn tượng) B. BÀI LÀM THAM KHẢO. Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Mỗi truyện ngắn của ông là một bài thơ trữ tình đượm buồn. Tuy thời gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng cho đến nay có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được thử thách của thời gian bởi những truyện ngắn xuất sắc mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó.Ở đó, nhà văn không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà chỉ dựng lên một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc chiều tối. Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều “êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện. Hoà vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn. Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện 12
  13. lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”. Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi tác giả điểm vào đó nhứng điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm, một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên. Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển, tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện nghèo lúc chiều tối. Nó không những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng hơn là còn khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao. Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó còn gián tiếp giúp người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các nhân vật. Đọc “Hai đứa trẻ”, ta thấy thật khó nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên như nhuốm vào cảnh vật. Ở đó có một cái gì đó thật nhẹ nhàng, hoà hợp nhịp nhàng giữa nỗi buồn của cảnh vật và nỗi buồn trong tâm hồn con người, nhờ vậy mà nhà văn đã tạo ra cho tác phẩm một chất thơ, chất trữ tình riêng cho truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để cho chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại. Giờ đây mùi phở bác Siêu 13
  14. trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền mà hai em không thể nào mơ tưởng. Để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính cầu may của mình. Đó là một cuộc sống mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam không đi vào mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt, leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối. Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương thật quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà buồn. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó. Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối không có nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói năng. Nhưng với lối viết giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong sáng Thạch Lam đã gợi được tinh tế những không khí của câu truyện, những cảnh sinh hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn con người khiến cho bức tranh đời sống của phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một mảng sáng lung linh ấm áp trong tâm hồn người lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái của Thạch Lam. Văn mẫu 2: Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: "Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học". Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam. 14
  15. Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. "Dưới bóng hoàng lan'', "Nhà mẹ Lê", "Cô hàng xén", "Hai đứa trẻ" là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam. Truyện "Hai đứa trẻ" in trong tập "Nắng trong vườn", nhà xuất bản "Đời tay", Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm. Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: "Phố phường tiếp giáp với bờ sông" Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê. "phương Tây đỏ rực như trời cháy ", "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhảy kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ. Nhưng "Hai đứa trẻ" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiếu tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An. Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quá thuốc sơn đen, cô thấy "lòng buồn man mác", đôi mắt "bóng tối ngập đầy dần" và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: "Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách ". Cát trên phố "lấp lánh từng chỗ", đường "mấp mô thêm" trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ "vãn từ lâu" là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sông phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi "nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái 15
  16. gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại". Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng nó. Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là "mùi riêng của đất, của quê hương". Đó chính là mùi vị của cái "Ao đời", của lầm than và nghèo khó. Bóng tôi như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người "bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm "đường phố và các ngõ con dán dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến tiếng động khẽ của hoa bằng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười "giòn giã" của bà cụ Thi tất cả mọi âm thanh ấy "chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm càng tịch mịch và đầy bóng tối. Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. "Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra". Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc ". Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng "từ chập tối cho đến đêm" mà "chả kiếm được bao nhiêu!". Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện "Gió lạnh đầu mùa" : mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương! Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên "tiếng cười khanh khách", tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, "vừa đi vừa ngửa cổ ra đằng sau", dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng "lảo đảo" trong bóng tối cũng gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo. Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con ngồi trên đất "nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường". Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu "kĩu kịt", bóng bác "mênh mang ngã xuống được một vùng ". Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực. 16
  17. Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quẽ, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội "một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá". Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên "từng hột sáng lọt qua phên nứa", đèn hoa kì leo lét trong căn nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn "lay động trên chõng hàng chị Tí" chấm lụa nhỏ và vàng "lơ lửng" nơi gánh phở bác Siêu từ đêm này qua đêm khác. Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, "tâm hồn Liên yên tĩnh ăn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu". Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa "ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi", tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi đoàn tàu đến gần, vụt qua "các toa đèn sáng trưng", rồi nó "đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt". Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo "cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng " Với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ui, mội nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm "như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. lừng sáng lên khoảnh khắc, đế rồi sau đó, "tử phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về". Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ có đêm khuya, "tiếng trống ấm canh và tiếng chó cắn". Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên mành chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh "tịch mịch và đầy bóng tối" như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo. Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc ! Bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả cả phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu. Cảnh phố huyện nghèo vừa hiện 17
  18. thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong "Thay lời bạn" - Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: "Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc "Hai đứa trẻ", thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín. + Đề 3: Phân tích ý nghĩa của hình ảnh bóng tối và ánh sáng (đoàn tàu) trong Hai đứa trẻ - Thạch Lam. Văn mẫu 1: Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam in trong tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, năm 1938). Đây là một kiểu truyện ngắn trữ tình có nhiều chi tiết ngỡ như vụn vặt, vô nghĩa, nhưng kì thực đã được tác giả chọn lọc và sắp xếp một cách chặt chẽ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Nội dung tác phẩm đi sâu miêu tả những cảnh đời thường, những số phận nghèo khổ, tối tăm trong xã hội cũ. Qua đó, tác giả gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thía tư tưởng nhân đạo đáng quý. Truyện có nhiều cảnh: cảnh ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn. Hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện có ý nghĩa sâu sắc khiến người đọc xúc động. Hình ảnh đoàn tàu đêm là thế giới ước mơ, khát vọng của người nghèo. Hai đứa trẻ là chị em Liên và An, chị khoảng mười hai mười ba, em độ lên bảy lên tám. Các nhân vật khác như những đứa trẻ bới rác, mẹ con chị Tí hàng nước, bà cụ Thi điên say rượu, bác phở Siêu, vợ chồng con cái nhà xẩm mù góp phần tô đậm bức tranh cuộc sống khốn khó và tẻ nhạt. Thời gian là từ xẩm tối cho đến nửa đêm. Bối cảnh của truyện là một phố huyện nhỏ nghèo nàn, hiu hắt nằm ở giữa thôn xóm và cánh đồng, có đường xe lửa chạy qua. Buổi chiều nơi phố huyện với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào, ánh mặt trời sắp tắt, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve trong bóng tối. Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người là bóng tối và sự yên lặng quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn càng làm nổi rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ: chị Tí với hàng nước sơ sài, bác Siêu với gánh phở bập bùng ánh lửa, gia đình bác xẩm mù với mảnh chiếu trải ra đất Tất cả đều thoáng hiện, đơn điệu, lặng lẽ, rồi bị nhấn chìm trong bóng tối. Cảnh chiều buông, đêm đến được tác giả miêu tả để làm nền cho hình ảnh đoàn tàu xuất hiện. Tác giả miêu tả hình ảnh đoàn tàu và thói quen đón đợi đoàn tàu của hai đứa trẻ thật chi tiết, tỉ mỉ. Lí do chờ đợi tàu của hai đứa trẻ bao gồm cả việc chờ tàu đến để bán hàng cho khách xuống tàu và cái chính là để thỏa mãn niềm khao khát, mong mỏi được nhìn ngắm đoàn tàu. Hai chị em Liên và An đã sống qua một ngày mệt mỏi và tẻ nhạt. Chúng chỉ bán được vài món hàng rẻ tiền như bao diêm, gói thuốc lào, bánh xà phòng Đến tối thì kiểm hàng và đếm lại số tiền nhỏ nhoi. Hai đứa trẻ trơ trọi trong bóng tối, trên chiếc chõng cũ sắp gãy 18
  19. giữa không khí oi bức và tiếng muỗi kêu ran. Chỉ có một người đến với các em, đó là bà cụ Thi, một bà già hơi điên tối tối thường ghé mua rượu uống. Các em chờ đoàn tàu đêm chạy ngang qua trong tâm trạng vô cùng háo hức. Sự xuất hiện của hàng nước chị Tí, gánh phở bác Siêu là cái mốc để các em đo đếm thời gian đang xích lại gần với chuyến tàu. Cả hai chị em đều buổn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức để chờ. Cho đến khi An không thể thức được nữa, gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sửa rơi xuống, còn dặn với: Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé. Hai chị em cố thức chỉ vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Với hai đứa trẻ, con tàu đâu chỉ đơn thuần là con tàu mà là cả một thế giới khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của hai nhân vật Liên và An. Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước từ xa với ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu theo gió vẳng lại. Tiếp theo là Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Sau đó, hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Thế rồi, tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh tàu đi xa dần mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam rất tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự lúc tàu từ xa, lúc tàu đến rồi xa dần bằng nhiều giác quan cùng với rất nhiều sắc thái cảm giác; bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại. Chuyến tàu đi qua phố huyện chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn nhưng đã để lại cho hai đứa trẻ bao nhiêu cảm xúc và nuối tiếc. Phố huyện rầm rộ, ồn ào lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Gần như đã thành nếp, những người dân phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi xa. Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp. Liên lặng lẽ mơ tưởng đến Hà Nội xa xăm , nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng khi thầy chưa mất việc. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến người ta hình dung ra một thế giới giàu sang, đông đúc, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng. Việc Liên và An đón đợi đoàn tàu xuất phát từ nhu cầu bức thiết về tinh thần muốn thoát khỏi cuộc sống buồn chán hiện tại và được sống trong một thế giới mới tươi đẹp hơn. Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm. Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo bao nhiêu thì càng làm cho cảnh sống nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng bấy nhiêu. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày. Truyện ngắn Hai đứa trẻ đi sâu vào phản ánh thế giới tâm hồn của những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Hình ảnh đoàn tàu chỉ xuất hiện thoáng qua rồi vụt tắt nhưng nó vẫn 19
  20. là ánh sáng của niềm vui. Như một niềm an ủi, một nỗi khát khao, một mơ ước không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho cuộc đời tăm tối triền miên của những số phận hẩm hiu, bất hạnh nhưng vẫn hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. + Đề 4: Phân tích tâm trạng chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ - Thạch Lam. Văn mẫu: Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm , ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả. Nhân vật Liên trong truyện ngắn " Hai đứa trẻ" là một trong số những nhân vật điển hình của ngòi bút Thạch Lam. Sự nhạy cảm ,sự chuyển biến tâm trạng nhân vật Liên gợi ra nhiều nét tâm trạng của một cô gái mới lớn. Những nét tính cách của Liên được bộc lộ qua những chi tiết nhỏ nhặt trong truyện ngắn, hay chính là những sự thay đổi trong tâm tư tình cảm của tác giả. Tâm trạng nhân vật Liên trong tác phẩm được thể hiện qua nhiều giai đoạn, nhưng có lẽ tâm hồn của một cô gái sẽ có sự nhạy cảm hơn khi cảnh chiều tà và ngày tàn buông xuống. Với một cô gái trẻ đầy suy tư những đường nét, âm thanh và màu sắc của chiều xuống càng khiến cho tâm trạng cô thêm lâng lâng khó tả. Buổi chiều ấy bắt nguồn từ những âm thanh quen thuộc,tiếng trống thu không vưng ra từng tiếng,gọi buổi chiều về, hình ảnh của những đám mây hồng ở cuối trời do ánh mặt trời hắt lên. Dưới con mắt của một cô gái, hình ảnh hoàng hôn thật khác. Trên nền áng mây ấy những ngọn tre cao vút như in hình và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Trong gian hàng đơn sơ chỉ có mấy thức hàng đơn giản âm thanh của tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, đến cả tiếng của những con muối vo ve, mà Liên cũng cảm nhận được. Chứng tỏ rằng không gian bây giờ rất yên tĩnh, ngoài Liên ra, không khí thật chìm vào buổi hoàng hôn,người ta thấy được sự chuyển đổi đó khi nhắc tới những âm thanh những dấu hiệu quen thuộc của một buổi chiều tà. Trước sự thay đổi của đất trời, cộng với mùi hơi đất bốc lên hay chính mùi đất mà chính phố huyện này mới có, nghĩ rồi Liên lại có một nỗi buồn man mác, có lẽ là do suy nghĩ của Liên về cuộc sống nơi đây , nghèo nàn, cái phố huyện tàn tạ. Những nét vẽ của đồng quê, với hình ảnh quen thuộc nhưng những âm thanh và cả buổi chiều êm như nhung đó,dưới con mắt của một cô gái nó lại trở thành cái cớ cho sự buồn lâng lâng không rõ vì sao. Tâm trạng nhân vật Liên - một cô gái 9 tuổi còn được thể hiện qua cái nhìn của cô trong bức tranh thiên nhiên và con người khi chợ tàn. Xuất hiện giữa cảnh chợ tàn là hình ảnh của những người bán hàng vẫn đang nán lại dù đã vãn chợ từ lâu,mấy đứa trẻ con thì nhặt nhạnh những thứ còn sót lại, đó chỉ là những thanh tre thanh nứa thôi, nhưng chúng cũng 20
  21. tỏ ra mải mê với công việc. Hình ảnh những rác rưởi vỏ cùng với những gì xuất hiện trong đầu một cô gái khiến cho cô buồn. Buồn không chỉ là do cô cảm thấy cuộc sống của cả những người ở đây đều nghèo khổ như cô mà còn chính cô cũng buồn vì không thể giúp được gì cho họ, kể cả những đứa trẻ. Một vài chi tiết nhỏ nhặt vậy nhưng lại nói lên được nhiều điều, tâm sự của một cô gái. Điều này còn cho thấy Liên là một người giàu lòng trắc ẩn. Đêm xuống hình ảnh của cuộc sống cũng nhanh chóng chìm vào bóng tối, khiến cho Liên buồn hơn nhưng có lẽ nỗi buồn đó đã quá quen thuộc đối với cô. Hình ảnh của phố huyện chìm vào bóng tối, cách tác giả lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối thật đặc sắc.Khi chợ tàn đi đêm bắt đầu buông xuống,Liên mở gian hàng mà cứ ngồi trên chõng tre ngắm ngía nơi ở của mình. Tất cả những hoạt động đều được Liên quan sát bằng một tình cảm yêu thương cái vùng quê hương của bản thân mình. Đó là hình ảnh ánh sáng và bóng tối quen thuộc nơi đây. Liên mơ màng ngồi trên chiếc chõng mà ngắm cảnh tượng ấy, dường như Liên đã đưa mắt đi khắp nơi để tìm kiếm những nguồn sáng trên không gian phố huyện: đó là những hột sáng, những khe ánh sáng từ ngọn đèn, phên nứa khiến cho cát cũng hiện lên lóng lánh như những hạt vàng. Đó còn là ánh sáng của hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh thế nhưng không xua được bóng tối của màn đêm. Khi đêm đến cả phố huyện chìm trong một màn đêm không đáy. Và có lẽ Liên cảm nhận được, trong cô vẫn là một cảm giác mơ hồ buồn. Hình ảnh của mẹ con chị Tí với gánh hàng nước vẫn mở, ban ngày mẹ con chị mò cua bắt tép đêm đến mẹ con chị lại mở quán nước để kiếm thêm. Bên cạnh đó là gia đình nhà bác Sẩm với hình ảnh manh chiếu rách và hình ảnh đàn bầu, đứa con bò ra nghịch cát, bác chưa hát vì chưa có ai nghe. Còn bác Siêu thì lật đật với gánh hàng phở để đi cũng đi đến. Trong Liên cảm nhận được tất cả sự cố gắng của tất cả mọi người vì cuộc sống mưu sinh. Đặc biệt tình cảm và yêu thương trắc ẩn của Liên thể hiện tình thương với bà cụ Thi điên. Ngày nào bà cũng đến quan mua rượu uống rồi lại lảo đảo bước ra cười khanh khách. Liên rót đầy rượu cho bà cụ, không nói gì về hành động hay nhận xét gì về cụ nhiều nhưng qua cách kể , Liên cũng bộc lộ sự yêu thương qua cách Liên nghĩ tới nhân vật này. Thêm một chút gia vị cho tâm hồn liên, hình ảnh con Tàu đêm đến sẽ khiến cho những con người nơi đây kiếm thêm chút gì đó, và Liên cũng thế. Chị em Liên cũng thao thức chờ cho đến khi tàu tới mới thôi. Và cũng chính con tàu là nguồn sáng đưa hai chị em sống về những kí ức thời còn sung sướng, được đi chơi và uống những thức uống xanh đỏ. An đã ngủ rồi, Liên cứ ngồi trên chõng mong đợi thao thức. 21
  22. Khi tàu đến vừa bừng sáng phố huyện nghèo vừa mang đến những nét vui trên gương mặt của những người nơi đây, khi họ mong tàu như mong một tương lai tươi sáng hơn còn chị em Liên đặc biệt là Liên, cô không muốn quên đi một quá khứ đẹp đẽ ngày nào. Liên đang tìm đến những niềm vui trong quá khứ để bù đắp cho những khó khăn hiện tại của gia đình. Đối với Liên mà nói con tàu là miền kí ức tuổi thơ trở về chính vì thế mà cô luôn trân trọng và muốn nhìn thấy nó qua hình ảnh đoàn tàu. Ánh mắt của Liên tập trung vào ánh sáng của tàu, ánh sáng đó như mở ra bao nhiêu kí ức kỉ niệm, cũng là niềm khát khao của cô khi muốn theo những ánh sáng đó tìm kiếm những điều đẹp đẽ nơi xa xôi mà ngay ở nơi phố huyện nghèo này sẽ rất lâu nữa mới có được. Khung cảnh khi ánh mắt Liên nhìn cho tới khi ánh sáng đó chỉ còn một chút le lói nữa mới thôi cũng cho ta càng hiểu thêm điều đó. Dù không bán được gì, hay cô không mong chờ gì nhiều khi hành khách trên tàu có thể xuống và mua nhiều thứ cho gian hàng của cô, mà đợi tàu là mong đợi những con người từ mọi miền, hương vị của kí ức chảy qua Chỉ là một cô gái nhỏ nhưng tâm hồn của cô chẳng khác gì một thiếu nữ trưởng thành, cùng với đó là sự nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn mà không phải ai cũng có. Sự yêu thương cảm thông và cả những ước mơ lẫn kí ức đẹp đẽ đa tạo nên một hình ảnh rất đặc biệt, qua đây cũng thể hiện tâm hồn của chính tác giả Thạch Lam. Khi miêu tả tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam muốn thể hiện được sự nghèo khổ hiện thực chua xót ấy nhưng vẫn mang những nét thi vị của chốn bùn lầy nước đọng và cũng là sự cảm thông sâu sắc đối với những nhân vật nhỏ bé của mình. + Đề 5: Chất hiện thực và lãng mạn trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. I. Mở bài - Giới thiệu tác giả Thạch Lam. - Giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ. - Vấn đề cần nghị luận: chất hiện thực và lãng mạn II. Thân bài 1. Chất hiện thực - Chất hiện thực thể hiện rõ ở bức tranh phố huyện nghèo nàn với những cảnh đời mòn mỏi, quẩn quanh bế tắc. +. Bức tranh mở ra bằng một cảnh chiều tàn với những âm thanh quen thuộc của đồng quê: tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve cùng với những hình ảnh chân thực khi hoàng hôn tắt: phương tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây, dãy tre làng. ☞ Tất cả như tự nó bước vào trang văn của Thạch Lam. +. Cảnh một phiên chợ vãn ở một miền quê được miêu tả chân thực đến từng chi tiết: Ống kính của nhà văn đã nhìn lại trên mặt đất để thấy: rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn đó là những thứ còn sót lại của một phiên chợ quê. Phát hiện ra cái mùi đặc biệt của quê hương: “cái mùi riêng của đất của quê hương này”, được tạo nên từ cái “mùi âm ẩm quen thuộc” 22
  23. ☞Thạch Lam đã sử dụng những chất liệu đời thường làm nên trang văn đậm đà hương sắc đồng quê. +. Cảnh sống nơi phố huyện: Không ồn ào, không to tát, chỉ bằng những mảnh đời nhỏ bé như những lát cắt của cuộc sống TL đã tái hiện chân thực cảnh sống quẩn quanh, nhàm tẻ nơi phố huyện nghèo. Đó là gia đình chị Tí: Ngày mò cua bắt tép, tối dọn hàng. Dẫu chẳng kiếm được là bao nhưng ngày nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm. Cả gia tài của chị chỉ là một chõng hàng. ☞ Đây chính là một điển hình cho cuộc sốnglay lắt, ngoi ngóp nơi phố huyện. Đó chỉ là sự cầm chừng, sự tồn tại trong vô vọng không phải là sự sống thực sự. Bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. ☞Phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa. Bác Siêu- với gánh phở của mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sư sống. Nhưng ở nơi phố huyện nghèo này, Phở trở thành một thứ quà xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế hàng càng cao. Gia đình bác Xẩm: dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Vì vậy, cái nghèo, cái đói luôn rình rập gia đình bác. Hai đứa trẻ: chính là những mảnh đời đáng thương nhất.Chúng còn nhỏ nhưng đã phải thay mẹ quán xuyến cửa hàng. Hơn nữa chúng từng có một tuổi thơ tươi đẹp gắn với Hà Nội rực rỡ ánh sáng. Chúng là những đứa trẻ có tâm hồn đặc biệt nhạy cảm nên chúng sớm nhận ra nhịp điệu buồn tẻ của cuộc sống nơi phố huyện. Chừng ấy mảnh đời, kiếp người đã làm sống dậy hiện thực xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Một xã hội sa sút tiêu điều, trì trệ, một xã hội đang “nổi váng lên”. Đó là xã hội của những hình nhân biết cử động trong thiên truyện ý tưởng của Xuân Diệu “Toả nhị Kiều”. Họ thực sự là những con người sống một cuộc đời “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”. Những kiếp người quẩn quanh đó đã đi vào trong thơ văn của Huy Cận: Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện. → Không đi vào xung đột gay gắt, những số phận thê thảm như những nhà văn hiện thực, TL đã lặng lẽ góp nhặt những mảnh đời thường nhật, những nhịp sống quen nhàm bình lặng, những đốm sáng lẩn khuất leo lét trong bóng tối tịch mịch để làm nên bức tranh hiện thực khó quên. Bức tranh hiện thực có sức ảm ảnh có lẽ bởi TL đã vẽ bằng bút phá lãng mạn. Cái lãng mạn của TL không phải là sự tô hồng đời sống của người dân phố huyện theo kiểu tiểu thuyết lãng mạn của TLVĐ. Lãng mạn của TL là vẻ đẹp tiềm tàng ngay trong đời sống giản dị quanh ta. Chất hiện thực và lãng mạn hoà quyện đan xen trong mỗi trang văn của TL. 2. Chất lãng mạn. - Vẻ đẹp nên thơ đáng yêu của phố huyện. Phố huyện tuy nghèo nhưng vẫn đáng yêu. +. Buổi chiều ở phố huyện là buổi chiều hiu hắt, man mác buồn nhưng cũng không kém phần thi vị với bản hoà âm thôn dã tạo nên từ âm thanh quen thuộc của tiếng trống, tiếng ếch, tiếng muỗi những hình ảnh, màu sắc đậm chất hội hoạ phương Đông: hình ảnh 23
  24. phương Tây đỏ rực, áng mây hồng, dãy tre làng đen lại. Những gam màu tương phản gay gắt. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả bằng những cau văn nhẹ nhàng với nhịp điệu du dương như ru hồn người vào một không gian buồn. Đó thực sự là một bức hoạ đồng quê. +. Một đêm mùa hạ êm như nhung ru hồn người, ru hồn hai đứa trẻ vào một thế giới thơ mộng. → Phố huyện dưới ngòi bút của Thạch Lam buồn nhưng không thê thảm, lặng lẽ nhưng vẫn ẩn một nét đẹp dân dã mang cái hồn của quê hương Việt Nam. TL đã chắt chiu những cái đẹp tiềm tàng ngay ở cuộc sống giản dị quanh mình. - Vẻ đẹp tâm hồn hai đứa trẻ tạo nên một nguồn ánh sáng êm dịu trong trẻo trong suốt thiên truyện đầy bóng tối này. Đó là tâm hồn nhạy cảm tinh tế, giàu khát vọng, đon hậu. +. Tâm trạng của Liên khi phố huyện lúc chiều tàn. Buồn man mác trước giờ phút của ngày tàn. Liên đã cảm nhận được cái mùi riêng của đất, của quê hương- một thứ mùi đặc biệt khi nhìn rác rưởi những thứ còn xót lại trên mặt đất sau một ngày phiên. Tâm hồn đó đặc biệt nhạy cảm, gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, cảnh vật, phát hiện ra những biến thái tinh vi của thiên nhiên; tâm hồn như đang hoà cùng thiên nhiên “qua kẽ lá của cành bàng” Chị em Liên thấy thương cho những kiếp người nghèo nơi phố huyện, những con người đang chìm dần vào bóng tối. → Một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, giàu tình yêu con người, yêu thiên nhiên, đất nước. +. Sống trong phố huyện ngèo, chị em Liên luôn muốn thoát khỏi cuộc sống nghèo túng hiện tại bằng khát vọn tìm kiếm ánh sáng nhỏ nhoi và hai chị em không ngừng mưo ước, hồi tưởng quá khứ tươi đẹp – Nó như một điểm tựa để chị em Liên có thể vươn lên cuộc sống buồn tẻ này. +. Chính vì muốn thoát khỏi cuộc sống mòn mỏi, tù túng nên ngày nào chị em Liên cũng cố thức đợi tàu trong một tâm trạng háo hức và hồi hộp. Chị em Liên muốn sống nhịp sống sôi động cuối cùng của phố huyện. Bởi đoàn tàu đem đến một cuộc sống khác hẳn với phố huyện nghèo - một thế giới rực rỡ, vui vẻ và huyên náo. Đoàn tàu đã chở theo một mơ ước về cuộc sống hạnh phúc, sung sướng hơn. Đoàn tàu là tia hồi quang của quá khứ. → Dù sống trong nghèo khổ nhưng con người không thôi mơ ước. Chính niềm mơ ước mong manh đã khiến cho người dân phố huyện sống qua những ngày tối tăm. - Chất lãng mạn còn toát lên từ những câu văn nhẹ nhàng như giăng mắc vào lòng người nỗi thương cảm ngậm ngùi xót xa cho những kiếp sống khắc khoải. → Văn TL vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ đậm chất phương Đông. Chất nhạc êm ái trầm buồn lắng sâu. III. Kết bài - Khẳng định lại giá trị của tác phẩm. - Thành công của tác phẩm: hài hoà giữa chất hiện thực và lãng mạn. + Đề 6: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn cô bé Liên trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. I. Đặt vấn đề - Giới thiệu tác giả TL. - HĐT là tác phẩm hay, tiêu biểu cho phong cách TL: sức hấp dẫn của tác phẩm là đã khơi dậy được “ những rung động cực điểm của một tâm hồn thơ dại”. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của Liên và đó cũng là sức hấp dẫn, chất thơ của tác phẩm. II. Giải quyết vấn đề. 1. Giới thiệu truyện, nhân vật. 24
  25. - Giới thiệu truyện. - Giới thiệu nhân vật: Khác với những đứa trẻ nơi phố huyện, Liên và An đã từng sống ở HN ồn ào, náo nhiệt nay phải theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Tâm hồn Liên khác với những cô gái quê khác, luôn có những rung động hết sức tinh tế. Cuộc sống của Liên và An quẩn quanh trong gian hàng đơn điệu, nhưng cuộc sống quanh quẩn không làm mất đi vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn Liên. 2. Phân tích a). Ngòi bút của TL tinh tế trong diễn tả diễn biến tinh vi trong tâm hồn con người - Tâm hồn Liên thật nhạy cảm tinh tế: +. Cảm nhận được cảnh buổi chiều quê thật thấm thía. +. Cảnh chợ tàn. → nỗi buồn mong manh mơ hồ nhưng thấm sâu vào đáy tâm hồn con người. +. Mùi riêng của đất, của quê hương này. Tâm hồn Liên đặc biệt gắn bó, yêu mến chốn quê hương thân thuộc. +. Bức tranh phố huyện vào đêm . → cảm giác mênh mông, bí ẩn. Bầu trời chứa đựng trong đó cái bí mật thăm thẳm, cái huyền diệu của tuổi thơ. b). Tâm hồn giàu tình thương- nhân ái - Mặc dù phải bán quán hàng tạp hóa nhỏ nhưng sự nghèo nàn, tù túng không làm chai sạn tâm hồn Liên. Tâm hồn Liên vẫn rung lên niềm trắc ẩn chân thành: +. Những đứa trẻ nghèo: Liên rất thương chúng nhưng chính chị cũng không có tiền cho. +. Chị Tí: hỏi han chân thành, đồng cảm với cuộc đời khó khăn, nghèo khổ, tù túng, quẩn quanh của chị. +. Thấu hiểu nỗi khổ của bác Siêu. +. Cụ Thi Điên tuy hơi sợ nhưng vẫn ân cần chu đáo, rót rượu đầy cho cụ. +. Đối với em: dành cho em những tình cảm yêu thương của người chị lớn chăm sóc em rất ân cần chu đáo. Không phải vô tình tác giả nhắc tới quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn chị Tí. Quầng sáng ấy chính là tình người ấm áp nơi đây tỏa ra, từ tâm hồn Liên và những người nghèo khổ khác. c). Biết khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn - Thể hiện ở ngay nỗi buồn man mác trong tâm hồn Liên trước giờ khắc của ngày tàn. Liên buồn thấm thía trước cảnh chiều quê đơn điệu. Đó là nỗi buồn của cái tôi có ý thức về cuộc sống, không khỏi nuối tiếc về cuộc sống khi thời gian một đi không trở lại. - An dễ dàng chìm vào giấc ngủ của tuổi thơ trong khi Liên thao thức chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu chính là niềm mơ ước của chị em Liên về một cuộc sống khác với cuộc sống buồn tẻ nơi đây. (phân tích cảnh chờ tàu). III. Kết thúc vấn đề HĐT thực sự như một bài thơ để lại cảm xúc vấn vương, man mác trong lòng người đọc. Trong hoàn cảnh 30 – 45 xã hội đầy rẫy những bất công, mâu thuẫn, ngòi bút Thạch Lam vẫn biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn con người. Điều đó chứng tỏ TL là một tâm hồn giàu yêu thương, giàu lòng nhân hậu biết bao với cuộc sống với con người. Chính điều đó đã tạo nên giá trị lâu bền và sức hấp dẫn riêng biệt của những trang viết TL. + Đề 7: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ để thấy rõ 25
  26. phong cách riêng, độc đáo của nhà văn TL. I. Đặt vấn đề - Giới thiệu nhà văn TL- một phong cách riêng độc đáo. - HĐT là truyện ngắn hay, tiêu biểu cho phong cách văn chương TL. - Câu chuyện dựng lên bức tranh hiện thực về xã hội Việt Nam trước cách mạng với những số phận nhỏ bé, đáng thương của những kiếp người và niềm khát khao đổi thay của họ. - Sức hấp dẫn của truyện chính ở giá trị nghệ thuật độc đáo. II. Giải quyết vấn đề. 1. Cách dựng truyện. - Đây là loại truyện tâm tình, truyện không có truyện, không khai thác mâu thuẫn căng thẳng dồn nén, tích tụ mà đi sâu vào những chi tiết bình dị, đời thường. +. Thời gian ngắn: một khoảnh khắc chiều tà và vào đêm. +. Không gian nhỏ hẹp: một góc phố huyện nghèo nàn, hẻo lánh. +. Thế giới nhân vật ít. - Chi tiết đơn giản không có gì: cả truyện chỉ là những tâm tư, cảm xúc của những đứa trẻ nghèo tạo nên những ám ảnh, day dứt về cuộc sống nghèo nàn đơn điệu của xã hội Việt Nam trước cách mạng trong đó số phận con người nhỏ bé, đáng thương. +. Cái đơn điệu, tẻ nhạt của cuộc sống ấy được cảm nhận qua bức tranh thiên nhiên Cảnh chiều: buồn tàn lụi (phân tích) +. Cảm giác tiêu điều về cuộc sống: chợ tàn (phân tích). +. Hình ảnh con người nơi đây: tác giả không miêu tả nhiều chỉ cần một vài phiến ảnh nhưng cũng đủ làm nổi bật hình ảnh những kiếp người lay lắt, nhỏ bé, đang phải sống cuộc sống buồn tẻ, đáng thương: Chị Tí Bác Siêu Bác Xẩm Bà cụ Thi điên Tiền cảnh là chị em Liên ⇨ Văn TL không cần những mâu thuẫn gay gắt, nóng bỏng, không khiến cho lòng người phải uất ức, căn hờn. Văn TL chỉ cần những chi tiết, hình ảnh bình dị, chân thực nhưng gợi lên nỗi xót thương về cuộc sống không lối thoát, về những kiếp người nhỏ bé, đáng thương. 2. Thủ pháp tương phản: ánh sáng và bóng tối. - Câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối: +. Ánh sáng nhạt dần, yếu ớt không đủ soi tỏ cuộc sống xung quanh. +. Bóng tối dần chiếm lĩnh, bao phủ toàn tác phẩm. → tạo nên nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, tù đọng. Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ. - Trong bóng tối, ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu thực sự có ý nghĩa (phân tích). Nó đã đánh thức tâm hồn con người: khao khát một sự đổi thay, khao khát về một cuộc sống khác có ý nghĩa hơn. → Bóng tối tương phản với ánh sáng chính là một thành công độc đáo của tác phẩm. Nó góp phần thể hiện chủ đề của thiên truyện. 3. Khả năng miêu tả những rung động mong manh, tinh tế trong tâm hồn con người - Cảm giác mong manh mơ hồ như cánh bướm non, xúc cảm trong sáng tinh tế trong tâm hồn con người: diễn biến tâm trạng của Liên. - Trong buổi chiều quê buồn thấm thía, Liên cảm nhận được từng bước đi của thời gian. 26
  27. Cái lặng lẽ, man mác của buổi chiều quê như thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị: +. Tiếng trống nhịp thời gian trôi chảy. +. Tiếng ếch nhái cảm giác thân thuộc với cảnh đồng quê. +. Mùi vị đất cát quê hương mùi riêng. → Chỉ bằng vài nét chân thực đã khơi gợi được cảm giác thân quen của con người Việt. TL đã miêu tả diễn biến tâm trạng hết sức tinh tế tạo sức gợi trong lòng người đọc. - Giữa cái mênh mông, yên lặng của quê hương Liên thả tâm hồn mình mơ tưởng tới vũ trụ xa xanh với bầu trời đêm huyền bí đưa Liên trở về với quá vãng chưa xa thật êm đềm. Đó là giây phút lòng người neo đậu những cảm xúc thật yên tĩnh. +. Xúc cảm của Liên hướng tới việc chờ đợi đoàn tàu. Những trang viết miêu tả tâm trạng thật tinh tế (phân tích ngắn gọn tâm trạng Liên chờ tàu). ⇨ Hấp dẫn trong những trang văn của TL là ở khả năng khơi gợi những rung động tinh tế như thế trong tâm hồn con người. Tác phẩm của TL đậm đà tình cảm và rất giàu chất thơ, không phải ai cũng dễ dàng có được những trang văn tinh tế như thế nếu không xuất phát từ tấm lòng nhân hậu với cuộc sống, với con người. 4. Văn TL đẹp như thơ: ngữ điệu nhỏ nhẹ, thủ thỉ, câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu ru hồn người tạo nên những xúc cảm tinh tế mà trong sáng. - Quên làm sao được những trang văn miêu tả chiều quê đẹp thế. Nhịp điệu chậm rãi, êm ả, tạo ấn tượng mơ hồ về một quá vãng. Điều đó thể hiện tâm hồn gắn bó rất sâu với quê hương, với ruộng đồng. Nó đã gióng lên trong tâm hồn con người một nỗi niềm tha thiết “Chừng ấy con người trong bóng tối của họ”. - Văn đẹp như thơ góp phần thanh lọc tâm hồn con người, khiến cho những rung động mơ hồ trở nên thấm thía hơn. III. Kết thúc vấn đề. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của TL. Đó là một bài thơ trữ tình xót xa. Với những gì mà TL đã thể hiện, HĐT sẽ sống mãi trong lòng người đọc, giúp chúng ta biết nâng niu quí trong cái đẹp, dù nhỏ nhoi ở xung quanh ta, làm tâm hồn ta trong sáng hơn. Bài 2: Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân - I. Tiểu dẫn. 1. Tác giả. - Nguyễn Tuân (1910-1987) (77 tuổi). - Là nhà văn lớn, nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. - Đây là cây bút có phong cách nghệ thuật hết sức tài hoa độc đáo, xuất phát từ mong muốn: + Tài hoa xuất phát từ bản thân của Nguyễn Tuân. + Độc đáo: nằm ở chỗ Nguyễn Tuân luôn có ý thức xây dựng nhân vật tài hoa, nghệ sĩ. - Quê ở Hà Nội, xuất thân trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. - Là một nhà văn tài hoa, tài tử. - Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời. Một chuyến đi. Chiếu quê hương. Tùy bút “ Sông Đà”. - Trước năm 1945, cái tôi của Nguyễn Tuân được bộc lộ qua việc tìm kiếm cái đẹp của thư sĩ. - Nhận định: + “ Là một cái định nghĩa về người nghĩa sĩ”. (Nguyễn Minh Châu). + “ Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật”. (Nguyễn Đình Thi). 27
  28. 2. Tác phẩm: a. Xuất xứ: 1 trọng 11 truyện trong tập “ Vang bóng một thời” tập truyện dược đánh giá “ Gần đạt đến sự hoàn mỹ (1940)”. “ Vang bóng một thời” thuộc văn học lãng mạn. b. Nhan đề: - In trên tạp chí Tao Đàn (1939): Dòng chữ cuối cùng. - Năm 1940 tác giả đổi tên là “ Chữ người tử tù”. - “ Chữ” là nghệ thuật thư pháp rất được tôn vinh, thể hiện phẩm chất khí phách. Chữ là đẹp khi hội tụ dược đẹp của chữ và sâu của nghĩa ( Liên hệ: “Nét chữ là nét người”). - “ Dòng chữ cuối cùng” Sự kết thúc của đời người, ám ảnh nặng nề của cái chết, kỉ vật mà người sắp chết để lai, thể hiện sự tiếc nuối, không thể hiện được khí phách. - “ Chữ người tử tù” “ Chữ” là hiện thân của cái đẹp và tài được tôn vinh. “ Người tử tù” là cái xấu cái ác cần dược loại bỏ. Gợi ra tình huống éo le, ngang trái, gợi chủ đề tư tuởng, tôn vinh cái đẹp, tài, sự bất tử. - Bố cục: 3 phần: + Phần 1: Từ đầu đến lần nữa xem sao rồi sẽ liệu. ND: Bối cảnh gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục. + Phần 2: Sớm hôm sau đến phụ tấm lòng trong thiên hạ. ND: Mong muốn của viên quản ngục là được Huấn Cao cho chữ. + Phần 3: Còn lại ND: Cảnh cho chữ chưa từng có và những lời khuyên chí tình của Huấn Cao. - Tóm tắt: Chữ người tử tù kể về cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Trước khi chịu án chém, ông bị giam tại một nhà tù. Tại đây có viên quản ngục khâm phục tài năng viết chữ của Huấn Cao, cho dọn sạch sẽ buồng giam, nhìn sáu tên tử tù bằng ánh nhìn kiêng nể, tiếp rượu thịt đãi Huấn Cao. Huấn Cao căm ghét viên quản ngục vì cho rằng những kẻ cai tù thì đều độc ác như nhau. Trước ngày nghe tin Huấn Cao phải vào kinh chịu án. Viên quản ngục trăn trở lo âu khi vẫn chưa xin được chữ ông Huấn, giải bày tâm tư cùng với thầy thơ lại. Thầy thơ lại đi tới trại giam để nói về việc phải chịu án chém vào ngày mai và sở nguyện của viên quản ngục. Cảnh cho chữ đã được diễn ra ở khu nhà giam chật hẹp, ẩm mốc và lời khuyên chí tình mà Huấn Cao dành cho viên quản ngục. II. Tìm hiểu tác phẩm. 1.Tình huống truyện. - Tình huống truyện tình thế của câu chuyện, khoảnh khắc sự sống hiện ra đậm đặc, khoảnh khắc chứa đựng một đời người. - Gây sức hấp dẫn ở cốt truyện. - Tình huống gặp gỡ độc đáo. a. Bối cảnh gặp gỡ: - Không gian: Nhà tù, tồn tại cái xấu, cái ác. - Thời gian: Là vào những ngày cuối cùng của tử tù, trước khi Huấn Cao vào kinh chịu án, tâm lí hoảng loạn. b. Vị thế của các nhân vật: * Bình diện xã hội Đối địch. Huấn Cao. Viên quản ngục. -Tù nhân, tử tù. – Quan coi ngục - Thủ lĩnh cầm đầu khởi nghĩa, lật đổ trật tự xã hội. – Đại diện trật tự xã hội đương thời * Bình diện nghệ thuật tri âm, tri kỉ Huấn Cao. Viên quản ngục. -Nghệ sĩ thư pháp. – Liên tài 28
  29. - Sáng tạo ra cái đẹp. – Trân trọng, biết cảm nhận cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp. *Bình diện nhân cách Tri âm tri kỉ Huấn Cao. Viên quản ngục. -Có khí phách. – Kính mến khí phách - Trân trọng, tôn thờ tấm lòng trong thiên hạ. – Tấm lòng trong thiên hạ Vị thế chồng chéo. *Ý nghĩa: - Thúc đẩy cốt truyện phát triển. - Bộc lộ tình cảm nhân vật. + Huấn Cao: sự tài hoa, hiền lương, khí phách. + Viên quản ngục: Liên tài, có khí phách, hiền lương. - Bật sáng chủ đề: + Sự bất tử của cái đẹp, chiến thắng của cái đẹp. + Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp. - Thể hiện phong cách nghệ thuật: + Ưa khám phá về hiện tượng thẩm mỹ. + Những con người tài hoa. + Ưa thích với sự việc phi thường, độc đáo. 2. Nhân vật Huấn Cao. a. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. - Tài năng viết chữ đẹp, nghệ thuật thư pháp đó là một nghệ thuật cao quý. - Khi người ta viết chữ khéo sẽ tạo nên bức tranh chữ đẹp được coi là có giá trị phải đẹp của chữ và sâu của nghĩa thấy được tài hoa và trí tuệ người viết, khí phách, khí chất, lí tưởng. * Tài mang đến danh: - Nổi tiếng cả một vùng rộng lớn: Dẫn chứng: “ Cả vùng Tĩnh Sơn ta vẫn khen cái tài ” Tài không nhiều người có được, hi hữu. - Nổi tiếng đến một vùng, mọi người đều biết ngưỡng mộ đó là hiện tượng đặc biệt, giỏi, phi phàm, xuất chúng > Không phải tài bình thường mà đạt đến mức độ phi thường, siêu phàm. b. Vẻ đẹp của thiên lương. Dẫn chứng: “ Tính ông vốn khoảnh trừ chỗ tri kỉ ít chịu cho chữ”. - “Khoảnh” phần kiêu ngạo về tài năng của mình, ý thức rõ về tài năng, món quà đặc biệt mà thượng đế chí công ban tặng cho Huấn Cao, mà người đời không phải ai cũng có dược món đồ này. - “ Ít chịu cho chữ” Viết chữ không khó khăn gì, tôn trọng tài năng của mình, tôn trọng món quà mà thượng đế đã trao tặng cho mình, dành tặng cho những tấm lòng trong thiên hạ, tặng cho ba người bạn thân. 29
  30. Coi trọng giá trị của tài năng, sử dụng tài năng giống như món quà chỉ để dành tặng đền đáp tấm lòng thiên hạ. Dẫn chứng: “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. - “ Nhất sinh” Cả một đời, tâm nguyện lời thề mà Huấn Cao nghiêm túc thực hiện không vì vàng ngọc, không vì quyền thế Nhân cách nhà Nho, con người cao quý. - Có khí phách, khí chất, quan điểm cao quý, vàng ngọc không thể mua chuộc được những dòng chữ ấy, quyền thế không bao giờ khiến Huấn Cao cúi đầu cho chữ. Dẫn chứng: “ Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. - Sự tôn trọng đặc biệt của mình với kẻ liên tài. - Quan điểm sống: Sống ở đời phụ lòng người là điều không thể tha thứ, còn giây phút nào cuối đời thì không cho phép phụ lòng người, biết sửa sai, bằng mọi giá đền đáp tấm lòng trong thiên hạ Biểu hiện thiên lương cao quý. c. Vẻ đẹp khí phách. * Tinh thần nghĩa hiệp: Huấn Cao cầm đầu một cuộc đại phản chống lại triều đình mà ông căm ghét, chống lại trật tự xã hội >< Huấn Cao học đạo Nho, phải mang tư tuởng ái quốc, trung Quân. Huấn Cao giỏi chữ nghĩa nhưng ông không đi vào lối mòn, không theo đạo chữ Hiếu, bất đồng với triều đình, sự cai trị của triều đại đương thời, dám chấp nhận hậu quả, tinh thần sẵn sàng đấu tranh vì nghĩa lớn. * Tư thế đàng hoàng, hiên ngang, bất khuất: - Giữ vị trí đầu chủ soái dỗ gông. - Huấn Cao không để tâm, lạnh lùng trút đầu thang gông, coi chúng chỉ là bọn tiểu lại, thấp kém, coi thường. * Bản lĩnh cứng cỏi không sợ quyền uy, không sợ cái chết. - Huấn Cao tiếp nhận biệt đãi, Huấn Cao chưa hiểu lý do, Huấn Cao không quan tâm vì bọn cai tù là độc ác, âm mưu, ông không quan tâm thản nhiên thưởng thức Cao hơn bạo lực tăm tối nhà tù Không sợ hãi âm mưu. - Khi viên quản ngục đã xuống phòng giam, hỏi câu ân cần, chu đáo. Huấn Cao tỏ ra khinh bạc “ Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” thái độ bất mãn vì trong mắt Huấn Cao, viên quản ngục chỉ thuộc hệ thống những kẻ tiểu lại giữ tù, nhà tù xưa nay chỉ tồn tại sự lừa lọc, xấu, ác, kẻ giữ tù toàn bọn tiểu nhân độc ác, xấu xa, ác độc, thể hiện sự căm ghét. - Khi nghe tin mình sắp vào kinh chịu án, Huấn Cao mỉm cười, xác định trước kết quả tất yếu, thanh thản vì thực hiện lý tưởng cao đẹp của đời vì dân, cuộc sống, không nuối tiếc. Đáng ngưỡng mộ, khâm phục. d. Sự tỏa sáng ba vẻ đẹp trong cảnh cho chữ. * Vẻ đẹp của tài hoa: Không còn đồn đại, đang hiện hình, nét chữ vuông tươi tắn, hoài bão tung hoành của một đời người Minh họa cho bức tranh thư pháp hoàn hảo Lý tưởng của nam nhi thời xưa ( Liên hệ: “ Làm trai cho đáng nên trai, Xuống đông đông tĩnh nên đoài đoài yên” gói trọn trong nét chữ của Huấn Cao. * Vẻ đẹp của khí phách: Huấn Cao mỉm cười, lặng người khi nghe thầy thơ lại thông báo, bộ dạng của Huấn Cao khiến người khác dễ hiểu lầm, Huấn Cao không sợ hãi mà ông thương cho viên quản ngục, ái ngại cho viên quản ngục tâm tốt thẳng thắn mà phải ăn đời ở kiếp. Cảnh tượng cho chữ đã tráo đổi vị trí cho nhau, thái độ quyền uy, ung dung đỡ viên quản ngục đứng lên. * Vẻ đẹp của thiên lương: Huấn Cao nhận lời cho chữ viên quản ngục, nhận ra tấm lòng trong thiên hạ, hiểu dược tấm lòng của viên quản ngục, dành nét chữ cuối cùng cho viên 30
  31. quản ngục. Huấn Cao đỡ viên quản ngục đứng lên đĩnh đạc đưa ra lời khuyên chí tình, xuất phát từ chỗ Huấn Cao ái ngại tình cảnh của viên quản ngục, cảm hóa thiên lương của viên quản ngục. e. Tổng hợp đánh giá. * Nguyên mẫu: Hình tượng nhân vật Huấn Cao có nguyên mẫu từ Cao Bá Quát, con người lỗi lạc ở thế kỉ trung đại, tìm ra điểm tương đồng với Cao Bá Quát. - Huấn Cao: người họ Cao giữ chức huấn đạo coi sóc việc học ở địa phương ~ Cao Bá Quát cũng họ Cao, giữ nhiệm vụ coi sóc việc học ở địa phương. - Huấn Cao là người tử tù, dám cầm đầu một cuộc đại phản chống lại triều đình mà ông căm ghét ~ Cao Bá Quát là thủ lĩnh, quân sư cho cuộc khởi nghĩa nhân dân và cũng bị bắt giữ. - Huấn Cao là một người tài hoa, nghệ sĩ ~ Cao Bá Quát được coi là thần siêu thánh Quát nổi tiếng. - Huấn Cao đưa ra lời khuyên cho viên quản ngục, coi trọng những tấm lòng trong thiên hạ, viên quản ngục chỉ cúi đầu trước người sáng tạo ra cái đẹp ~ Cao Bá Quát “ Nhất sinh đê thả bái hoa mai” cả đời chỉ cúi đầu trước những gì thanh cao thuyết phục hấp dẫn hơn. * Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Khắc họa nhân vật mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn: Nhân vật Huấn Cao giống như phần lớn các nhân vật trong truyện của Nguyễn Tuân: là một con người tài hoa tài tử > < hoàn cảnh sống). *Suy nghĩ của nhân vật viên quản ngục: - Tự nhận thức bi kịch nhầm nghề, lầm đường lạc lối. - Tự cảm thấy mình sống trong hoàn cảnh sống mà mình thấy không phù hợp, con người khát vọng bị con người chức phận cầm tù và giam hãm số phận bi kịch. b. Một tâm hồn cao đẹp. * Vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ: Mặc dù không được trời phú cho tài hoa nghệ sĩ như Huấn Cao nhưng viên quản ngục là người có tâm hồn nghệ sĩ biết yêu cái đẹp trọng cái tài sáng 31
  32. tạo ra cái đẹp. Có sở nguyện cao quý là có bức tranh chữ đẹp treo trong nhà, niềm mong ước thiết tha, cháy bỏng, đam mê với cái đẹp ( nghệ thuật thư pháp) xem như vật báu biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ. * Vẻ đẹp của khí phách: - Tình huống gặp gỡ éo le: Đặt nhân vật viên quản ngục vào tình thế khó xử: không biết đối xử với Huấn Cao thế nào. Nếu làm theo tư cách của một người giữ ngục, kêu thêm lính gác thì đó là việc làm đang chà đạp cái đẹp, cái tâm hồn, suy nghĩ tôn thờ cái đẹp trong lòng. Nếu đối xử với Huấn Cao như một người biết quý trọng cái đẹp thì đang đi ngược lại với nhà tù thực dân phong kiến. - Trầm tư nghĩ ngợi : Không ngủ được, nghĩ mãi, gương mặt đầy trăn trở. Viên quản ngục chọn cho mình quyết định cuối cùng. - Quyết định: biệt đãi với Huấn Cao, bất chấp nguy hiểm tính mạng, phá vỡ trật tự xã hội quyết định liều lĩnh khơi dậy từ tâm hồn nghệ sĩ. - Hành xử bất thường: Viên quản ngục nhìn sáu tên tử tù bằng cặp mắt hiền lành, kiêng nể, biệt nhỡn đối với Huấn Cao. Dâng rượu và đồ nhắm trước bữa cơm tù cho Huấn Cao và những người bạn tù. Xuống tận phòng giam của Huấn Cao bất cẩn, khao khát cái đẹp. * Vẻ đẹp thiên lương: - Say mê, tôn thờ nghệ thuật thư pháp: nghệ thuật của cái đẹp, trí tuệ, khí phách, khí chất tồn tại tiềm ẩn ước vọng sống đẹp. - Sự trân trọng, ngưỡng mộ cái tài: người nghệ sĩ thư pháp tài hoa Huấn Cao ( dẫn chứng: “ Một kẻ kính mến khí phách, biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình”). - Được nhà văn Nguyễn Tuân cho lời nhận xét là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. * Các vẻ đẹp hội tụ và tỏa sáng trọng cảnh cho chữ. - Giới thiệu cảnh cho chữ: Thiết tha, trân trọng, sùng kính Huấn Cao, nhưng Huấn Cao khinh bạc viên quản ngục cho rằng viên quản ngục giống bọn cai tù tiểu nhân, Huấn Cao hiểu ra sở nguyện cao quý của viên quản ngục, Huấn Cao ân hận, Huấn Cao cho chữ, đặt vào không gian thời gian đặc biệt, người nghệ sĩ tài hoa dành tặng nét chữ cho viên quản ngục. - Vẻ đẹp của nhân vật viên quản ngục: + Vẻ đẹp của khí phách: Dám tổ chức một đêm cho chữ, xin chữ ngay tại phòng giam của tên tử tù liều lĩnh. + Vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ: Chụm lại trên bức lụa chứng kiến nét chữ, viên quản ngục khúm núm đánh dấu ô chữ, đứng trước Huấn Cao thể hiện sự sùng kính ngưỡng mộ với cái đẹp. + Vẻ đẹp của thiên lương: Huấn Cao tặng cho viên quản ngục những lời khuyên chí tình, viên quản ngục chấp tay vái người tù, nuớc mắt rỉ vào kẻ miệng, làm cho nghẹn ngào ( Liên hệ: “ Nhất sinh đê thả bái mai hoa”) . c. Tổng hợp đánh giá: * Nghệ thuật xây dựng nhân vật: - Nghệ thuật khắc họa mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn: + Những người tài hoa, tài tử >< phàm tục xa lạ. + Đặt vào tình huống gặp gỡ độc đáo đặc biệt. + Tác giả sử dụng thủ pháp: Cường điệu, phóng đại, đối lập, tương phản. -Tác giả sử dụng nhiều đoạn độc thoại nội tâm, khắc họa nhân vật thiên về chiều sâu tâm lí, soi rõ thế giới tâm tư nhân vật. 32
  33. * Nội dung, tư tưởng: - Thông điệp: Trong mỗi một con người luôn luôn có một người nghệ sĩ, một tâm hồn yêu cái đẹp, trọng cái tài. - Thông điệp: Cái đẹp có khi tồn tại bền bỉ và mạnh mẽ trong môi trường của cái xấu, cái ác, vươn lên giống như một bông hoa sen thơm ngát giữa đầm lầy. 4. Cảnh tượng cho chữ. a. Tình huống cho chữ chưa từng có. - Không gian: Là một căn buồng tối ẩm ướt, chật hẹp, mạng nhện, phân chuột, phân gián, nơi xưa nay tồn tại cái xấu cái ác, lọc lừa tàn nhẫn. - Thời gian: đêm tối nhưng lại là những giây phút cuối cùng của một con người tài hoa, dành trọn giây phút để dậm tô nét chữ, tặng lại cái đẹp cho đời, tặng cho tấm lòng tri âm, tri kỉ. - Vị thế: Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng, những lời khuyên chí tình cho người khác. Kẻ xin chữ lẽ ra là kẻ có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn. b. Cảnh tượng chưa từng có: * Thủ pháp đối lập, tương phản dựng lên song hành cảnh nhà giam và cảnh cho chữ: Cảnh nhà giam. Cảnh cho chữ. Cảnh tượng: Tối tăm, bẩn thỉu, hôi hám. – sáng rực lên hình ảnh bó đuốc, vuông lụa trắng tình, mùi mực thơm Con người: Quản ngục thầy thơ lại, tử tù cổ đeo – Kẻ liên tài yêu cái đẹp, trọng cái tài gông, chân vướng xiềng xích người nghệ sĩ thư pháp ung dung đĩnh đạc Sự hình thành của cái đẹp đó là những nét chữ vuông tươi tắn hoài bão tung hoành của một đời người. Thông điệp: Niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của ánh sáng, cái đẹp, cái thiện. c. Cảnh cho chữ là cảnh chưa nay chưa từng có vì một số lý do: - Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị - Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lý, thể xác trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau. - Người quản ngục là người có quyền bắt buộc tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn, có quyền cho hay không cho chữ. d. Sự cảm hóa chưa từng có. - Cái đẹp có thể sinh ra từ đất chết, từ nơi tội ác ngự trị nhưng không có thể sống cùng với tội ác. - Lời khuyên chí tình: Con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương cho tâm hồn, muốn giữ được thiên lương phải tránh xa tội ác. - Sự bái lĩnh, đón nhận. e. Ý nghĩa của cảnh cho chữ: - Ca ngợi tấm lòng thiện lương của hai nhân vật: Huấn Cao và viên quản ngục cùng với tâm hồn nghệ sĩ, vẻ đẹp của khí phách. - Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất. - Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người Huấn Cao. - Tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: xây dựng nhân vật, sử dụng thành công thủ pháp đối lập, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, tạo tình huống truyện độc đáo. III. Tổng kết. 1.Giá trị nội dung: - Niềm tin chiến thắng của cái đẹp, cái lương thiện. 33
  34. - Quan điểm thẩm mỹ tiến bộ. - Khắc họa thành công hình ảnh nhân vật Huấn Cao. - Bày tỏ những quan điểm về cái đẹp, sự ngưỡng mộ đối với những người có tâm, bộc lộ khao khát giữ gìn giá trị đẹp đẽ của dân tộc, yêu quý trân trọng giá trị văn hóa truyền thống dân tộc biểu hiện của lòng yêu nước thầm kín. 2. Đặc sắc nghệ thuật - Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc, độc đáo. - Văn phong tài hoa. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn. - Khắc họa thành công nhân vật Huấn Cao, Viên quản ngục. - Dựng cảnh điêu luyện, ngôn ngữ giàu hình ảnh. * Một số câu cần lưu ý học thuộc để dẫn chứng: + Hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không? + Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. + Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. + Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tàng đánh thuỳnh một cái. + Hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. + Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây. + Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quản ngục này coi là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. + Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. + Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. + Ta rất cảm cái tấm biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. * Một số đề thi: + Đề 1: Phân tích vẻ đẹp nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn chữ người tử tù - Nguyễn Tuân. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật Huấn Cao. (0,5đ). Thân bài: * Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ: (1,5đ). - Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân và qua niềm cảm phục của những viên coi ngục, Huấn Cap hiện lên như một người “văn võ đều tài cả” với “tài bẻ khóa vượt ngục” và tài viết chữ rất nhanh và đẹp. Nhưng trong suốt tác phẩm, “tài bẻ khóa vượt ngục “ của Huấn Cao chưa một lần được thực thi, trong khi “tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp” lại được khắc sâu, nhấn mạnh nhiều lần qua nhiểu chi tiết. Nguyễn Tuân chủ yếu dành niềm say mê, trân trọng ngợi ca trước tài năng viết chữ của Huấn Cao, đồng thời dồn tài năng và tâm huyết khắc họa như một bậc thầy thư pháp, một người nghĩa sĩ tài hoa trong việc sáng tạo ra cái đẹp cho đời. - Tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp của Huấn Cao không chỉ được dân chúng cả vúng ĩnh Sơn khen ngợi mà còn hiện lên trong niềm cảm phục, trân trọng sâu xa của quản ngục. Trong niềm ao ước thiết tha của quản ngục, “chữ của ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”, có 34
  35. được chữ ông Huấn mà treo trong nhà là có một vật báu trên đời. Đối với viên quản nục nà, nếu không xin được nét chữ qus của ông Huấn thì sẽ “ ân hận suốt đời”, còn nếu xin được là đã mãn nguyện. - Bản thân Huấn Cao cũng luôn ý thức đặc biệt sâu sắc về tài năng thư pháp của mình: “chữ thì quý thực”, “những nét chữ vuông, tươi tắn nó nói lên hoài bão tung hoành của một đơi người”. Ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân như thế cũng là cội nguồn tạo nên tính cách kiêu bạc của Huấn Cao. Hình tượng nhân vật nà là hiện thân tiêu biểu cho niềm say mê vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ hơn đời của con người, cho cái tôi “ngông” và khinh bạc vốn rất tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng. * Vẻ đẹp của khí phách cứng cỏi: (1,25đ). - Huấn Cao cầm đầu một cuộc đại phản chống lại triều đình mà ông căm ghét. Huấn Cao giỏi chữ nghĩa nhưng ông không đi vào lối mòn, không theo đạo chữ Hiếu, bất đồng với triều đình, sự cai trị của triều đại đương thời, dám chấp nhận hậu quả, tinh thần sẵn sàng đấu tranh vì nghĩa lớn. - Nguyễn Tuân đã để cho Huấn Cao lần đầu tiên xuất hiện trước người đọc bằng một hành động rất gây ấn tượng mạnh: dỗ cái gông lim nặng tới 7-8 tạ đang đè lên cổ mình và năm người đồng chí của mình xuống thềm đá tảng trại giam “đánh thuỳnh một cái” bất chấp những lời đe dọa của bọn lính áp giải. Đó không chỉ là hành dộng ngang nhiên, coi thường bọn lính mà còn là hành động biểu thị tự do: Huấn Cao đã muốn là làm, hoàn toàn có thể làm được. Sau hành dộng ấy, sáu tử ù hiện lên như một bọn thợ nề và cái gông lim khủng khiếp chỉ còn là một cái thang gỗ bình thường, không đáng sợ. Như vậy, chỉ bằng hành động dỗ gông, Huấn Cao đã khiến cho mọi uy quyền của nhà tù trở nên vô nghĩa. Cũng từ đó, Huấn Cao sừng sững đi cho đến hết sinh mệnh của mình trong thiên truyện. - Trong tù, Huấn Cao vẫn “thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Con người ấy không chỉ giữ nguyên lối sống như khi còn tự do, mà còn dám nói thẳng vào mặt quản ngục câu nói: “khinh bạc đến điều”: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Điều kì lạ là quản ngục lại “xin lĩnh ý”, lễ phép lui ra và từ đó không bao giờ đặt chân vào buồng giam Huấn Cao nữa. Hóa ra, Huấn Cao mới là người làm chủ chốn ngục tù. - Bản thân Huấn Cao cũng luôn ý thức về khí phách hiên ngang, cứng cỏi, bất khuất của mình: “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Đó là khí phách cứng cỏi, hiên ngang của một người mà nga cả trong hoàn cảnh bị trói buộc tù túng vẫn không bao giờ cúi đầu trước sức mạnh của quyền uy, của cái chết. * Vẻ đẹp thiên lương trong sáng (1,25đ). - Bên cạnh một con người ngạo nghễ, hiên ngang còn có một tấm lòng biết trân trọng giá trị con người. - Tài viết chữ của Huấn Cao rất nổi tiếng nhưng ông không lấy tài năng để kiếm tiền . Ngược lại , tính ông vốn khoảnh, cả đời mới viết hai bộ tứ bình và một bưc trung đường tặng cho ba người bạn thân. Huấn Cao chỉ thực sự động lòng trước những ai biết quý và trân trọng cái đẹp. - Tưởng quản ngục là kẻ tầm thường, làm nghề thất đức, Huấn Cao không hề giấu diếm sự khinh miệt, thái độ coi thường của mình. Nhưng khi biết được sở nguyện cao quý của ông, Huấn Cao không những vui vẻ cho chữ mà còn thốt lên những lời hối hận chân thành: Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói cho thấy quan niệm nhân sinh và phẩm chất, tâm hồn cao đẹp của Huấn Cao, sống là phải xứng đáng với những tấm lòng. Huấn Cao đã dặn dò, nhắn nhủ những lời tâm huyết tới viên 35