Tài liệu ôn thi học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 7 - Năm học 2022-2023 (Có gợi ý)

docx 104 trang Hàn Vy 02/03/2023 26927
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn thi học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 7 - Năm học 2022-2023 (Có gợi ý)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtai_lieu_on_thi_hoc_sinh_gioi_ngu_van_lop_7_nam_hoc_2022_202.docx

Nội dung text: Tài liệu ôn thi học sinh giỏi Ngữ văn Lớp 7 - Năm học 2022-2023 (Có gợi ý)

  1. TÀI LIỆU ÔN THI HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN LỚP 7 NĂM 2022-2023 Đề 1: Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: Bầu trời trên giàn mướp (Hữu Thỉnh) Thu ơi thu ta biết nói thế nào sương mỏng thế ai mà bình tĩnh được hứa hẹn bao nhiêu bầu trời trên giàn mướp lúc hoa vàng thu mới chập chờn thu ngỡ như không phải vất vả chi nhiều sau tiếng sấm thế là trời mới mẻ quả đã buông thủng thẳng xuống bờ ao ta cứ tưởng đất sinh sôi thật dễ trời thu xanh và hoa mướp thu vàng thưa mẹ những năm bom nơi con không thể có bến phà con đã qua, rừng già con đã ở gặp vạt lúa nương con cũng viết thư về nên không dám dù một giây sao nhãng bầu trời này từng dẫn dắt con đi. (Theo www.nhavantphcm.com.vn, 20/9/2014) Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? A. Tự do B. Tám chữ C. Lục bát D. Năm chữ Câu 2. Từ “ thủng thẳng” là loại từ nào? A. Từ đơn B. Từ ghép C. Từ láy D. Từ ghép tổng hợp Câu 3. Bài thơ có bố cục mấy phần? A. Ba phần B. Hai phần c. Bốn phần D. Một phần Câu 4. Tín hiệu đầu tiên của mùa thu được tác giả cảm nhận là hình ảnh nào? A. Hương ổi B. Làn sương mỏng C. Hoa cúc D. Trời xanh Câu 5. Bài thơ là lời của ai nói với ai? A. Con nói với mẹ B. Cháu nói với bà B. Anh nói với em D. Cha nói với con Câu 6. Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là? A. Tự sự B. Biểu cảm C. Nghị luận D. Miêu tả. Câu 7. Khung cảnh thiên nhiên của mùa nào được gợi tả qua tác phẩm? A. Mùa hạ B. Mùa thu C. Mùa đông D. Mùa xuân
  2. Câu 8. Nội dung chính của khổ thơ thứ nhất là gì? A.Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa thu qua hình ảnh bầu trời xanh và giàn mướp hoa vàng. B. Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa thu. C. Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa thu qua hình ảnh giàn mướp hoa vàng. D. Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa thu qua hình ảnh bầu trời xanh Câu 9. Nêu nội dung chính của hai khổ thơ sau? Câu 10. Viết đoạn văn ( 5 – 7 dòng) nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh thơ: trời thu xanh và hoa mướp thu vàng ? II. Phần viết: Phân tích đặc điểm nhân Dế Mèn trong đoạn trích “ Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa” ( Trích “ Dế Mèn phiêu lưu kí” ) của Tô Hoài? Tiếng ông cụ gọi loa vang đài. Ai nấy lặng yên nghe. Bỗng một tiếng đáp vang động : “Có ta đây!” Rồi anh chàng Bọ Ngựa ban nãy vừa lôi thôi với tôi, nhảy vót lên. Cơ nguy cho Trũi, vì xem anh chàng Trũi đã có vẻ mệt. Vả lại, thấy Bọ Ngựa ngông ngáo, nhớ chuyện ban nãy ở quán hàng, cái bực mình trong tôi tức tốc trở lại. Tôi nhảy phắt lên đài, quát: - Khoan khoan, đây trước đã, Nhớ hẹn chứ? Bọ ngựa lùi lại rồi “à” một tiếng rõc to, nghênh hai thanh gươm lên – vẫn một điệu tự cao, tự đại như thế. Lại như lệ trên trường đấu ngày ấy, trước khi vào cuộc, mỗi bên biểu diễn một vài đường quyền, theo sở trường của mình. Bọ ngựa đứng vươn mình, đi bài song kiếm. Bóng kiếm loang loáng, mù mịt như hoa may điệu bộ khá đẹp mắt. Tôi chẳng cần đi bài gì hết. Tôi đứng nghiêng người về đằng trước, hếch hai càng lên. Cứ hai càng ấy, tôi ra oai sức khoẻ, đạp phóng tanh tách liên tiếp một hồi gió tuôn thành từng luồng xuống bay tốc cả áo xanh, áo đỏ các cô Cào Cào đứng gần. Lúc vào đấu, Bọ Ngựa cao nên lợi đòn. Hai gươm hắn bổ xuống đầu tôi chan chát. Nhưng đầu tôi đầu gỗ lim tôi lựa cách đỡ, không vần gì hết. Còn tôi đoản người, tôi nhè bụng hắn mà đá, khiến có lúc hắn phải hạ gươm xuống đỡ, mất đà, đâm loạng choạng. Biết không chém được đầu tôi, hắn liền đổi miwngs ác, co gươm, quặp cổ tôi. Hắn định lách gươm nghiêng vào khe họng – chỗ hiểm, cuống họng tôi có khe thịt dễ đứt. Thấy thế nguy, tôi gỡ đòn, cúi xuống, thúc nhanh một răng rất sâu vào bụng hắn. Choáng người, Bọ Ngựa nhảy lộn qua lưng tôi. Tôi cũng chỉ đợi có thế . Vừa đúng là càng – lừa vào miếng võ gia truyền của nhà Dế, tôi lấy tấn, đá hậu đánh phách một đá trời giáng vào giữa mặt anh chàng. Chàng Bọ Ngựa kiêu ngạo rú lên một tiếng bắn tung lên trời, rơi tọt ra ngoài võ đài, ngã vào đám đông xôn xao. Gợi ý : Phần Câu Nội dung Điểm
  3. 1 Bài thơ được viết theo thể thơ tự do. 0.5 2 Từ láy 0.5 3 Bố cục của bài thơ: 2 phần 0.5 4 Làn sương mỏng 0.5 Đọc 5 Lời con nói với mẹ 0.5 hiểu 6 Biểu cảm 0.5 7 Mùa thu 0.5 8 Vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên mùa thu qua hình 0.5 ảnh bầu trời xanh và giàn mướp hoa vàng. 9 Nội dung chính của hai khổ sau: Nỗi niềm xúc động của 1.0 tác giả khi đối diện với khung cảnh hiện tại và hoài niệm về quá khứ. 10 Trời thu xanh và hoa mướp thu vàng là những hình ảnh 1.0 đẹp, hài hòa về màu sắc. Sắc xanh của bầu trời và sắc vàng của hoa mướp mở ra không gian khoáng đạt, cao rộng, gợi sự bình yên, thanh thản, nhẹ nhõm trong tâm hồn con người. Phần a.Yêu cầu về hình thức: Viết - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, đảm bảo đúng thể loại phân tích đặc điểm nhân vật. b. Yêu cầu nội dung: Đảm bảo một số vấn đề cơ bản sau: +) Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và nêu đặc điểm chung về nhân vật Dế Mèn trong đoạn trích. + ) Thân bài: - Dế Mèn đĩnh đạc, chững chạc, lịch thiệp trong màn diện kiến võ sĩ Bọ Ngựa . + Mèn đi trẩy hội hoa may cùng họ Chuồn Chuồn với hăm hở của một tráng sĩ và có cơ hội tham gia cuộc thi võ đỏ kén ai tài giỏi nhất đứng ra coi sóc việc chung trong vùng. + Chưa lên võ đài, nhưng Mèn đã có vinh dự lớn "sơ kiến" võ sĩ Bọ Ngựa. Võ sĩ có "bước chân ngỗng", con mắt "đu đưa", lưỡi có "răng cưa". Hai lưỡi gươm lợi hại
  4. cắp bên mạng sườn. Hai sợi râu "phất lên phất xuống". Rất "hách dịch", đi đứng "ra lối quan dạng" tỏ vẻ ta đây, coi thiên hạ bằng nửa con mắt! + Tại quán hàng cỏ, võ sĩ Bọ Ngựa đã "bổ luôn" một nhát gươm vào đầu Mèn "đau điếng" vì cái tội đi đứng "đủng đỉnh" mục hạ vô nhân của Mèn. Mèn "đá hậu cú song phi" nhưng võ sĩ Bọ Ngựa đã né được! + Dưới mắt Mèn thì Bọ Ngựa chỉ có "mấy miếng võ xoàng", "cái oai rơm rác và lố bịch" ấy chẳng cần để mắt đến. Võ sĩ Bọ Ngựa là "cháu đích tôn cụ võ sư Bọ Ngựa", phen này sẽ tranh được "chân trạng võ", ai cũng sợ và tin như thế nên bác Cành Cạch đã hết lời khuyên Dế Mèn "mau mau tránh đi nơi khác ". - Dế Mèn trong cuộc đấu võ thực sự là một trang tuấn kiệt + Lúc đầu Mèn chỉ “ ra oai sức khoẻ” hếch đôi càng mẫm bóng "đạp phóng tanh tách" tuôn ra những luồng gió lớn Cả hai đã trải qua ba hiệp, cả hai võ sĩ xông vào nhau nhau ra đòn bằng tuy lực và sở trường của mình, với những thể đánh, những miếng võ cực hiếm nhằm đánh gục đối thủ. + Hiệp một, lợi thế nghiêng về võ sĩ Bọ ngựa. Bọ Ngựa "cao nên lợi đòn" đã dùng hai gươm bổ xuống đầu Mèn những nhát "chan chát". Mèn dùng "đầu gỗ lim" để chống đỡ, đồng thời áp sát vào đánh gần, cứ "nhè bụng" Bọ Ngựa mà đá, khiến địch thủ phải "hạ gươm xuống đỡ, mất đà đầu loạng choạng". Mèn đã đánh thấp, đánh gần, công thủ mưu trí nên về sau giành được thế chủ động làm cho võ sĩ Bọ Ngựa rối loạn đấu pháp. + Hiệp hai, Bọ Ngựa "đổi miếng ác", co gươm quắp cổ Mèn, "định lách gươm nghiêng vào khe họng" của Mèn, nơi có khe thịt dễ đứt! Mèn đã nhanh trí đổi công "cúi xuống, thúc nhanh một văng rất sâu vào bụng" Bọ Ngựa, làm cho địch thủ "choáng người". + Hiệp ba, Bọ Ngựa thất thế hoàn toàn "nhảy lộn qua lưng Mèn". Và Mèn đã bôi một đòn hiểm, giáng một đòn quyết định, hạ đo ván cháu đích tôn cụ võ sư Bọ Ngựa. Mèn lấy tấn, đá hậu đánh phách một đá trời giáng vào giữa mặt Bọ Ngựa làm cho hắn "rú lên" rơi tọt
  5. xuống võ đài. Đó là miếng võ gia truyền của họ nhà dế. Đám hội trở nên ồn ào nhốn nháo vì không ai ngờ võ sĩ Bọ Ngựa lại "thua nhanh và thua đau" như thế! => Dế Mèn và Dế Trũi được đám hội tôn lên làm chánh, phó thủ lĩnh đứng đầu các làng trong vùng cỏ may. Cả hai được đám hội xô vào làm kiệu rước. Dế Mèn đã đạt tới vinh quang tột đỉnh trên con đường phiêu lưu. Cuộc tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa là một trang đời phiêu lưu của chú Dế Mèn đáng yêu. * Đọc chương "Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa", ta cảm thấy mình như đang được mục kích những cuộc giao đấu so tài của các trang hiệp sĩ thời trung cổ. Tô Hoài đã sử dụng rất hay một số từ ngữ về võ thuật như: giang hồ, võ đồng môn, song kiếm, chùy, lên tấn, miếng võ, đường quyền, đá hậu, tranh lèo giật giải , gợi tả không khí đua tranh của khách giang hồ thượng võ. Qua đoạn văn này, ta thấy nhân vật Dế Mèn thật đáng yêu. Chú đã có một lối sống cao đẹp, đàng hoàng trước thiên hạ, dám đọ trí, đua tài với người đời. Không còn nữa một Dế Mèn hung hăng ngổ ngáo. Chỉ thấy bấy giờ, một Dế Mèn khiêm cung, độ lượng, biết trọng danh dự của mình. Khi ấy trước anh chàng Bọ Ngựa kiêu căng, Dế Mèn đã chiến thắng trong tiếng hoan hô cuồng nhiệt. Dế Mèn đánh thắng võ sĩ Bọ Ngựa đâu chỉ để tranh lèo giật giải mà còn thể hiện một cách ứng xử của các hảo hán, anh hùng xưa nay: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!" ( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) -) Nhân vật Dế Mèn trong “Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa” được xây dựng bằng những hình thức nghệ thuật đặc sắc. - Nghệ thuật tả loài vật, tả hoạt cảnh, lối kể chuyện có thắt, có mở, tạo đỉnh điểm cao trào của cuộc tranh hùng giữa võ sĩ Bọ Ngựa và Dế Mèn vô cùng hấp dẫn. + Tô Hoài đã quan sát các con vật hết sức kỹ lưỡng, tinh tế từ hình dáng bên ngoài, đến từng chi tiết, từng hoạt động. Ông khéo léo vận dụng các giác quan, chọn góc nhìn phù hợp, trình tự quan sát hợp lý để khắc họa nhân
  6. vật đúng với đặc điểm giống loài, hợp với cái nhìn trong trẻo, thơ ngây đầy khám phá của trẻ thơ. Tô Hoài có khả năng hóa thân vào sự sống của loài vật đồng thời lại thổi vào thế giới loài vật sự sống của con người. Sự chung sống, hòa trộn của hai thế giới ấy tạo nên sức hấp dẫn mãnh liệt cho đoạn trích nói riêng và của tác phẩm nói chung. Dế Mèn trong “ Tranh hùng với võ sĩ Bọ Ngựa” trích “ Dế Mèn phiêu lưu ký” mang tính nhân hóa khi được khắc họa có hành động, ngôn ngữ, có đời sống nội tâm và được đặt trong những mối quan hệ mang tính xã hội thể hiện tính cách người của nhân vật. Mèn có đời sống nội tâm phong phú với những suy nghĩ, ước ao, khát vọng và cả những toan tính đời thường. Điều đó khiến nhân vật mang đậm hơi thở cuộc sống, gần gũi với con người. Mèn khát khao cháy bỏng một khát vọng lên đường, để mỗi bước đi sẽ thấy một sự đổi thay, mỗi sáng mỗi chiều sẽ thấy một cảnh lạ, sẽ gặp gỡ nhiều người. + Việc sử dụng phép nhân hóa và ẩn dụ đã khiến cho nhân vật Dế Mèn vô cùng sinh động. Dế Mèn - một thanh niên, sống có lý tưởng, coi thường tiền tài danh vọng, sẵn sàng xả thân, trừng trị kẻ hống hách, hăng say hoạt động để phụng sự lý tưởng được đặt cạnh Bọ Ngựa là hạng người kiêu ngạo khoác lác khiến cho thế giới loài vật hiện lên vô cùng hấp dẫn. +Với vốn sống phong phú, tài quan sát sắc sảo, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ giàu có và sáng tạo độc đáo Tô Hoài tạo ra chân dung nhân vật Dế Mèn và các loài vật khác vô cùng sinh động mở ra một thế giới nghệ thuật kỳ thú, vượt lên thời gian, đem lại niềm vui thích không chỉ cho trẻ em mà ngay cả với người lớn +) Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp nhân vật Dế Mèn – tinh thần thượng võ của Mèn trong đoạn trích. Đề 2: Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới: THỜI GIAN Thời gian qua kẽ tay Làm khô những chiếc lá Kỷ niệm trong tôi Rơi như tiếng sỏi
  7. trong lòng giếng cạn Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh Và đôi mắt em như hai giếng nước. (Theo Văn Cao, cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn học, 1996, tr.80) Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? A. Tự do B. Tám chữ C. Bảy chữ D. Năm chữ Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là ? A.Tự sự B. Biểu cảm C. Nghị luận D. Miêu tả Câu 3. Hai câu thơ “Riêng những câu thơ còn xanh Riêng những bài hát còn xanh” Sử dụng biện pháp tu từ nào? A. Nhân hoá B. Ẩn dụ C.Điệp ngữ và ẩn dụ D. Điệp ngữ và nhân hoá Câu 4 Cụm từ “những câu thơ”, “những bài hát” trong hai câu thơ 5 và 6 có ý nghĩa gì ? A. Những điều có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời gian. B. Những điều bình dị trong cuộc sống. C. Cái đẹp luôn tiềm ẩn trong cuộc sống của chúng ta. D. Những điều lớn lao trong cuộc sống Câu 5. Từ “còn xanh” trong hai câu thơ 5 và 6 diễn tả điều gì? A. Màu xanh của lá B. Sự tồn tại mãi mãi với thời gian C. Cái bình dị của cuộc sống luôn bất diệt D. Vẻ đẹp của nghệ thuật. Câu 6. Sự trôi chảy của thời gian làm thay đổi những điều gì? A. Khô những chiếc lá, làm lãng quên kỉ niệm (chỉ còn vang vọng như tiếng sỏi rơi vào lòng giếng cạn) B. Những câu thơ, những bài hát và đôi mắt em. C. Những câu thơ, những bài hát D. Khô những chiếc lá, Câu 7. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc lá trong câu thơ thứ hai? A.Biểu tượng về dòng chảy của thời gian , tác động nghiệt ngã của thời gian với con người và sự sống. B. Biểu tượng cho thiên nhiên và sự sống. C. Biểu tượng cho cái đẹp D. Biểu tượng cho sự vĩnh hằng. Câu 8. Nêu hiệu quả của phép tu so sánh được sử dụng trong câu thơ “ Đôi mắt em như hai giếng nước A. Ca ngợi vẻ đẹp của đôi mắt – vẻ đẹp của tình yêu. B. Nhấn mạnh, khẳng định thái độ thách thức chống lại tác động của thời gian. C. Khẳng định sự bất tử của nghệ thuật. D. Những sáng tạo nghệ thuật làm giàu đẹp cho tâm hồn con người. Câu 9. Viết đoạn văn ( Khoảng 5 – 7 dòng) bày tỏ quan điểm của em về việc sử dụng thời gian?
  8. Câu 10. Nêu ý nghĩa của bài thơ? ( Viết đoạn văn từ 5 – 7 câu) II. Phần viết: Có ý kiến cho rằng “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng ” của Nguyễn Thế Hoàng Linh? Ông ra vườn nhặt nắng Thơ thẩn suốt buổi chiều Ông không còn trí nhớ Ông chỉ còn tình yêu Bé khẽ mang chiếc lá Đặt vào vệt nắng vàng Ông nhặt lên chiếc nắng Quẫy nhẹ, mùa thu sang Gợi ý Phần Câu Nội dung Điểm 1 Bài thơ được viết theo thể thơ tự do. 0.5 2 Biểu cảm 0.5 3 Ẩn dụ 0.5 4 Những điều có sức sống mãnh liệt, trường tồn với thời 0.5 Đọc gian. hiểu 5 Sự tồn tại mãi mãi với thời gian 0.5 6 Sự trôi chảy của thời gian làm thay đổi: khô những chiếc 0.5 lá, làm lãng quên kỉ niệm (chỉ còn vang vọng như tiếng sỏi rơi vào lòng giếng cạn) 7 Biểu tượng cho thiên nhiên và sự sống. 0.5 8 Ca ngợi vẻ đẹp của đôi mắt – vẻ đẹp của tình yêu 0.5 9 Biết quý trọng thời gian, trân trọng những gì đang có. 1.0 - Sử dụng quỹ thời gian hiệu quả. - Sống trọn vẹn, có ý nghĩa trong từng phút giây của cuộc đời. - Lưu giữ giá trị của bản thân để nó trường tồn và nối tiếp ở thế hệ sau, khuất phục thời gian. 10 Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, thời gian tàn phá cuộc đời 1.0 con người. Duy chỉ có cái đẹp của nghệ thuật và kỉ niệm về tình yêu là có sức sống lâu dài, không bị thời gian hủy hoại.Cái đẹp mãi trường tồn trước sự băng hoại,mài mòn của thời gian. Phần * Yêu cầu về hình thức:
  9. viết Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, biết lấy tp văn học để chứng minh cho một nhận định lí luận văn học. * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận và trích dẫn nhận định. +) Thân bài: - Giải thích ngắn gọn nhận định “thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” -Chứng minh: + Luận điểm 1: Bài thơ “Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh đã “ bắt rễ” từ tiếng lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông đã già, không còn minh mẫn của mình. + Luận điểm 2: Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh nở hoa nơi từ ngữ. + Đánh giá, mở rộng + Rút ra bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận. +) Kết bài: Khẳng định lại vấn đề nghị luận Bài tham khảo 1.Mở bài (Có thể bắt đầu từ những nhận định: Nhà văn Nga Lêônít Lêônốp nhận định: "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung") Andre Chenien từng nhận định"Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ". Thật vậy, thơ ca là thế giới tâm hồn, tình cảm, là những rung cảm sâu sắc trước cuộc đời của nhà thơ; thơ ca thể hiện những tình cảm phong phú, những cung bậc cảm xúc đa dạng, những góc nhìn đa chiều của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Thêm vào đó thơ ca là nghệ thuật ngôn từ nên thơ ca được tạo nên bởi âm thanh, từ ngữ, hình ảnh sinh động, đẹp đẽ nhất. Cùng quan điểm đó, có ý kiến cho rằng “ Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh là bài thơ đã “ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” ( Bài thơ của là bài thơ như thế) 2. Thân bài: Giải thích: Ý kiến trên bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ ca. Một tác phẩm thơ ca chân chính phải khởi phát từ tình cảm dạt dào của tác giả và được thể hiện bằng ngôn từ chắt lọc, chau chuốt. « Thơ ca bắt rễ từ lòng người » - thơ ra đời từ cảm xúc của chủ thể trữ tình trước thiên nhiên, tạo vật, cuộc sống, con người Thơ ca là tiếng nói chân thành của tình cảm. Thơ do tình cảm mà sinh ra.
  10. Thơ luôn thể hiện những rung cảm tinh tế, thẳm sâu trong lòng tác giả. Và để bài thơ thực sự đi vào lòng người thì lời thơ bao giờ cũng được chắt lọc, giàu hình tượng, có khả năng gợi cảm xúc nơi người đọc tức « Nở hoa nơi từ ngữ ». Vẻ đẹp ngôn từ chính là yêu cầu bắt buộc đối với thơ ca. Thơ ca khởi nguồn từ cảm xúc của tác giả trước cuộc sống, thăng hoa nơi từ ngữ biểu hiện. Cái lớp ngôn từ bên ngoài đẹp đẽ sẽ chỉ là một thứ vỏ không hồn nếu nó chẳng chứa đựng một nội dung cao cả gây xúc động lòng người. Thơ không chỉ là chiều sâu suy ngẫm mà còn là sự chắt lọc kết tinh nơi ngôn từ, thơ đẹp còn bởi ngôn từ đẹp, giàu nhịp điệu, hình ảnh, âm điệu, âm hưởng, nhạc điệu thơ Người nghệ sĩ lấy những cảm xúc chân thành của mình ra để viết nên những vần thơ đẹp làm rung động lòng người, có như vậy tác phẩm mới sống lâu bền trong lòng độc giả. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng ” của Nguyễn Thế Hoàng Linh là bài thơ có những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật (Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của NTHL là bài thơ đã “ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”) * Chứng minh: Luận điểm 1. Bài thơ “Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh đã “ bắt rễ” từ tiếng lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông đã già, không còn minh mẫn của mình. - Người ông chiều chiều tha thẩn đi dạo trong vườn trong ánh nắng cuối chiều của mùa thu, phải chăng khi con người ở vào cái tuổi “ xưa nay hiếm” thường hay lặng lẽ đón nhận tuổi già của mình cùng thiên nhiên?! Và nắng cuối chiều cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi của ông – cái tuổi không còn tinh anh nữa - Bằng cái nhìn trẻ thơ, trong veo, ăm ắp yêu thương của đứa cháu nhỏ, khổ thơ gợi hình ảnh người ông đã già thường góp nhặt niềm vui tuổi già vào mỗi buổi chiều nơi khu vườn nhỏ, hoà mình cùng thiên nhiên, cùng giọt nắng chiều nơi vườn nhà. Cuộc đời ông đã trải bao thăng trầm nhưng đến khi về già ông thanh thản, chẳng mấy bận tâm về chuyện đời, chuyện người. Tâm hồn ông giờ đây trong veo như giọt nắng thu nghiêng nghiêng mà ông gom lại cho tuổi già thêm niềm vui. - Dù thời gian đã hằn in trên cuộc đời của ông, trí nhớ ông không còn minh mẫn nữa nhưng tình yêu thương trong ông không bao giờ vơi cạn, ông vẫn luôn dành cho con cháu tất cả yêu thương “Ông không còn trí nhớ/ Ông chỉ còn tình yêu ”: bao yêu thương đong đầy ông dành cả cho đứa cháu nhỏ bên ông. - Khổ thơ gợi hình ảnh hai ông cháu một già một trẻ đang cùng cười vui, cùng nắm tay nhau đi dạo quanh khu vườn điều đó làm cho không gian thêm ấm áp, tình ông cháu thêm bền chặt. - Với con mắt quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm đứa cháu nhỏ cảm nhận về không gian mùa thu đã chạm ngõ Bé khẽ mang chiếc lá . Quẫy nhẹ mùa thu sang - Sắc vàng của lá hoà trong màu nắng tinh khôi làm nên vệt vàng lung linh, cả không gian như tràn ngập sắc vàng. Một chiếc lá vàng rụng xuống thật khẽ, thật nhẹ làm xao động không gian, xao động cả lòng trẻ thơ - Đứa cháu nhỏ như hiểu ý ông “ khẽ mang chiếc lá/ đặt vào vệt nắng vàng” để rồi “ Ông nhặt lên chiếc nắng”, cả hai ông cháu cùng đón nhận mùa thu sang. Thu sang thật êm dịu, không gian thu đang chuyển mình để rồi “ Quẫy nhẹ” – âm thanh mùa
  11. thu, tiếng thu đang cựa quậy, chuyển mình, bước chuyển mùa cũng thật khẽ khàng và dịu êm. * Đánh giá: Bài thơ là giọt lòng của đứa cháu nhỏ dành cho người ông kính yêu của mình. Đó chính là giọt trong vắt của yêu thương. Chính phép màu của yêu thương đã thu niềm vui tuổi già của ông vào trong giọt nắng. Bởi yêu thương tạo ra mọi kì diệu cả trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” là sự cất tiếng của yêu thương để bồi đắp cái gốc yêu thương cho con người! - Bài thơ lắng lại trong ta bao suy ngẫm: + Biết trân trọng, kính yêu người thân trong gia đình + Biết mở rộng tâm hồn để lắng nghe, cảm nhận những biến chuyển của thiên nhiên, đất trời. - Phải có tâm hồn tinh tế, yêu thiên nhiên tạo vật tha thiết nhà thơ mới có thể cảm nhận bước đi của thời gian, không gian thu tinh tế và chính xác đến vậy. LĐ 2: Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh nở hoa nơi từ ngữ. Ngôn ngữ giản dị - đó là ngôn ngữ ấu nhi thể hiện nét hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ. Lối viết hồn hậu, chân thật như lời tâm sự, thủ thỉ kể chuyện . * Đánh giá, mở rộng: Nhận định “ thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ thơ ca bao giờ cũng phát khởi nơi tình cảm dạt dào của người nghệ sĩ và được thể hiện bằng ngôn từ chắt lọc, chau chuốt. Thơ là sự lên tiếng của trái tim, là rung động tâm hồn, là dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt từ đó nhà thơ bộc lộ cảm xúc của mình thông qua hệ thống ngôn từ giàu giá trị biểu cảm. Bài thơ “ Ra vườn nhặt nắng” của Nguyễn Thế Hoàng Linh là bài thơ “bắt rễ” từ tiếng lòng đứa cháu nhỏ yêu kính người ông của mình và thể hiện qua những ngôn từ trong sáng, gần gũi, giản dị, trong sáng – đó là ngôn ngữ ấu nhi rất đặc trưng của đồng dao.Vì lẽ đó, người nghệ sĩ phải có trái tim nhạy cảm, tinh tế, lao động nghiêm túc, tâm huyết với ngòi bút thì mới tạo nên những tác phẩm có giá trị sống mãi với thời gian. Còn bạn đọc cũng luôn khao khát được đón nhận những vần thơ tác tuyệt, được đồng sáng tạo cùng nhà thơ để thấu hiểu hơn bản thân, con người và cuộc đời. KB: Thơ ca là câu hát được vang lên và thăng hoa từ tận sâu nơi xúc cảm của người nghệ sĩ để rồi những tác phẩm được ra đời từ đó, thơ ca bắt rễ từ tiếng lòng của người cầm bút và được nhà thơ tinh chắt ngôn ngữ để dệt nên cây đàn muôn điệu làm say đắm lòng người. “Ra vườn nhặt nắng” là bài thơ đã bắt rễ từ giọt lòng của Nguyễn Thế Hoàng Linh dành cho người ông đã già của mình và kết tinh từ tài nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ thực sự đã “Bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Đề 3: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi: Những mùa quả mẹ tôi hái được Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng Những mùa quả lặn rồi lại mọc Khi mặt trời khi như mặt trăng Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
  12. Còn những bí và bầu thì lớn xuống Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi Và chúng tôi thứ quả ngọt trên đời Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh ? (Nguyễn Khoa Điềm) Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? A. Tự do B. Tám chữ C. Bảy chữ D. Năm chữ Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của bài thơ? A.Tự sự B. Biểu cảm C. Nghị luận D. Miêu tả Câu 3.Từ "quả" trong những câu thơ nào được dùng với ý nghĩa tả thực? A. Câu 1,2 B. Câu 2,3 B. Câu 1,3 D. Câu 1,2 Câu 4. Từ "quả" trong những câu thơ nào được dùng với ý nghĩa tượng trưng? A. Câu 9, 1 2 B. Câu 10,11 B. Câu 9,10 D. Câu 11,12 Câu 5. Nghĩa của “trông” ở dòng thơ Mẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồng là gì? A. Sự trông chờ, niềm tin, hi vọng của mẹ vào những gì mà mẹ đã nhọc nhằn, lam lũ, chăm sóc, nâng niu. Các con chính là sự trông chờ của mẹ, thành công của các con chính là thứ “quả” mà mẹ mong chờ nhất. B. Sự mong mỏi của mẹ vào những đứa con yêu C. Mẹ mong hái được những quả ngon do tay mẹ vun trồng D. Các con chính là sự trông chờ của mẹ, thành công của các con chính là thứ “quả” mà mẹ mong chờ nhất. Câu 6. Trong hai dòng thơ “Những mùa quả lặn rồi lại mọc - Như mặt trời, khi như mặt trăng” tác giả đã sử dụng biện pháp tu A. Nhân hoá B. So sánh C.Điệp ngữ và ẩn dụ D. Điệp ngữ và nhân hoá Câu 7: Đặc sắc nghệ thuật của hai dòng thơ: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên - Còn những bí và bầu thì lớn xuống là gì? A. Sử dụng từ trái nghĩa. B. Sử dụng hình ảnh nhân hóa. C. Sử dụng thủ pháp miêu tả. D. Sử dụng phép tương phản, đối lập. Câu 7: Đặc sắc nghệ thuật của hai dòng thơ: Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên - Còn những bí và bầu thì lớn xuống là gì? A. Sử dụng từ trái nghĩa. B. Sử dụng hình ảnh nhân hóa. C. Sử dụng thủ pháp miêu tả. D. Sử dụng phép tương phản, đối lập. Câu 8. Tác dụng của biện pháp tu từ hoán dụ và ẩn dụ ở hai câu thơ: “Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi Mình vẫn còn một thứ quả non xanh ?”
  13. A. Tạo điểm nhấn về lòng biết ơn và sự ân hận như một thứ “tự kiểm” về sự chậm trễ thành đạt của người con chưa làm thỏa được niềm vui của mẹ. B. Tạo nhịp điệu êm ái cho câu thơ. C. Chỉ sự già nua và sự ra đi của mẹ. D. Chỉ sự dại dột hay chưa trưởng thành của người con. Câu 9. Nêu nội dung chính của bài thơ ?( trả lời trong khoảng 5-7 dòng Câu 10. Viết một đoạn văn ngắn ( 5 – 7 câu) nêu nội dung chính của em về hai câu thơ: “Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” II. Phần viết Có ý kiến cho rằng “Đọc một câu thơ hay người ta không thấy câu thơ chỉ còn thấy tình người trong đó”. Hãy khám phá “ Tình người” trong bài thơ “ Lời ru của mẹ” của Xuân Quỳnh? Lời ru ẩn nơi nào Giữa mênh mang trời đất Khi con vừa ra đời Lời ru về mẹ hát Lúc con nằm ấm áp Lời ru là tấm chăn Trong giấc ngủ êm đềm Lời ru thành giấc mộng Khi con vừa tỉnh giấc Thì lời ru đi chơi Lời ru xuống ruộng khoai Ra bờ ao rau muống Và khi con đến lớp Lời ru ở cổng trường Lời ru thành ngọn cỏ Đón bước bàn chân con Mai rồi con lớn khôn Trên đường xa nắng gắt Lời ru là bóng mát Lúc con lên núi thẳm Lời ru cũng gập ghềnh Khi con ra biển rộng Lời ru thành mênh mông. ( Đề tương tự: “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người” (Atona Phrăng xơ). Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “ Lời ru của mẹ ” của Xuân Quỳnh? Phần Câu Nội dung Điểm 1 Bài thơ được viết theo thể thơ tự do. 0.5
  14. 2 Biểu cảm 0.5 3 Câu 1,3 0.5 4 Câu 9,12 0.5 Đọc 5 Sự trông chờ, niềm tin, hi vọng của mẹ vào những gì mà 0.5 hiểu mẹ đã nhọc nhằn, lam lũ để chăm sóc. Các con chính là sự trông chờ của mẹ, thành công của các con chính là thứ “quả” mà mẹ mong chờ nhất. 6 So sánh 0.5 7 Sử dụng phép tương phản, đối lập. 0.5 8 Tạo điểm nhấn về lòng biết ơn và sự ân hận như một thứ 0.5 “tự kiểm” về sự chậm trễ thành đạt của người con chưa thỏa được niềm vui của mẹ. 9 - Nội dung chính của bài thơ: Bằng sự trải nghiệm cuộc 1.0 sống, với một tâm hồn giàu duy tư trăn trở trước lẽ đời, Nguyễn Khoa Điềm đã thức nhận được mẹ là hiện thân của sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào, giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt thơm. Quả không còn là một thứ quả bình thường mà là “quả” của sự thành công, là kết quả của suối nguồn nuôi dưỡng. Những câu thơ trên không chỉ ngợi ca công lao to lớn của mẹ, của thế hệ đi trước với thế hệ sau này mà còn lay thức tâm hồn con người về ý thức trách nhiệm, sự đền đáp công ơn sinh thành của mỗi con người chúng ta với mẹ. 10 Có thể nói hai câu thơ “Chúng mang dáng giọt mồ hôi 1.0 mặn / Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” những câu thơ tài hoa nhất trong bài, khắc sâu sự hy sinh thầm lặng của mẹ và lòng biết ơn vô bờ của người con về công dưỡng dục sinh thành của mẹ hiền. Hình ảnh “chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn” là kiểu hình ảnh so sánh, ví von dáng bầu bí như giọt mồ hôi mặn của mẹ. Đó là hình tượng giọt mồ hôi nhọc nhằn, kết tụ những vất vả hi sinh của mẹ. Câu thơ “Rỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” gợi lên dáng vẻ âm thầm trong vất vả nhọc nhằn của mẹ để vun xới những mùa quả tốt tươi. Qua đó ta thấy được lòng biết ơn, kính trọng đối với đấng sinh thành của nhà thơ. * Yêu cầu về hình thức: Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, biết lấy
  15. Phần tp văn học để chứng minh cho một nhận định lí luận văn Viết học. * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận và trích dẫn nhận định. +) Thân bài: -Chứng minh: + Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm. - Luận điểm 1: “ Tình người” trong bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) là tình mẹ bao la, dạt dào, đầy thương mến. ( Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng) Luận điểm 2: “ Tình người” trong bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. ( Dẫn chứng và phân tích dẫn chứng) + Đánh giá, mở rộng và rút ra bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận. +) Kết bài: Khẳng định lại vấn đề nghị luận. Bài tham khảo MB: Có ý kiến cho rằng “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người”. Thật vậy, thơ là thế giới tâm hồn,tình cảm, cảm xúc của con người, là nơi kí thác những tâm tư tình cảm mà người nghệ sĩ mang trong lòng. Bởi vậy, thật đúng đắn khi Atona Phăngxơ nhận định “ Đọc một câu thơ hay người ta không thấy câu thơ chỉ còn thấy tình người trong đó”. Đến với bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) ta sẽ thấy “ tình người” - tình yêu thương vô bờ của mẹ dành cho con yêu qua lời ru ngọt ngào, tha thiết. TB: *Giải thích: Nhận định của Atona Phrăng xơ đã bàn về đặc trưng của thơ ca. ( Hoặc: Nhận định của Atona Phrăng xơ đã bàn về vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ) Thơ là tiếng nói trữ tình, tiếng nói của trái tim mang tính cá thể sáng tạo của chủ thể trữ tình. Thơ là cuộc đời cũng là trái tim. Tình cảm trong thơ là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sức rung động của thi ca. "Thơ muốn làm cho người ta khóc trước hết mình phải khóc. Thơ muốn làm cho người ta cười trước hết mình phải cười." bởi vậy để có được một câu thơ hay, để truyền tải được sợi dây tình cảm người nghệ sĩ mang trong lòng, câu thơ phải xuất phát từ cái tâm và cái tài của người cầm bút. .“Đọc ” là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm, là đồng sáng tạo để cảm thấu những cảm xúc, vui buồn, yêu thương cùng nhà thơ. “Câu thơ hay” là câu thơ có giá trị về cả nội dung và hình thức, hình thức biểu hiện đồng nhất với nội dung, tình cảm của thơ làm rung động trái tim người đọc. Khi “đọc một câu thơ hay”, chúng ta không chỉ thấy câu thơ mà còn phát hiện, gặp gỡ, đồng cảm với những
  16. suy nghĩ,tư tưởng, tình cảm và cảm xúc của người nghệ sĩ. Câu thơ, bài thơ bao giờ cũng biểu đạt tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, cảm xúc càng mãnh liệt, sâu sắc, càng thăng hoa thì càng lay động và ám ảnh trái tim bạn đọc. Đọc bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) ta gặp gỡ tình yêu thương của mẹ qua lời ru ngọt ngào, sâu lắng. Chứng minh: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ được nhiều bạn trẻ yêu thích. Thơ Xuân Quỳnh thường viết về những tình cảm gần gũi, bình dị trong đời sống gia đình và cuộc sống thường ngày, như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu, tình quê hương, đất nước, biểu lộ những rung cảm và khát khao của một trái tim phụ nữ chân thành, tha thiết và đằm thắm. Bài thơ “ Lời ru của mẹ” là bài thơ nằm trong mạch nguồn nhũng bài thơ viết về tình cảm gần gũi,yêu thương ấy. - Luận điểm 1: “ Tình người” trong bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) là tình mẹ bao la, dạt dào, đầy thương mến. Có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của mẹ? Có lời ru nào ngọt ngào, tha thiết hơn lời mẹ ru con? Nghe lời ru ầu ơ của mẹ trong bài thơ ta được trở về sống lại tuổi thơ như trong truyện cổ tích thần kỳ, giàu biến hóa, tất cả khởi nguồn từ tình thương yêu bao la của mẹ. Lời ru của mẹ theo con trên khắp hành trình dài rộng của cuộc đời, từ khi con vừa ra đời lời ru đã ẩn giữa đất trời bay về trú ngụ. Lời ru thật diệu kỳ, như có phép thần tiên, điều đó đã được nhà thơ triển khai trong suốt toàn bộ thi phẩm. + Lời ru yêu thương gắn với tuổi hồng, tuổi nụ. Tuổi càng thơ dại , lời ru càng tha thiết, mê say. + Lời ru còn biết “đi chơi” khi con thức giấc, thậm chí biết xuống ruộng khoai hay “ra bờ ao rau muống” lúc mẹ làm việc. => Qua lời ru hình ảnh người mẹ lam lũ, khó nhọc sau lũy tre xanh. Nhờ đó, người mẹ hiện lên vừa giàu lòng yêu thương, nhân hậu, vừa mang vẻ đẹp chất phác của người lao động + Không những bên con trong giấc ngủ say nồng, lời ru còn bên con khi con đùa vui, chạy nhảy, lời ru của mẹ còn theo con đến lớp mỗi ngày. Buổi con tan học về, có mẹ đón đưa, lúc ấy lời ru cũng ngân nga qua từng lời nói yêu thương, từng cử chỉ dịu dàng. Lời ru hóa thành vòng tay, thành ngọn cỏ đón bước chân con lon ton sau giờ tan học + Con lớn khôn, lời ru của mẹ vẫn không xa vắng, vẫn ở bên con chia sẻ ngọt bùi. Lời ru hóa thành bóng râm dịu mát trên đường xa nắng gắt lúc con qua. Lời ru cũng đồng hành cùng con lúc gập ghềnh dâu bể. Lời ru hóa thành mênh mông khi con được hiển vinh, vươn ra biển lớn với người đời. * Lời ru của mẹ thật diệu kỳ, nhân hậu biết bao, yêu thương đong đầy, lời ru ngọt ngào từ tấm lòng người mẹ vẫn theo mãi trọn đời con, từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, dù phải qua bao khó khăn, ghềnh thác. Từ suối nguồn yêu thương của mẹ qua lời hát ru ầu ơ, ngọt ngào của mẹ con khôn lớn và trưởng thành, từ đó con biết trân quý tình mẹ, biết ơn, kính yêu mẹ! Luận điểm 2: “ Tình người” trong bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. Viết về đề tài muôn thuở trong
  17. tình cảm con người nhưng những lời thơ của Xuân Quỳnh vẫn luôn tươi mới, ngọt ngào. Lời thơ tự nhiên, cảm xúc thơ chân thành, đặc biệt nữ sĩ Xuân Quỳnh đã tạo được tứ thơ đặc sắc nên thi phẩm đằm sâu nơi trái tim người đọc * Đánh giá, mở rộng: Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn,bởi lẽ thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm của con người, là những cảm xúc, rung động, những suy tư, trăn trở về cuộc đời của người cầm bút có như vậy, thơ mới lay động và neo đậu trong lòng người. Thơ hay là thơ lay động tâm hồn con người bằng cảm xúc, tình cảm. Song để có thơ hay, nhà thơ bên cạnh sự sâu sắc của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc, nhiệt huyết trong lao động nghệ thuật. Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và kiếm tìm sự tri âm. Do vậy, khi tìm đến một tác phẩm thơ, người đọc quan tâm nhiều tới cảm xúc, tới tình cảm mà nhà thơ kí thác. Bài thơ “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) đã mang đến cho người đọc tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp, khơi dậy trong lòng bạn đọc những tình cảm cao đẹp với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ đã đi vào lòng người bởi tình cảm ấm nồng, tình yêu thương con vô bờ của mẹ. KB: Đọc thơ, là đọc “ Cái mạch ngầm văn bản phía sau”, đằng sau những con chữ, bạn đọc cảm thấu tâm tư, nỗi lòng, tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, cùng đồng điệu với tiếng lòng nhà thơ. Niềm vui của người đọc thơ là bắt gặp tâm tình, tâm hồn nhà thơ để từ đó thăng hoa trong cảm xúc. Khi đọc “ Lời ru của mẹ” ( Xuân Quỳnh) bạn đọc “ không chỉ thấy câu thơ mà còn thấy tình người trong đó”, thấy được, cảm được “tình mẹ bao la như biển Thái Bình” trong từng lời thơ, câu thơ. Đề 4. Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi: Nắng Ba Đình mùa thu Thắm vàng trên lăng Bác Vẫn trong vắt bầu trời Ngày tuyên ngôn Độc lập. Ta đi trên quảng trường Bâng khuâng như vẫn thấy Nắng reo trên lễ đài Có bàn tay Bác vẫy. Ấm lòng ta biết mấy Ánh mắt Bác nheo cười Lồng lộng một vòm trời Sau mái đầu của Bác (Nắng Ba Đình – Nguyễn Phan Hách) Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? A. Tự do B. Tám chữ C. Ngũ ngôn D. Bảy chữ Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của bài thơ? A.Tự sự B. Biểu cảm C. Nghị luận D. Miêu tả Câu 3: Đoạn thơ trên gợi nhớ đến sự kiện lịch sử nào của nước ta? A. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 2.9.1945
  18. B. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 3.9.1945 C. Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ngày 5.6. 1911 D. Bác Hồ trở về sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Câu 4. Từ “ bâng khuâng” thuộc loại từ gì? A. Từ ghép B. Từ láy C. Từ ghép chính phụ C. Từ láy bộ phận Câu 5. Từ “ vẫn” trong câu thơ “ Vẫn trong vắt bầu trời” thuộc từ loại nào? A. Danh từ B. Tính từ C. Động từ D. Phó từ Câu 6. Từ “ thắm vàng” trong câu thơ “ thắm vàng trên lăng Bác” có ý nghĩa gì? A.Sự tươi tắn, sáng trong của nắng trời, cả ánh nắng huy hoàng từ sao vàng cờ đỏ, có cả ánh sáng kiêu hãnh tự hào của tấm lòng một công dân độc lập, lòng biết ơn sâu nặng của một người con đối với Bác Hồ. B.Sự tươi tắn, sáng trong của nắng trời. C.Sự tươi tắn, sáng trong của nắng trời, cả ánh nắng huy hoàng từ sao vàng cờ đỏ rực rỡ tung bay trong gió. D.Sự tươi tắn, sáng trong của nắng trời, cả ánh nắng huy hoàng từ sao vàng cờ đỏ, có cả ánh sáng kiêu hãnh tự hào của tấm lòng một công dân độc lập. Câu 7. Câu thơ “ Nắng Ba Đình mùa thu” sử dụng biện pháp tu từ nào? A. So sánh. B. Nhân hoá C. Ẩn dụ. D. Điệp ngữ. Câu 8. Nội dung chính của bài thơ là gì? A. Bài thơ với lời lẽ nhẹ nhàng, da diết bộc lộ niềm biết ơn, công lao to lớn của Bác Hồ kính yêu. Lòng tự hào vào thời khắc đất nước được độc lập. B. Bài thơ với lời lẽ nhẹ nhàng, da diết bộc lộ niềm biết ơn, công lao to lớn của Bác Hồ kính yêu. C. Bài thơ thể hiện lòng tự hào vào thời khắc đất nước được độc lập. D. Niềm vui của toàn dân khi nước nhà được độc lập Câu 9: Hãy chỉ ra biện pháp tu từ và cho biết hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ: Ta đi trên quảng trường Bâng khuâng như vẫn thấy Nắng reo trên lễ đài Có bàn tay Bác vẫy. Câu 10: Trình bày cảm xúc của mình về sự kiện trọng đại được nhắc đến trong đoạn thơ trên bằng một đoạn văn khoảng 5 -7 dòng. II. Phần viết Đôi bàn tay mẹ? Phần Câu Nội dung Điểm 1 Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn. 0.5 2 Biểu cảm. 0.5 3 Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường 0.5 Ba Đình ngày 2.9.1945 4 Từ láy bộ phận 0.5
  19. Đọc 5 Phó từ 0.5 hiểu 6 Sự tươi tắn, sáng trong của nắng trời, cả ánh nắng huy 0.5 hoàng từ sao vàng cờ đỏ, có cả ánh sáng kiêu hãnh tự hào của tấm lòng một công dân độc lập, lòng biết ơn sâu nặng của một người con đối với Bác Hồ. 7 Ẩn dụ 0.5 8 Bài thơ với lời lẽ nhẹ nhàng, da diết bộc lộ niềm biết 0.5 ơn, công lao to lớn của Bác Hồ kính yêu. Lòng tự hào vào thời khắc đất nước được độc lập. 9 - Biện pháp tu từ : nhân hóa nắng reo 1.0 - Hiệu quả : thể hiện không khí vui tươi, phấn khởi và niềm hạnh phúc lớn lao của cả dân tộc trong ngày vui trọng đại 10 Bày tỏ tình cảm chân thành, sâu sắc với ngày lễ tuyên 1.0 bố nền độc lập, tự do của dân tộc : tự hào, sung sướng, xúc động, a.Yêu cầu về hình thức: - Bài viết có bố cục 3 phần rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy, tổ chức săp xếp ý khoa học; văn phong trong sáng, có cảm xúc Phần - Đảm bảo đúng thể loại: Biểu cảm kết hợp với tự sự và viết miêu tả. b. Yêu cầu nội dung: + Mở bài: Cảm xúc yêu thương đong đầy về đôi bàn tay mẹ. + Thân bài: Bộc lộ cảm xúc của mình về đôi bàn tay mẹ: Đôi bàn tay lam; đôi bàn tay yêu thương ( chăm sóc, dạy bảo, là động lực trên hành trình dài rộng cuộc đời con) - Đôi bàn tay mẹ - Đôi bàn tay lam làm, khéo léo + Tôi yêu đôi bàn tay thô ráp của mẹ, trên đôi tay ấy là những đường gân xanh xao uốn lượn như những dòng sông, mà sau này tôi mới biết, đó là dòng đời đưa tôi ra biển lớn. + Bao nhiêu khó khăn nhọc nhằn in hằn trên đôi bàn tay của mẹ. Ngắm bàn tay mẹ, tôi hỏi: “Sao tay con mềm mà tay mẹ nhiều chai sần cứng thế?”. Mẹ chỉ trả lời: “Người có chai tay là người biết yêu thương”. Tôi mãi
  20. nhớ câu nói đó. Phải mất mấy năm sau tôi mới hiểu ra ý nghĩa của lời mẹ nói năm xưa. + Năm tháng qua đi, ở bên mẹ, tôi được chứng kiến những sự đổi thay diệu kỳ của cuộc sống chỉ bằng đôi bàn tay ấy. Đằng sau những bữa cơm thịnh soạn của gia đình, là dáng mẹ với đôi bàn tay gầy gầy, xương xương nhặt từng cọng rau, vo từng bát gạo, nấu từng ấm nước chè, kho từng nồi cá khế. Đằng sau những trang giấy trắng tinh trong đời học sinh của chị em tôi, là bàn tay mẹ lặn lội lo toan Đằng sau tổ ấm của gia đình tôi, đó là bàn tay mẹ chăm lo, vun vén, tưới nước yêu thương, đoàn kết mỗi ngày. - Đôi bàn tay yêu thương: + Đằng sau giấc ngủ ngon của tôi là đôi bàn tay mẹ đã chăm ẵm, bế bồng, quạt mát, ru vỗ, ấp ôm tuổi thơ tôi + Đằng sau sự trưởng thành của tôi là sự gầy gò, càng ngày càng thô ráp, chai cứng của đôi bàn tay mẹ. + Tôi vẫn thường lọt thỏm trong vòng tay ấy và thách thức tất cả bên ngoài. Một cảm giác an toàn tuyệt đối luôn thường trực mỗi khi được nằm gọn trong vòng tay của mẹ. Đôi bàn tay bé nhỏ của tôi chỉ nắm vừa ngón tay cái của mẹ, tôi thường chơi trò dúc dắc qua lại đủ bề để cho tay mẹ phát ra tiếng kêu. Những lần như thế, tôi tự hỏi: “Sao tay mẹ to và cứng thế?” ! + Và có khi tôi sợ đôi bàn tay mẹ - đó là lúc mẹ cầm cái roi lăm le quát mỗi khi tôi mắc sai lầm, đôi tay mẹ đã làm tôi đau. Nhưng có như thế tôi mới thấy hết tình yêu thương bao la của mẹ + Từ những đòn roi năm xưa cho tới những sợi chỉ dài xuyên qua tà áo của ba khi bị rách nhờ đôi tay mẹ, tôi thêu thùa, may vá. + Và tôi hiểu, bằng đôi bàn tay ấy, mẹ đã viết lên sự sống, ước mơ, tương lai và cả cuộc đời tôi. => Trong từng giờ phút mẹ hiện diện trên cõi đời, tôi cảm nhận đôi bàn tay mẹ thắp sáng những vì sao tinh tú trong cuộc sống của tôi. -) Tiếng lòng của con dành cho mẹ:
  21. + Thời gian vụt trôi, bỏ lại tuổi thơ hồn nhiên chân đất, bỏ lại những tháng ngày rong ruổi và những câu hỏi vu vơ của trẻ nhỏ, bây giờ tôi đã thành thiếu nữ tuổi đôi mươi Tôi cũng sắp làm mẹ. + Tôi thèm được một lần thấy mẹ cầm roi, tôi thèm được một lần thấy mẹ bắt tôi phải tắm và kỳ cọ và thèm được ăn bữa cơm gia đình mẹ nấu khi tôi phải đi học xa. + Và hơn hết, tôi thèm được nắm lấy đôi bàn tay của mẹ, thèm được đôi bàn tay mẹ ôm vào lòng để cảm nhận hơi ấm từ mẹ. Nhờ đôi bàn tay yêu thương của mẹ mà có tôi như ngày hôm nay. Tôi yêu bàn tay của mẹ - Đôi bàn tay viết nên ước mơ tôi!!! + Kết bài: Tình cảm kính yêu, trân trọng, biết ơn của con dành cho mẹ. Lưu ý: Tùy vào mức độ của học sinh, giám khảo cho điểm cho phù hợp. Đề 5. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi Biển đẹp Buổi sáng nắng sớm. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại đến một buổi chiều gió mùa đông bắc vừa dừng. Biển lặng đỏ đục, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai ai đem rắc lên trên. Rồi ngày mưa rào. Mưa giăng giăng bốn phía. Có quãng nắng xuyên xuống biển óng ánh đủ màu: xanh lá mạ, tím phớt, hồng, xanh biếc, . Có quãng biển thâm xì, nặng trịch. Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ, bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt. Có buổi sớm nắng mờ, biển bốc hơi nước, không nom thấy núi xa, chỉ một màu trắng đục. Không có thuyền, không có sóng, không có mây, không có sắc biếc của da trời. Một buổi chiều lạnh, nắng tắt sớm. Những núi xa màu lam nhạt pha màu trắng sữa. Không có gió, mà sóng vẫn đổ đều đều, rì rầm. Nước biển dâng đầy, quánh đặc một màu bạc trắng, lăn tăn như bột phấn trên da quả nhót. Chiều nắng tàn, mát dịu. Biển xanh veo màu mảnh chai. Núi xa tím pha hồng. Những con sóng nhè nhẹ liếm lên bãi cát, bọt sóng màu bưởi đào. Mặt trời xế trưa bị mây che lỗ đỗ. Những tia nắng dát vàng một vùng biển tròn, làm nổi bật những cánh buồm duyên dáng như ánh sáng chiếc đèn sân khấu khổng lồ đang chiếu cho các nàng tiên biển múa vui. Thế đấy, biển luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng
  22. nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ, . Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. Biển nhiều khi rất đẹp, ai cũng thấy như thế. Nhưng có một điều ít ai chú ý là: vẻ đẹp của biển, vẻ đẹp kì diệu muôn màu muôn sắc ấy phần rất lớn là do mây trời và ánh sáng tạo nên. (Vũ Tú Nam) Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là ? A. Tự sự B. Biểu cảm C. Nghị luận D. Miêu tả Câu 2. Khi nào thì : "Biển lặng đỏ đục, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên." ? A. Buổi sớm nắng sáng. B. Buổi chiều gió mùa đông bắc vừa dừng. C. Buổi sớm nắng mờ. D. Một buổi chiều nắng tàn, mát dịu. Câu 3. Trong câu: “Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm thẫm lại, khoẻ nhẹ, bồi hồi, như ngực bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt.” Hình ảnh “ Những cánh buồm” được so sánh với hình ảnh “ngực bác nông dân” dựa vào đặc điểm nào để so sánh? A. Ướt đẫm B. Bồi hồi C. Khoẻ nhẹ D. Cả ba ý trên. Câu 4. Câu: “Biển lặng đỏ đục, đầy như mâm bánh đúc, loáng thoáng những con thuyền như ” Từ đồng âm với tiếng “đục ” trong từ “ đỏ đục” là: A. Đục ngầu. B. Đục đẽo. C. Vẩn đục. D. Trong đục Câu 5. Trong câu: “Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu vào hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh.” Sử dụng biện pháp tu từ gì? A. So sánh B. Nhân hoá C. Điệp ngữ D. Ẩn dụ Câu 6. Tìm các cặp từ trái nghĩa có trong câu sau : Trời trong xanh, biển nhẹ nhàng, trời âm u, biển nặng nề. A. Trong xanh – nhẹ nhàng, âm u – nặng nề. B. Trong xanh – âm u , nhẹ nhàng – nặng nề. C. Trong xanh – nặng nề , âm u – nặng nề. D. Trong xanh – nặng nề, âm u – nặng nề. Câu 7. Vẻ đẹp của biển, vẻ đẹp kì diệu muôn màu muôn sắc của biển phần rất lớn là điều gì? A.Do mây trời và ánh sáng tạo nên. B. Do ánh sáng mặt trời chiếu vào. C. Do thay đổi góc quan sát. D. Do mây trời thay đổi Câu 8. Văn bản miêu tả cảnh biển theo trình tự nào? A. Không gian B. Thời gian C. Diễn biến tâm trạng D. Thời gian, không gian
  23. Câu 9. Phân tích giá trị biểu đạt của biện phá tu từ trong câu sau: Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ, bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt. Câu 10. Viết đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp của biển vào buổi chiều lạnh, nắng tắt sớm? II. Phần viết: Giáo sư, nhà giáo, nhà lí luận - phê bình văn học Lê Ngọc Trà nhận định rằng:"Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” Qua bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thanh Thảo hãy làm sáng tỏ nhận định trên?. "Những giọt sương lặn vào lá cỏ Qua nắng gắt, qua bão tố Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương " Phần Câu Nội dung Điểm 1 Miêu tả 0.5 2 Buổi chiều gió mùa đông bắc vừa dừng. 0.5 3 Cả ba ý trên: ướt đẫm, bồi hồi, khoẻ nhẹ 0.5 4 Đục ngầu 0.5 Đọc 5 So sánh 0.5 hiểu 6 Trong xanh – âm u , nhẹ nhàng – nặng nề. 0.5 7 Do mây trời và ánh sáng tạo nên. 0.5 8 Thời gian, không gian 0.5 9 Nhà văn Vũ Tú Nam đã sử dụng thành công biện pháp 1.0 so sánh rất sinh động trong việc miêu tả hình ảnh cánh buồm “ cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ, bồi hồi, như ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt”. . Biện pháp so sánh không chỉ làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn mà còn cho ta những cảm nhận rất chân thực về cánh buồm: Cánh buồm ấy cũng nhọc nhằn,vất vả mưu sinh và giống như người lao động mang theo cái đẹp kết tinh của cuộc đời. Gửi gắm trong hình ảnh độc đáo ấy, Vũ Tú Nam đã thầm kín bày tỏ sự trân trọng, niềm mến yêu với cánh buồm dong duổi nơi biển khơi xinh đẹp và tình yêu lao động của con người. 10 Với sự quan sát tỉ mỉ, ngôn ngữ bình dị cùng tấm lòng 1.0 đầy yêu thương, nhà văn Vũ Tú Nam đã mang đến cho
  24. bạn đọc một bức tranh “ Biển đẹp” thơ mộng, đầy sắc màu do thiên nhiên ban tặng, tạo dựng. Biển được miêu tả ở nhiều góc độ, sắc thái và khoảnh khắc khác nhau đặc biệt là khi chiều lạnh, nắng tắt sớm “Những núi xa màu lam nhạt pha màu trắng sữa. Không có gió, mà sóng vẫn đổ đều đều, rì rầm. Nước biển dâng đầy, quánh đặc một màu bạc trắng, lăn tăn như bột phấn trên da quả nhót” Phép so sánh, liên tưởng độc đáo khiến biển trở nên gần gũi ấm áp, dịu dàng. Biển đẹp ở mọi thời điểm, cái rì rào bất tận của biển đã ôm ấp ru vỗ tuổi thơ của rất nhiều bạn trẻ.Biển là món quà vô giá mà mẹ thiên nhiên ban tặng nên ta hãy trân trọng nâng niu món quà vô giá của thiên nhiên. Phần * Yêu cầu về hình thức: Viết Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, luận điểm, luận cứ rõ ràng,mạch lạc * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn được nhận định +) Thân bài: - Giải thích sơ lược nhận định - Gọi được luận điểm: + L Đ 1: Bài thơ “Sự bùng nổ của mùa xuân” là “sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” của của nhà thơ thanh Thảo về cái đẹp trong cuộc đời. + L Đ 2: “Sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” trong bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thạch Thảo còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. - Đánh giá, mở rộng - Rút ra bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận. +) Kết bài: Khẳng định lại vấn đề Bài tham khảo: MB: tự làm TB: *Giải thích Ý kiến của Lê Ngọc trà bàn về đặc trưng của nghệ thuật: tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ tràn đầy trong tâm hồn người nghệ sĩ. “Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm” - nghệ thuật sinh thành trên đời sống tinh thần của con người, bởi không có
  25. niềm cảm hứng, say mê, con người chỉ viết nên những câu chữ vô hồn, vô thanh, trống rỗng. Tình cảm của nghệ thuật là những cung bậc cảm xúc, tâm tư ngân rung từ trái tim người nghệ sĩ, đó có thể là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan,là niềm vui sướng hay nỗi buồn đau, là khúc hoan ca hay lời tuyệt vọng Thêm vào đó, nghệ thuật còn là “sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư ”nghĩa là người nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm nghệ thuật chính là đang giãi bày lòng mình, gửi những tâm tư tình cảm, những tình ý sâu xa, nỗi lòng của mình vào tp và khơi gợi lòng đồng cảm nơi bạn đọc. Thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chỉ khi nhà thơ mang trái tim dễ xúc động, nhạy cảm, nhiệt huyết, khi đó sẽ có thơ. Cảm xúc trong thơ phải “tràn đầy”, mãnh liệt, nồng nàn, đấy là cảm xúc thẩm mỹ. Nó kết tinh, lắng đọng đến mức cần phải “giãi bày và gửi gắm”, đó cũng chính là hành trình đào sâu địa tầng cảm xúc để phát hiện, làm mới cách nghĩ, cách nhìn, cách cảm và cách thể hiện trong tác phẩm. Nhà thơ Thanh Thảo đã giãi bày những suy ngẫm của mình về cái đẹp của cuộc đời trong bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân”. Bài thơ “Sự bùng nổ của mùa xuân” là “sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” của của nhà thơ thanh Thảo về cái đẹp trong cuộc đời. Có bao giờ bạn nghe được tiếng lá rơi rất khẽ, thấy được chồi non mới nhú? Bạn đã lắng nghe tiếng chim hót líu lo chào mừng ngày mới, tiếng rì rào bất tận trên những cánh đồng quê hay bạn đã chạm tay vào cánh hoa mềm mại của bó cúc trắng tinh? Đã bao giờ lắng mình để thấy được giọt sương long lanh đậu trên lá cỏ mỗi sớm mai!? Tất cả những điều đó là cái đẹp của cuộc sống đáng trân quý. Vậy nên, nhà thơ Thanh Thảo đã gợi mở cho ta nhiều suy ngẫm về con người, cuộc sống qua hình ảnh thiên nhiên thật đẹp: "Những giọt sương lặn vào lá cỏ Qua nắng gắt, qua bão tố Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương " Con người khi sinh ra ai cũng mong có một cuộc sống hạnh phúc và thành công. Cuộc đời vốn dĩ không hề màu hồng, không bình yên và bằng phẳng. Nhưng vẫn luôn chứa đựng những điều kỳ diệu, những điều bất ngờ. Muốn biến cuộc sống của mình thành một bức tranh rực rỡ màu sắc thì con người ta phải biết biến những khó khăn thành động lực. Hai câu thơ đầu, hình ảnh thiên nhiên hiện lên thật đẹp. Hình ảnh giọt sương lặn vào lá cỏ chính là biểu tượng cho cái đẹp bình dị, khiêm nhường của đời sống quanh ta. Nó là những điều tưởng chừng như rất nhỏ bé nhưng lại vô cùng ý nghĩa. Giọt sương bé nhỏ, rất đỗi mỏng manh, khiêm nhường nhưng lại tiềm ẩn sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Nắng gắt, bão tố là hình ảnh ẩn dụ để chỉ những khó khăn, thử thách của cuộc đời. Nhưng cái đẹp ấy phải trải qua “nắng gắt”, “bão tố”, trải qua khó khăn, thử thách của cuộc đời để rồi “Vẫn giữ lại cái mát lành đầy sức mạnh/Vẫn long lanh, bình thản trước vầng dương” nghĩa là vẻ đẹp của cuộc đời muôn đời vững bền, bất biến dẫu trải qua bao khắc nghiệt, bao thăng trầm. Cuộc đời vốn dĩ không bằng phẳng mà luôn chứa đầy những khó khăn thử thách. Tác giả đã sử dụng rất thành công cấu trúc: Qua vẫn vẫn. Việc sử dụng cấu trúc điệp đã nhấn mạnh vẻ đẹp vững bền, bất biến của những giọt sương qua bao khắc nghiệt của tự nhiên, bao thăng trầm của đời sống. Từ một hiện tượng trong thiên nhiên, Thanh Thảo gợi mở cho ta nhiều suy ngẫm về con người, cuộc sống. Đó là sức sống bền bỉ, mãnh liệt của thiên nhiên, và
  26. cũng chính là sức sống bền bỉ, mãnh liệt của con người trước sóng gió cuộc đời. Và đời sống vẫn luôn tiềm ẩn những vẻ đẹp kì diệu. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ, lí thú, luôn ẩn chứa vẻ đẹp bình dị mà thanh cao.Thiên nhiên, con người vẫn luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, mãnh liệt trước sóng gió cuộc đời. Giữa vô vàn khó khăn, khốc liệt của hoàn cảnh, cái đẹp vẫn đơm hoa, sự sống vẫn nảy mầm. Giữa cuộc đời đầy chông gai, sóng gió, có những con người bình thường nhưng vẫn tiềm ẩn sức sống phi thường, đầy bản lĩnh, nghị lực. Có những sự vật bề ngoài tưởng chừng mong manh, những con người thoạt nhìn rất nhỏ bé, khiêm nhường (như giọt sương, lá cỏ) nhưng lại ẩn chứa một sức mạnh lớn lao, một vẻ đẹp kì diệu. Cuộc sống luôn chứa đựng những điều bất ngờ, luôn ẩn chứa vẻ đẹp bình dị mà thanh cao, những con người khiêm nhường mà vĩ đại. Tâm hồn con người, cái đẹp lên hương từ cuộc sống chính là hạt ngọc lung linh,trong ngần, ngời sáng biết bao thánh thiện mà mỗi một chúng ta cần biết nâng niu, trân trọng. Cuộc đời này vốn rất đẹp. Muốn nhận ra những vẻ đẹp kì diệu đó, điều cốt yếu nhất là chúng ta cần phải có tầm nhìn, biết cách nhìn nhận, khám phá, trân trọng cái đẹp của đời sống, con người. “Sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư” trong bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thạch Thảo còn được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. Ngôn ngữ bình dị, sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, , hình ảnh thơ đẹp, mang tính biểu tượng, biện pháp điệp cấu trúc có tác dụng nhấn mạnh, khẳng định triết lí nhân sinh trong cuộc đời Ý kiến của Lê Ngọc trà hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ nghệ thuật nói của tình cảm con người, là những rung động của trái tim nhà thơ trước cuộc đời. Nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng tuy hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Bài thơ “ Sự bùng nổ của mùa xuân” của Thạch Thảo là bài thơ mang những chiêm nghiệm, suy tư mà nhà thơ muốn giãi bày, gửi gắm tới bạn đọc, gửi gắm tình ý sâu xa về cái đẹp của cuộc đời.Tâm hồn người làm thơ đẹp lắm, mơ mộng lắm, nhưng bao giờ cũng phải cúi xuống cuộc đời theo nghĩa trần thế nhất để yêu thương. Nhà thơ phải trân quý cái nghiệp của mình để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đích thực, bằng cái tình, cái tâm nhiệt thành với từng sự sống, bằng cái tài, sự tâm huyết và cả những trăn trở nhiều lần để tìm được tiếng nói riêng, tiếng nói tri âm cùng bạn đọc. Đón nhận, đồng cảm, thấu hiểu những tâm tư tình cảm mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm là nhiệm vụ của bạn đọc. Bạn đọc nâng niu, trân quý những tình cảm cao đẹp mà nghệ sĩ gửi gắm chính là quá trình đồng sáng tạo, quá trình đi tìm “hồn đồng điệu” cùng người nghệ sĩ chân chính. Thơ đong đầy xúc cảm và người đọc hãy đón nhận nó bằng tất cả trải nghiệm và suy ngẫm. hãy nghe, cảm nhận và đồng sáng tạo. Dùng cái tâm, cái tình để cảm xúc đánh thức, để “giãi bày và gửi gắm tâm tư”. Cần tình để bao dung, cần tài để tình thăng hoa và nghệ thuật vượt ra ngoài quy luật băng hoại của thời gian.Nhà thơ Thanh Thảo đã “giãi bày và gửi gắm tâm tư” nơi lòng mình đến bạn đọc muôn đời về cái đẹp của cuộc sống. Từ bao đời nay cái đẹp vẫn luôn trường tồn, luôn được con người trân quý và ngợi ca trong dòng chảy thơ ca bởi “Thơ là con đường ngắn nhất đi từ trái tim đến trái tim”.
  27. Đề 6. Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi: LỜI RU CỦA MẸ Lời ru ẩn nơi nào Giữa mênh mang trời đất Khi con vừa ra đời Lời ru về mẹ hát Lúc con nằm ấm áp Lời ru là tấm chăn Trong giấc ngủ êm đềm Lời ru thành giấc mộng Khi con vừa tỉnh giấc Thì lời ru đi chơi Lời ru xuống ruộng khoai Ra bờ ao rau muống Và khi con đến lớp Lời ru ở cổng trường Lời ru thành ngọn cỏ Đón bước bàn chân con Mai rồi con lớn khôn Trên đường xa nắng gắt Lời ru là bóng mát Lúc con lên núi thẳm Lời ru cũng gập ghềnh Khi con ra biển rộng Lời ru thành mênh mông. Câu 1. Bài thơ có cách ngắt nhịp chủ yếu ? A. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. B. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 4/1. C. Ngắt nhịp 4/1 hoặc 3/2. D. Ngắt nhịp 2/3 hoặc 1/1/3. Câu 2. Bài thơ gieo vần A. Vần chân B. Vần cách C. Vần liền D. Vần hỗn hợp Câu 3. Bài thơ được viết theo thể thơ nào? A. Bốn chữ B. Năm chữ B. Tự do D. Lục bát Câu 4. Nội dung chính của bài thơ là: A. Bài thơ nói về giá trị của lời ru trong cuộc sống của mỗi con người B. Bài thơ mượn hình ảnh lời ru để nói về tình mẹ tha thiết, thiêng liêng, bất tử. C. Bài thơ gợi những niềm rung động sâu xa trong lòng người đọc về tình mẫu tử. D. Bài thơ sử dụng hình ảnh lời ru để bộc tấm lòng thảo hiếu của người con đối với mẹ. Câu 5. Từ “ mênh mang” được hiểu như thế nào?
  28. A. Rộng lớn đến mức như không có giới hạn B. Rộng đến mức có cảm giác mung lung, mờ mịt C. Rộng đến mức khoogn nhìn thấy chân trời D. Rộng lớn bao la đến không cùng. Câu 6. Hai câu thơ Lúc con nằm ấm áp Lời ru là tấm chăn Sử dụng biện pháp tu từ nào? A.Nhân hoá B. So sánh C. Liệt kê D. Nói quá Câu 7. Người bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ trong bài thơ trên là? A. Người mẹ B. Lời ru B. Người con D. Người bà Câu 8. Em hiểu gì về hình ảnh “lời ru” được tác giả sử dụng trong bài thơ? A. “Lời ru” là hình ảnh ẩn dụ đầy cảm động về tình mẹ thiêng liêng, cao cả. B. Hình ảnh “lời ru” được lặp lại nhiều lần tạo nên giọng điệu tha thiết, gợi sức sống, sự bền bỉ của lời ru C. Lời ru nâng bước con vào đời. D. Lời ru ngọt ngào của mẹ mang đên cho con giấc ngủ say nồng. Câu 9. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ so sánh được sử dụng trong khổ thơ thứ hai? Câu 10. Em nhận ra thông điệp chung gì từ các dòng thơ sau: “Khi con ra biển rộng Lời ru thành mênh mông”. Và: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. (Chế Lan Viên) II. Phần viết Cảm nhận về vẻ đẹp mùa thu quê hương trong bài thơ “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh? Đi suốt cả ngày thu vẫn chưa về tới ngõ dùng dằng hoa quan họ nở tím bên sông Thương nước vẫn nước đôi dòng chiều vẫn chiều lưỡi hái những gì sông muốn nói cánh buồm đang hát lên đám mây trên Việt Yên rủ bóng về Bố Hạ
  29. lúa cúi mình giấu quả ruộng bời con gió xanh nước màu đang chảy ngoan giữa lòng mương máng nổi mạ đã thò lá mới trên lớp bùn sếnh sang cho sắc mặt mùa màng đất quê mình thịnh vượng những gì ta gửi gắm sắp vàng hoe bốn bên hạt phù sa rất quen sao mà như cổ tích mấy cô coi máy nước mắt dài như dao cau ôi con sông màu nâu ôi con sông màu biếc dâng cho mùa sắp gặt bồi cho mùa phôi phai nắng thu đang trải đầy đã trăng non múi bưởi bên cầu con nghé đợi cả chiều thu sang sông. Gợi ý Phần Câu Nội dung Điểm 1 Ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. 0.5 2 Vần hỗn hợp 0.5 3 Năm chữ 0.5 4 Bài thơ mượn hình ảnh lời ru để nói về tình mẹ tha 0.5 Đọc thiết, thiêng liêng, bất tử. hiểu 5 Rộng lớn đến mức như không có giới hạn 0.5 6 So sánh 0.5
  30. 7 Người mẹ 0.5 8 “Lời ru” là hình ảnh ẩn dụ đầy cảm động về tình mẹ 0.5 thiêng liêng, bất tử. 9 Hình ảnh so sánh: 1.0 Lúc con nằm ấm áp Lời ru là tấm chăn - Tác dụng: Khi con nằm ấm áp trong vòng tay mẹ, lời ru như tấm chăn mềm mại che chở, ủ ấp con, đưa con vào giấc mộng lành. Hình ảnh so sánh gợi lên niềm yêu thương và tấm lòng của người mẹ. Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt, tạo nên hình tượng thơ chân thật. Phải có một trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương với con tác giả mới phát hiện và ghi lại cảm xúc một cách chân thành và sâu sắc đến thế. 10 Điểm chung của các dòng thơ: 1.0 Điểm chung của các dòng thơ: Tình mẫu tử là vĩnh hằng, bất diệt, luôn tìm thấy bên cuộc đời mỗi người. Dẫu con lớn khôn, trưởng thành thì tình mẹ vẫn không xa vắng, vẫn ở bên con chia sẻ ngọt bùi, che chở đời con, dõi theo mỗi bước con đi, giúp con vững bước trên đường đời. Mẹ vừa là bến đỗ bình yên vừa là động lực trên bước đường trưởng thành của con. Phần * Yêu cầu về hình thức: Viết Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng,mạch ý mạch lạc * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Dẫn dắt và nêu được ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh. +) Thân bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Không gian chiều thu rộng rãi, thoáng đãng, ẩn chứa nỗi niềm của người đi xa trở về - Tình quê trang trải, rộn lòng, mừng vui ngày gặp gỡ. - Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn, dòng sông quê hương – mạch nguồn của sự sống đã bồi đắp cho sự trù phú, giàu có của quê hương gợi niềm tự hào, ngợi ca vẻ đẹp quê hương. - Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ + Kết bài:
  31. Khẳng định lại vẻ đẹp quê hương và tình cảm của nhà thơ với quê hương. Bài tham khảo Mùa thu luôn là đề tài, là cảm hứng quen thuộc lâu đời của thơ ca.Trong kho tàng văn học dân tộc ta đã từng biết đến một mùa thu trong veo trong thơ Nguyễn Khuyến, thu ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư, dào dạt và đượm buồn trong thơ Xuân Diệu.Và thật bất ngờ khi ta gặp một Hữu Thỉh tinh tế, êm dịu, ngọt ngào trong “ Chiều sông Thương” Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong quân đội, ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn và về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng.Thơ Hữu Thỉnh mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Ông nổi tiếng với những bài thơ mang phong cách độc đáo, mới lạ. Viết về quê hương và tình yêu quê hương, bài thơ “Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh là một bài thơ xinh xắn, đáng yêu. Những câu thơ, lời thơ ngọt ngào ấy cứ rạo rực trong lòng, làm căng mở các giác quan và thấm ngọt vào hồn bạn đọc. Chiều thu đẹp thơ mộng bên sông Thương, thuộc vùng Bố Hạ, Việt Yên là thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật, được miêu tả và cảm nhận. Người đi xa về thăm quê trìu mến, bâng khuâng dõi nhìn cảnh vật quê hương là tâm trạng nghệ thuật. Buổi chiều trong thơ, nhất là chiều thu thường man mác buồn, nhưng “Chiều sông Thương” lại nhiều thiết tha, bâng khuâng, rạo rực. Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Có lẽ vì cô gái Kinh Bắc xinh đẹp (hoa Quan họ) mà chàng trai thấy “nở tím” cả dòng sông quê nhà; đôi bàn chân cứ “dùng dằng” mãi: “Đi suốt cả ngày thu Vẫn chưa về tới ngõ Dùng dằng hoa Quan họ Nở tím bên sông Thương”. Thương quê mẹ, quê em “nước vẫn nước đôi dòng” biết bao lưu luyến gợi nhớ, gợi thương đã bao đời: “dòng trong dòng đục, em trông ngọn nào” Chiều quê, một buổi chiều mùa gặt, trăng non lấp ló chân trời, rất thơ mộng hữu tình “Chiều uốn cong lưỡi hái”. Một câu thơ, một hình ảnh rất thơ, rất tài hoa. Cánh buồm, dòng sông, đám mây, đều được nhân hóa, mang tình người và hồn người, như đưa đón, như mừng vui gặp gỡ người đi xa trở về: “Những gì sông muốn nói Cánh buồm đang hát lên Đám mây trên Việt Yên
  32. Rủ bóng về Bố Hạ”. Nhà thơ – đứa con đi xa trở về say sưa đứng ngắm nhìn cảnh vật, cánh đồng quê hương. Gió thu trở thành “con gió xanh”. Lúa uốn cong trĩu hạt, tưởng như đang “cúi mình giấu quả”. Một chữ “ngoan” tài tình gợi tả dòng nước “đỏ nặng phù sa” êm trôi trong lòng mương lòng máng: “Nước màu đang chảy ngoan Giữa lòng mương máng nổi”. Cảnh vật đồng quê, từ đường nét đến sắc màu đều tiềm tàng một sức sống ấm no, chứa chan hi vọng. Là những nương “mạ đã thò lá mới – Trên lớp bùn sếnh sang”: Là những ruộng lúa “vàng hoe” trải dài, trải rộng ra bốn bên bốn phía chân trời mênh mông, bát ngát. Là dòng sông thơ ấu chở nặng phù sa, mang theo bao kỉ niệm, bao hoài niệm “Hạt phù sa rất quen – Sao mà như cổ tích”. Lần thứ hai, nhà thơ nói đến cô gái vùng Kinh Bắc, Quan họ duyên dáng, đa tình. Không phải là “Những nàng môi cắn chỉ quết trầu” Cũng không phải là “Những cô hàng xén răng đen – Cười như mùa thu tỏa nắng ” (“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm). Mà ở đây là những cô gái Quan họ xuất hiện trong dáng vẻ lao động “để thương, để nhớ, để sầu cho ai : “Mấy cô coi máy nước Mắt dài như dao cau” Chàng trai về thăm quê xúc động, khẽ cất lên lời hát. Tình yêu quê hương dào dạt dâng lên trong tâm hồn. Câu cảm thán song hành với những điệp từ điệp ngữ làm cho giọng thơ trở nên bồi hồi, say đắm. Bức tranh quê nhà với bao sắc màu đáng yêu: “Ôi con sông màu nâu Ôi con sông màu biếc Dâng cho mùa sắp gặt Bồi cho mùa phôi thai” Tiếng thơ mang nặng ân tình đối với đất mẹ quê cha, đối với cái nôi mà “em ” đã sinh thành, là nơi anh đã lớn khôn. Biện pháp điệp ngữ “ôi con sông” “ cho” tạo sự ngân nga, thiết tha, bồi hồi, say đắm, cảm xúc dâng trào khiến lòng người xúc động khẽ cất lên lời hát ngợi ca, tự hào về một vùng quê màu mỡ. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều tàn. “Nắng thu đang trải đầy Đã trăng non múi bưởi Bên cầu con nghé đợi Cả chiều thu sang sông”. Dòng sông quê hương là mạch nguồn dẫn truyền sự sống, nơi tích tụ dưỡng chất, bồi đắp và dâng cho đời những mùa vàng bội thu, dâng cho đời nhựa sống làm nên sự phồn thịnh của quê hương. Màu nắng thu nhạt nhòa trong chiều buông. Vầng
  33. trăng non lấp ló như “múi bưởi”. Và con nghé đứng đợi mẹ bên cầu hình ảnh nào cũng giàu sức gợi, dân dã, thân thuộc, yên bình khiến hồn người bâng khuâng, rạo rực, thiết tha một tình quê. Cảnh sắc quê hương thơ mộng, hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dào dạt trong hồn người.Người đi xa trở về thăm quê, mắt như ôm trùm cảnh vật, hồn như đang nhập vào cảnh vật, bước chân thì “dùng dằng”, níu giữ, vấn vương. Con sông Thương trong ca dao tưởng như đã nhập lưu với “con sông màu nâu, con sông màu biếc” của Hữu Thỉnh. Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ. Một tình quê trang trải, dạt dào như ru hồn ta vào ca dao, cổ tích. Thể thơ 5 chữ, giàu vần điệu nhạc điệu, lời thơ thanh nhẹ, hình tượng đẹp, trong sáng, cảm xúc dào dạt, bâng khuâng, mênh mang, nhiều biện pháp tu từ độc đáo, hình ảnh thơ đẹp Chất liệu văn hoá dân tộc dân gian ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ, hơi thơ trong bài “ Chiều sông Thương” của Hữu Thỉnh khiến hồn người cũng đắm say, mơ mộng cùng cảnh vật nên thơ. Chất thơ, tình thơ là ở đấy cứ giăng mắc, vấn vương mãi hồn ta về một chiều thu nên thơ, hữu tình. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã bộc lộ nhiều cảm xúc sâu lắng về sông Thương và quê hương quan họ, tình yêu quê hương, yêu đất nước đã ngân nga, thấm chảy trong hồn nhà thơ để rồi cái mạch nguồn dạt dào ấy cứ thiết tha, lắng đọng ngân rung trong từng lời thơ, thơ thơ nhẹ nhàng êm ái trong trong khúc nhạc tâm hồn: “ Chiều sông Thương” – Một bài thơ xinh xắn, đáng yêu, đáng mến! === Đề 7. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: Chót trên cành cao vót Mấy quả sấu con con Như mấy chiếc khuy lục Trên áo trời xanh non. Trời rộng lớn muôn trùng Đóng khung vào cửa sổ Làm mấy quả sấu tơ Càng nhỏ xinh hơn nữa. Trái con chưa đủ nặng Để đeo oằn nhánh cong. Nhánh hãy giơ lên thẳng Trông ngây thơ lạ lùng. Cứ như thế trên trời Giữa vô biên sáng nắng Mấy chú quả sấu non Giỡn cả cùng mây trắng Mấy hôm trước còn hoa Mới thơm đây ngào ngạt, Thoáng như một nghi
  34. ngờ, Trái đã liền có thật. Ôi! từ không đến có Xảy ra như thế nào? Nay má hây hây gió Trên lá xanh rào rào. Một ngày một lớn hơn Nấn từng vòng nhựa một Một sắc nhựa chua giòn Ôm đọng tròn quanh hột Trái non như thách thức Trăm thứ giặc, thứ sâu, Thách kẻ thù sự sống Phá đời không dễ đâu! Chao! cái quả sâu non Chưa ăn mà đã giòn, Nó lớn như trời vậy, Và sẽ thành ngọt ngon. (Trích trong tập“Tôi giàu đôi mắt” (1970), trong “Những tác phẩm thơ tiêu biểu và nổi tiếng”, Xuân Diệu) Lựa chọn đáp án đúng: Câu 1: Bài thơ trên viết theo thể thơ nào? A. Bốn chữ B. Năm chữ C. Bảy chữ D. Tám chữ Câu 2: Trong bài thơ có sử dụng biện pháp tu từ gì? A. So sánh B. Nhân hóa và So sánh C. Nhân hóa và Ẩn dụ D. So sánh, Nhân hóa, Ẩn dụ. Câu 3: Trong bốn khổ thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả những quả sấu non bằng những hình ảnh nào? A. Những quả sấu non như những chiếc khuy lục, nhỏ xinh, ngây thơ, đũa giỡn cùng mây trắng. B. Những quả sấu non nhỏ xinh, ngây thơ. C. Những quả sâu non nhí nhảnh. D. Những quả sâu non như chiếc khuy lục. Câu 4: Tại sao tác giả lại cảm thấy những quả sấu tơ “Càng nhỏ xinh hơn nữa”? A. Vì chúng ở trên cao. B. Vì chúng là những quả sấu non. C. Vì chúng chưa lớn. D. Vì chúng là “khuy lục” của áo trời mà trời thì rộng lớn.
  35. Câu 5: Em hiểu từ “Giỡn” trong câu thơ “Giỡn cả cùng mây trắng” có nghĩa là gì? A. Vui B. Đùa C. Chơi D. Nghịch Câu 6: Cảm xúc của tác giả về sự sinh thành từ hoa đến trái của quả sấu là cảm xúc gì? A. Vui sướng B. Bất ngờ C. Ngạc nhiên và thích thú D. Phấn khởi Câu 7: Khi gọi tên quả sấu bằng những tên khác nhau “quả sấu con con”, “quả sấu tơ”, “trái con”, “mấy chú quả sấu con” tác giả muốn thể hiện dụng ý gì? A. Thể hiện những quả sấu còn non, nhỏ bé, xinh xắn, ngây thơ, vui nhộn. B. Thể hiện sự gần gũi. C. Thể hiện sự vui đùa. D. Thể hiện thân thiết. Câu 8: Nội dung chính của bài thơ là gì ? A. Miêu tả quả sấu non trên cao. B. Miêu tả quá trình phát triển của quả sấu. C. Miêu tả sức sống kì diệu của quả sấu. D. Miêu tả quả sấu non và sức sống kì diệu, mạnh mẽ của nó. Qua đó, tác giả cho người đọc hiểu được sức sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược. Câu 9: Xác định biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ sau và cho biêt tác dụng của biện pháp tu từ ấy? Trái non như thách thức Trăm thứ giặc, thứ sâu, Thách kẻ thù sự sống Phá đời không dễ đâu! Câu 10: Qua bài thơ, tác giả muốn nhắn nhủ tới người đọc điều gì? II. Phần viết Cảm nhận về bài thơ “ Hỏi” của Hữu Thỉnh? Tôi hỏi đất: - Đất sống với đất như thế nào? - Chúng tôi tôn cao nhau. Tôi hỏi nước: - Nước sống với nước như thế nào? - Chúng tôi làm đầy nhau. Tôi hỏi cỏ: - Cỏ sống với cỏ như thế nào? - Chúng tôi đan vào nhau
  36. Làm nên những chân trời. Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào? Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào? Tôi hỏi người: - Người sống với người như thế nào? (“ Hỏi” - Hữu Thỉnh, Trích Thư mùa đông) Phần Câu Nội dung Điểm 1 Năm chữ 0.5 2 So sánh, Nhân hóa, Ẩn dụ 0.5 3 Những quả sấu non như những chiếc khuy lục, nhỏ 0.5 xinh, ngây thơ 4 Vì chúng là “khuy lục” của áo trời mà trời thì rộng lớn. 0.5 Đọc hiểu 5 Đùa 0.5 6 Ngạc nhiên và thích thú 0.5 7 Thể hiện những quả sấu còn non, nhỏ bé, xinh xắn, ngây 0.5 thơ, vui nhộn 8 Miêu tả quả sấu non và sức sống kì diệu, mạnh mẽ của 0.5 nó. Qua đó, tác giả cho người đọc hiểu được sức sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược. 9 - Xác định được biện pháp tu từ được sử dụng trong 1.0 khổ thơ: + So sánh: Trái non như thách thức + Nhân hóa: Thách thức + Ẩn dụ: Trăm thứ giặc thứ sâu - chỉ kẻ thù xâm lược - Tác dụng: Quả sấu non không sợ loài giặc loài sâu nào cứ lên, cứ trở thành ngon ngọt. Đó là sức sống kì diệu mạnh mẽ của nó. Qua đó, tác giả cho ta hiểu một chân lí lớn lao: không một loài sâu bọ, không một thứ giặc nào có thể hủy diệt hay chiến thắng sự sống. Mọi cuộc bắn phá rồi cũng sẽ thất bại, không thể phá được cuộc sống vĩ đại của dân tộc Việt Nam. 10 HS nêu được lời nhắn nhủ mà tác giả muốn gửi tới người 1.0 đọc:
  37. Qua hình ảnh quả sấu non, nhà thơ muốn giáo dục lòng yêu thiên nhiên say mê, khám phá những bí ẩn của tự nhiên xung quanh và lòng tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam ta. Phần * Yêu cầu về hình thức: Viết Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng,mạch ý mạch lạc * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Dẫn dắt và nêu được ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ “ Hỏi ” của Hữu Thỉnh. +) Thân bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Câu hỏi của nhà thơ dành cho thiên nhiên ( đất, nước, cỏ) -> Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ – “đã sống với nhau như thế nào?”. Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” (để ) “làm nên”. Các sự vật tương sinh để cùng tồn tại cùng “ làm nên” những điều tốt đẹp. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hoá, qua chiêm nghiệm mà đúc kết được. - Nhà thơ hỏi con người -> Con người cần phải sống đẹp và sống có ý nghĩa, hướng đến lẽ sống cao đẹp: mỗi chúng ta hãy học cách hi sinh và dâng hiến, sống với nhau bằng thái độ sẻ chia, cảm thông. Sức mạnh của cuộc sống đích thực chính là sự đoàn kết, gắn bó giữa người với người. - Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ +) Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp quê hương và tình cảm của nhà thơ với quê hương. Bài tham khảo Thơ Hữu Thỉnh viết về thiên nhiên thì đậm chất trữ tình còn viết về cuộc sống con người lại đậm chất triết lí, đó là chuyện cuộc đời sinh sắc sống động! Là máu thịt chứ không phải là giấy mực. Hữu Thỉnh có được một phong cách chắc chắn, vững vàng, đôi khi thô ráp, nhưng thường khắc tạc sâu đậm. Thơ Hữu Thỉnh là tiếng
  38. lòng tha thiết với đời, một ngòi bút tận tâm và đôn hậu. Cùng với chất trữ tình, mạch nguồn trữ tình – vốn là hồn cốt thơ Hữu Thỉnh, tính triết luận sâu sắc và cảm xúc đậm đà trong thơ Hữu Thỉnh quyện hoà, đan xen, cùng nảy nở từ cội nguồn truyền thống. Bài thơ “ Hỏi” là một bài thơ đậm chất triết lý, chứa đựng nhiều bài học nhân sinh sâu sắc. Người đọc yêu mến thơ Hữu Thỉnh vì cách cảm, cách nghĩ gắn bó nhiều với tâm thức dân gian. Những câu thơ cảm động thấm thía, gọi dậy tâm tình của thảo mộc, tìm cách giao cảm với hồn quê, hồn đất, hướng về những gì thiết thân gắn bó nhất, nhưng ngàn đời vẫn linh thiêng Bài thơ Hỏi của Hữu Thỉnh được viết năm 1992, lúc này tác giả đã năm mươi tuổi. Sống trọn một nửa thế kỷ, ở vào cái tuổi “tri thiên mệnh” như Khổng Tử nói, Hữu Thỉnh đã đủ độ chín trong suy tư trải nghiệm về thế thái nhân tình. Thường càng nhiều tuổi, cái nhìn và cách ứng xử của người ta càng nhân hậu, vị tha hơn. Biết được những cái chưa biết của mình về đời, hiểu được những điều chưa hiểu của mình về người, do vậy những trang thơ của ông thường dồn nén chất nghĩ và sức nghĩ. Bài thơ Hỏi với một khuôn khổ nhỏ nhắn, mở ra nhiều tầng bậc suy tưởng, thể hiện cốt cách tư duy đậm chất dân gian của Hữu Thỉnh. Xuyên suốt bài thơ là những câu hỏi. Toàn bài được xây dựng theo hình thức đối thoại. Người hỏi là chủ thể trữ tình, đối tượng hướng tới là thiên nhiên: “đất”, “nước”, “cỏ” (ba khổ đầu) hình thức ngôn ngữ là đối thoại, còn đối tượng hướng tới là con người (nửa còn lại), ngôn ngữ thơ là độc thoại. Tính trí tuệ của bài thơ nằm ngay trong kết cấu, vừa sâu vừa tinh, vừa khái quát vừa chi tiết về những tình cảm, suy ngẫm của tác giả. Tứ thơ tạo dựng từ sự liên tưởng, đối chiếu: liên tưởng từ các hiện tượng tự nhiên đến nhân sinh. Thiên nhiên được nội tâm hoá, nhìn qua lăng kính ưu tư nhân thế đầy thi vị: Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào? – Chúng tôi tôn cao nhau Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào? – Chúng tôi làm đầy nhau Tôi hỏi cỏ: – Cỏ sống với cỏ như thế nào? – Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời Những câu thơ của Hữu Thỉnh mang ý – nghĩa – đi – tìm, tìm cách khám phá và cảm nhận ý nghĩa văn hoá ẩn dụ trong những hiện tượng tự nhiên. Ý nghĩa ấy được trình bày bằng lời hỏi của tác giả “Tôi hỏi ”. Điều nhà thơ muốn hỏi đất, hỏi nước, hỏi cỏ là những sự vật ấy sống với nhau như thế nào? Từng sự vật đưa ra câu trả lời trực tiếp, dưới hình thức vấn đáp (các dấu gạch ngang đầu dòng) mà không phải gián tiếp qua lời thuật lại của tác giả. Mỗi khổ thơ đều mang ý nghĩa sâu sắc, hình thức giản dị, nhiều sức gợi, Hình thức mỗi khổ thơ gồm hai câu đi kèm với nhau ấy có dáng dấp như những câu thành ngữ, tục ngữ của cha ông ta xưa, qua sự
  39. chiêm nghiệm đúc kết mà có được, khiến câu thơ mang tính chất dân gian nhuần nhị. Mặt khác, cấu trúc ngôn ngữ đối thoại tạo nên sự đa giọng điệu, sự đa thanh – làm nên tính hiện đại của bài thơ. Từ cái nhìn hiện thực khách quan: tầng đất tôn nhau lên, nước làm đầy, cỏ đan vào nhau mở ra bát ngát chân trời, nhà thơ chuyển hoá thành cái nhìn nội tâm: hình ảnh bên ngoài ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa bên trong: từng sự vật đều có cách thức sống riêng làm ẩn dụ cho nhân thế, mỗi sự vật có tiếng nói riêng và mang ý nghĩa biểu tượng. Tôi hỏi đất: – Đất sống với đất như thế nào? – Chúng tôi tôn cao nhau Đất muôn thủa vẫn là thứ gắn bó máu thịt và thiêng liêng với con người nhất. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy đất trong mối quan hệ “sống cùng”, “sống với” để khám phá ra ý nghĩa nhân sinh: “tôn cao” là một triết lý sống. “Tôn cao” là nâng đỡ chứ không phải vùi dập, “tôn cao” là hướng mở không gian chứ không gói gọn không gian; “tôn cao” là vươn ra ánh sáng chứ không phủ mờ, che lấp; “tôn cao” là để vững chãi thêm trước điều kiện thử thách khắc nghiệt Bằng một lẽ tự nhiên, sau “đất”, Hữu Thỉnh chọn “nước” để hỏi: Tôi hỏi nước: – Nước sống với nước như thế nào? – Chúng tôi làm đầy nhau Nước vốn mềm mại, uyển chuyển, nước biểu trưng cho “khả năng ứng biến: một nét đặc sắc của văn hoá Việt Nam. “Nước làm đầy nhau” - cũng là một sự nâng cao nhưng trước hết là bổ khuyết, “làm đầy” thực ra là an ủi, xoa dịu, khoả lấp, làm mềm lại những tổn thất, tổn thương. Hữu Thỉnh đã nhìn thấy triết lý nhân sinh trong đất và nước. Rồi đến cỏ, trong cái bát ngát mênh mông của cỏ, nhà thơ hỏi: Tôi hỏi cỏ: – Cỏ sống với cỏ như thế nào? – Chúng tôi đan vào nhau Làm nên những chân trời Câu trả lời của cỏ thể hiện một cách sống đầy bản lĩnh và tình cảm (“đan vào”). Khẳng định tương lai, khát vọng “ làm nên những chân trời”. Phải có cái gốc nhân tình vững chắc thì mới nhìn ra được sự vận động của thiên nhiên và thế thái nhân tình. Hữu Thỉnh đã cúi xuống để hỏi đất, lội ngược dòng tìm nguồn để hỏi nước, bước ra không gian rộng lớn để hỏi cỏ – “đã sống với nhau như thế nào?”. Câu trả lời của tự nhiên là một lối sống, một cách ứng xử văn hoá: “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào” (để ) “làm nên”. Các sự vật tương sinh để cùng tồn tại cùng “ làm nên” những điều tốt đẹp. Những câu hỏi đã được ấp ủ, thôi thúc, day dứt từ lâu, những câu trả lời là kết quả của quá trình nội tâm hoá, qua chiêm nghiệm mà đúc kết được. Bài thơ không dừng lại ở tiếng âm trầm, hiền hậu, lắng sâu của đất, tiếng trong trẻo
  40. thanh cao của nước, tiếng xôn xao vui vui của cỏ không dừng ở thanh âm và triết lý sống của thiên nhiên mà đi sâu “ hỏi” cách sống của con người: Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào? Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào? Tôi hỏi người: – Người sống với người như thế nào? Nếu ba khổ đầu tâm trạng nhà thơ dừng lại ở thế cân bằng, cái nhìn hoà đồng, cảm thông cùng vạn vật giúp chủ thể có được cảm giác an nhiên tự tại thì ở đoạn thơ sau, mạch thơ trở nên khắc khoải, xoáy sâu vào tâm can con người. Đối tượng hướng đến đã thay đổi, từ thiên nhiên chuyển sang con người, cấu trúc khổ thơ cũng thay đổi, khổ này chỉ có câu hỏi nhưng không có câu trả lời. Lúc này,thiên nhiên trở thành tấm gương soi cho nhân tình, đúng hơn, là kinh nghiệm đối nhân xử thế. Học tập kinh nghiệm từ thiên nhiên là vốn văn hoá được truyền từ đời này sang đời khác, qua cả ý thức và vô thức của con người. Thiên nhiên đã “sống với nhau”, “tôn cao”, “làm đầy”, “đan vào”, “làm nên” nhau Vậy còn con người thì sao? – Người sống với người như thế nào? Trong bài thơ câu hỏi: “Người sống với người như thế nào?” được lặp đi lặp lại tới ba lần, lần nào cũng khắc khoải, đau đáu mà không có một câu trả lời. Cách kết thúc như vậy tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Tác giả đã gieo vào lòng người đọc câu hỏi suy ngẫm, đòi hỏi mỗi người cần tự nghiêm túc trả lời. Câu trả lời chính là “tôn cao nhau”, “làm đầy nhau”, “đan vào nhau”, nghĩa là phải sống đẹp và sống có ý nghĩa, hướng đến lẽ sống cao đẹp: mỗi chúng ta hãy học cách hi sinh và dâng hiến, sống với nhau bằng thái độ sẻ chia, cảm thông. Sức mạnh của cuộc sống đích thực chính là sự đoàn kết, gắn bó giữa người với người. “Sống với” là sống với người và sống với mình, sống nghiệm sinh trong từng khoảnh khắc của riêng mình và sống tử tế với mọi người, chính là biết “tôn cao” những giá trị đích thực, “làm đầy” những mất mát tổn thương, khoả lấp những khoảng cách, để làm nên ý nghĩa cho sự tồn tại của mỗi người. Không nên để những ảo tưởng che lấp đi cái chân thật sáng trong, nhất là không được quên những mảnh đời bất hạnh đang cần đến ở chúng ta một niềm an ủi. Và phải biết lắng nghe tiếng thì thầm của cây cỏ, tiếng trầm lắng của lòng người để sống tốt hơn, đẹp hơn. Bài thơ là nỗi niềm trăn trở, sự suy ngẫm của nhà thơ về thái độ sống của mỗi con người trong cuộc đời; đồng thời cũng là lời nhắc nhở mọi người tự nhận thức lại thái độ sống của mình và tự soi lại mình để có cách “sống với nhau” cho phù hợp, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Thơ Hữu Thỉnh, ở những bài hay như bài thơ Hỏi đã đạt đến tính hàm súc cổ điển, với lối hành văn trí tuệ và chất cảm xúc đằm thắm, nhuần nhị. Hồn cốt dân
  41. gian, nếp cảm, nếp nghĩ gắn bó với truyền thống ai đọc cũng thấy thân quen như tự những câu thơ đã nằm trong trí nhớ từ lâu. (Tham khảo từ “Tạp chí xứ Thanh” số 202, năm 2012, trang 51 ) Đề 8. Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: CỦ KHOAI NƯỚNG Sau trận mưa rào vòm trời như được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn. Đã chớm hè nhưng trời vẫn lành lạnh, cái lạnh làm người ta hưng phấn và chóng đói. Thường Mạnh đi học về là đi thả trâu. Tối mịt cậu rong trâu về, đầu tưởng tượng đến một nồi cơm bốc khói nghi ngút. Nhưng từ giờ đến tối còn lâu và cậu cần phải tìm được một việc gì đó trong khi con trâu đang mải miết gặm cỏ. Cậu bèn ngồi đếm từng con sáo mỏ vàng đang nhảy kiếm ăn trên cánh đồng màu đã thu hoạch. Thỉnh thoảng chúng lại nghiêng ngó nhìn cậu, ý chừng muốn dò la xem "anh bạn khổng lồ" kia có thể chơi được không. Chợt Mạnh phát hiện ra một đám mầm khoai đỏ au, mập mạp, tua tủa hướng lên trời. Kinh nghiệm đủ cho cậu biết bên dưới những chiếc mầm là củ khoai lang sót. Với bất cứ đứa trẻ trâu nào thì điều đó cũng tương đương với một kho báu. Nó bị sót lại từ trước Tết và bây giờ nó sẽ rất ngọt. Để xem, anh bạn to cỡ nào? Không ít trường hợp bên dưới chỉ là một mẩu khoai. Nước miếng đã kịp tứa khắp chân răng khi cậu tưởng tượng đến món khoai nướng. Ruột nó trong như thạch. Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này. Thật may là mình đem theo lửa - cậu lẩm bẩm. Sợ niềm hy vọng đi veo mất nên cậu rón rén bới lớp đất mềm lên. Khi cậu hoàn toàn tin nó là một củ khoai thì cậu thọc sâu tay vào đất, sâu nữa cho đến khi những ngón tay cậu ôm gọn củ khoai khá bự, cậu mới từ từ lôi nó lên. Chà, thật tuyệt vời. Nó không chỉ đơn thuần là củ khoai sót. Nó y như quà tặng, một thứ kho báu trời đất ban riêng cho cậu. Mạnh đã có việc để làm, mà lại là một việc làm người ta háo hức. Trong chốc lát đống cành khô bén lửa và đợi đến khi nó chỉ còn lớp than hồng rực Mạnh mới vùi củ khoai vào. Cậu ngồi im lắng nghe một sự dịch chuyển vô cùng tinh tế dưới lớp than, cùi trắng muốt đang bị sức nóng ủ cho thành mật. Từng khoảnh khắc với Mạnh lúc này trở nên vô cùng huyền diệu. Rồi có một mùi thơm cứ đậm dần, cứ quánh lại, lan tỏa, xoắn xuýt. Cậu nhớ lại có lần bà kể, nhờ đúng một củ khoai nướng mà ông cậu thoát chết đói và sau đó làm nên sự nghiệp. Chuyện như cổ tích nhưng lại có thật. Nào, để xem sau đây cậu sẽ làm nên công trạng gì. Chợt cậu thấy có hai người, một lớn, một bé đang đi tới. Ông già ôm theo bọc tay nải còn cậu bé thì cứ ngoái cổ lại phía làng. Cậu nhận ra hai ông cháu lão ăn mày ở xóm bên. Hôm nay, chẳng có phiên chợ sao ông cháu lão cũng ra khỏi nhà nhỉ. Vài lần giáp mặt cậu bé và thấy mặt mũi nó khá sáng sủa. Bố mẹ nó chết trong một trận lũ quét nên nó chỉ trông cậy vào người ông mù lòa. Mạnh lén trút ra tiếng thở dài khi ông cháu lão ăn mày đã đến rất gần. Có thể thấy rõ cánh mũi lão phập phồng như hà hít tìm thứ mùi vị gì đó. Cậu bé vẫn câm lặng, thỉnh thoảng lén nhìn Mạnh. - Mùi gì mà thơm thế - ông cậu bé lên tiếng - Hẳn ai đang nướng khoai. Ngồi nghỉ một lát để ông xin lửa hút điếu thuốc đã cháu.
  42. Ông lão lần túi lấy gói thuốc lào. Thằng bé giúp ông tháo khỏi lưng chiếc điếu nhỏ xíu. Mùi khoai nướng vẫn ngào ngạt và Mạnh đành ngồi chết gí, không dám động cựa. Chỉ khi ông lão nhờ, cậu mới cúi xuống thổi lửa. Chà, ông cháu lão mà ngồi dai là củ khoai cháy mất. Đã có mùi vỏ cháy. Lửa sẽ lấn dần vào cho đến khi biến củ khoai thành đen thui mới thôi. Dường như đoán được nỗi khó xử của Mạnh, ông lão bảo: - Tôi chỉ xin lửa thôi Mạnh như bị bắt quả tang đang làm chuyện vụng trộm, mặt đỏ lên. Nhưng ông lão mắt lòa không thể nhìn thấy còn cậu bé ý tứ nhìn đi chỗ khác. - Thôi, chào cậu nhé. Ta đi tiếp đi cháu! Ông lật đật đứng dậy, bám vào vai cậu bé, vội vã bước. Cậu bé lặng lẽ nhìn Mạnh như muốn xin lỗi vì đã làm khó cho cậu. Cái nhìn đĩnh đạc của một người tự trọng, không muốn bị thương hại khiến Mạnh vội cúi gằm xuống. Ôi, giá như có ba củ khoai, chí ít cũng là hai củ. Đằng này chỉ có một Mạnh thấy rõ tiếng chân hai ông cháu xa dần. Nhưng chính khi ấy, khi củ khoai nóng hổi, lớp vỏ răn lại như từng gợn sóng nằm phơi ra trước mắt Mạnh, thì nỗi chờ đón háo hức lúc trước cũng tiêu tan mất. Giờ đây củ khoai như là nhân chứng cho một việc làm đáng hổ thẹn nào đó. Dù Mạnh có dối lòng rằng mình chẳng có lỗi gì sất nhưng cậu vẫn không dám chạm vào củ khoai Hình như đã có người phải quay mặt đi vì không dám ước có được nó. Có thể ông nội cậu đã từng nhìn củ khoai nướng cho ông làm nên sự nghiệp bằng cái cách đau đớn như vậy. Mặc dù rong trâu về từ chiều nhưng mãi tối mịt Mạnh mới vào nhà. Giờ đây mới là lúc cậu sống trọn vẹn với cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá. Cậu nhắm mắt lại mường tượng giây phút cậu bé kia mở gói giấy báo ra. Nửa củ khoai khi đó sẽ khiến cậu ta liên tưởng đến phép lạ, có thể lắm chứ! Và rồi cậu thấy lâng lâng đến mức chính mình tự hỏi liệu đây có phải là giấc mơ? ( Theo truyện ngắn Tạ Duy Anh ) Câu 1. Câu chuyện xảy ra vào thời điểm nào trong năm? A. Cuối đông B. Chớm hè C. Cuối xuân D. Đầu thu Câu 2. Ai là người kể chuyện? A. Cậu bé Mạnh B. Ông lão ăn mày C. Một người khác không xuất hiện trong truyện D. Cậu bé ăn mày Câu 3. Đâu là thành phần trạng ngữ trong câu “Sau trận mưa rào, vòm trời được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn.”? A. Sau trận mưa rào B. Vòm trời C. Rửa sạch D. Xanh và cao hơn Câu 4. Chủ đề của truyện là gì?
  43. A. Lòng dũng cảm B. Tinh thần lạc quan C. Tinh thần đoàn kết D. Lòng yêu thương con người Câu 5. Vì sao cậu bé Mạnh lại có “cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá”? A. Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn mày. B. Vì nhận được lời cảm ơn của ông lão. C. Vì được thưởng thức món ăn ngon. D. Vì không bị lão ăn mày làm phiền. Câu 6. Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong câu “Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo ra một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này.”? A. So sánh B. Nhân hóa C. Nói qúa D. Nói giảm nói tránh Câu 7. Từ “lật đật” trong câu “Ông lão lật đật đứng dậy.” miêu tả hành động như thế nào? A. Chậm dãi, thong thả B. Mạnh mẽ, dứt khoát C. Nhẹ nhàng, khoan khoái D. Vội vã, tất tưởi Câu 8. Cậu bé Mạnh có thái độ như thế nào đối với hai ông cháu lão ăn mày? A. Tôn trọng B. Coi thường C. Biết ơn D. Khinh bỉ Câu 9. Nếu em là nhân vật cậu bé Mạnh trong câu chuyện, em có cư xử với hai ông cháu lão ăn mày như nhân vật trong truyện đã làm hay không, vì sao? Câu 10. Từ câu chuyện của cậu bé Mạnh, em hãy viết đoạn văn ( 7 – 9 câu ) trình bày suy nghĩ về lòng yêu thương? II. Phần viết Nắng mùa thu? Gợi ý Phần Câu Nội dung Điểm 1 Chớm hè 0.5 2 Một người khác không xuất hiện trong truyện 0.5 3 Sau trận mưa rào 0.5 4 Lòng yêu thương con người 0.5 Đọc 5 Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn 0.5 hiểu mày
  44. 6 Nói quá 0.5 7 Vội vã, tất tưởi 0.5 8 Tôn trọng 0.5 9 - Nêu được cách cư xử của Mạnh: Cảm thông, chia sẻ 1.0 và tôn trọng với những người bất hạnh, kém may mắn. - Nếu là Mạnh thì em cũng sẽ làm như bạn ấy bởi chỉ có tình yêu thương mới làm rung động trái tim con người, từ trái tim mới chạm đến trái tim vì vậy hành động của Mạnh đã khiến cậu như lớn hơn, chững chạc hơn, tấm lòng bao dung, yêu thương con người của cậu vì thế mà rộng ra mãi. 10 Trình bày được một số ý sau: 1.0 - Tình yêu thương là sự đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ, gắn bó, quan tâm, giúp đỡ, yêu mến, trân trọng hòa hợp giữa con người với nhau. - Yêu thương được xem là một phẩm chất đẹp, cao quý và là giá trị sống cốt lõi của con người giúp con người gần nhau hơn. Chỉ cần một chút tình thương được cho đi, bạn sẽ mang đến cho người khác niềm hạnh phục, động lực để tiếp tục cuộc sống còn nhiều cơ cực và bản thân mình sẽ cảm thấy dễ chịu và hạnh phúc hơn. Tình yêu thương như một “sợi dây’ vô hình nào đó đang dần nối kết nối mọi người lại với nhau. - Người đón nhận tình yêu thương có thêm niềm tin vào cuộc sống. Sự đồng cảm, chia sẻ mà bạn gửi đến cho người đang khó khăn sẽ là nguồn động lực để giúp họ có thêm niềm tin vào cuộc sống. Cái mà bạn cho đi không nhất thiết phải là tiền bạc, của cải đối với một số trường hợp, điều họ cần hơn hết chính là sự động viên, an ủi và người đồng hành về mặt tinh thần. Vì thế, bạn đừng ngại chia sẻ với những người đang gặp khó khăn. Vì thế, bạn hãy cứ yêu thương thật nhiều nhé. - Thay đổi cái nhìn của mọi người trong xã hội: Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người vô cảm, không có thói quen chia sẻ và giúp đỡ người khác. Vậy tại sao bạn không phải là người khơi nguồn tình thương cho mọi người nhỉ? Chỉ những hành động nhỏ của bạn cũng có thể khiến mọi người chú ý quan sát, có cái nhìn mới mẻ hơn và sẽ cùng bạn tạo ra “ ngọn lửa” yêu thương ấm áp, lan tỏa khắp nơi Phần * Yêu cầu về hình thức: Viết Đảm bảo bố cục ba phần đầy đủ
  45. - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng,mạch ý mạch lạc * Yêu cầu về nội dung : Đảm bảo được một số nội dung cơ bản sau: +) Mở bài: Xúc cảm sâu sắc nhất về nắng mùa thu +) Thân bài: + Bộc lộ cảm xúc của bản thân về màu nắng, sắc nắng, hình nắng, hương vị của nắng mùa thu, sự vận động của nắng, mối tương quan của nắng thu với con người và vạn vật + Tình cảm với nắng thu: cảm mến, yêu thương, tha thiết, đợi chờ, hoài niệm +) Kết bài: Cảm xúc mến yêu, mời gọi, lưu luyến với nắng, với mùa thu êm dịu. Bài tham khảo Nắng thu lạ lắm! Trời đang chói gắt, ngột ngạt và oi bức của mùa hè sau một cơn mưa nhuần nhị tươi mát của mùa thu như chiếc chổi lông thần kỳ quét đi bao bụi bặm để tỏa ra cái nắng vàng rực rỡ. Từng sợi nắng ngỡ như chuốt sợi tơ vàng sau kẽ lá cây vườn. Vòm trời như bỗng cao hơn. Mây bây giờ tơ vương và bàng bạc thảng thốt. Cánh chim trời cũng chớm sự vội vã, hun hút. Nắng thu mọng nước ngọt cho bưởi, sánh vị đường cát cho hồng. Tất cả đánh thức râm ran tuổi thơ nâng bỗng cánh diều bay lên trời thu lộng gió với bao ước vọng. Nắng thu cũng ngọt dậy những quả đồi sim treo từng túi mật chín. Sim như một tín hiệu để báo thu về. Ai bảo sim là loài cây dại, mọc hoang. Sim đã hút bao tinh chất của đất đồi sỏi đá cằn khô để hoa sim cứ thế mà tím, tím lặng lẽ bền bỉ qua bao gió mưa. Ôi cái miền sim cứ tưởng là cằn, mọc lúp xúp mà đội lên những mâm - xôi - sim ứa ngọt. Ta càng thương đất nghèo chiu chắt bao trọn vẹn thủy chung Nắng thu vàng như một hồi quang ấm no của mùa lúa chín. Đến miền cao của phía Bắc, những ruộng lúa bậc thang như có nhịp điệu từng ngấn, từng ngấn một như những bậc cầu thang lên nhà sàn. Nắng thu uyển chuyển theo thảm vàng của lúa đã tạo ra bao dào dạt như sóng vỗ, sóng lượn lòng người. Nắng của thu vàng như một hợp âm reo vang hồ hởi khi ta hòa chung nhịp trống tựu trường của con trẻ. Nắng như những dấu chân son lọt qua khe hở lá bàng rộn ràng chạy nhảy. Nắng thật vô tư và hiếu động như tuổi thơ. Nắng tỏa ra, nắng không viền lại. Nắng dệt tơ, nắng giăng mắc. Nhà thơ Hoàng Cầm có những câu thơ thật hay về nắng trong bài “Bên kia sông Đuống”: “Những cô hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng”. Ôi cái vị nắng đậm vị trầu cay, đậm vị tình người cứ lan tỏa, cứ rưng rức chắc bền bén duyên. Ta cứ ngỡ nắng thu như một người bạn đồng hành có thể sẻ chia, bày tỏ tin cậy. Bởi tất cả đều trong veo, đều tươi sáng, đều thanh cao. Thu thì điềm tĩnh, nắng vàng lại dịu dàng lưu luyến. Lắng đọng thành múi quả tỏa hương mọng nước. Hoa
  46. mùa thu không tưng bừng rực rỡ, nồng nhiệt như hè mà chầm chậm bung nở chạm dần vào cái lõi của tâm trạng như một câu thơ xuất thần của Lưu Trọng Lư: “Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa”. Dây dưa lắm với nắng thu, bịn rịn lắm với bao hẹn ước. Cúc vàng là nhụy của nắng thu, thu hết bao nỗi niềm, bao e ấp. Chỉ một màu vàng của cúc thôi mà thổn thức lòng mình bao cung bậc. Cúc là chấm nhỏ điểm xiết của nắng như một lúm đồng tiền bén duyên vào thu Chợt dâng lên, dào dạt trong mình ắp đầy bao hoài niệm: Thu vẫn ở lại, lắng lại trong tình đời, tình người không phôi phai. Bởi trong thu vàng, nắng vẫn rót mật ong Đề 9 Đọc kĩ bài thơ sau và trả lời câu hỏi: Cánh cò cõng nắng qua sông Chở luôn nước mắt cay nồng của cha Cha là một dải ngân hà Con là giọt nước sinh ra từ nguồn. Quê nghèo mưa nắng trào tuôn Câu thơ cha dệt từ muôn thăng trầm Thương con cha ráng sức ngâm Khổ đau hạnh phúc nảy mầm thành hoa. Lúa xanh xanh mướt đồng xa Dáng quê hòa với dáng cha hao gầy Cánh diều con lướt trời mây Chở câu lục bát hao gầy tình cha. ( Lục bát về cha, Thích Nhuận Hạnh) Thực hiện các yêu cầu: Câu 1: Bài thơ trên được sáng tác theo thể thơ gì? A. Thơ bốn chữ C. Thơ lục bát B. Thơ năm chữ D. Thơ tự do Câu 2: Xác định phương thức biểu đạt chính của bài thơ? A. Tự sự B. Biểu cảm C. Miêu tả D. Nghị luận Câu 3. Bài thơ là lời bày tỏ cảm xúc của ai? A. Người bố B. Người bà C. Người mẹ D. Người con Câu 4 : Từ “ hao gầy” trong bài thơ được hiểu như thế nào? A. Hình ảnh cha vóc dáng dần gầy gò, sọp đi, nhọc nhằn suốt đời, lo toan hi sinh tất cả vì con của mình. B. Hình ảnh cha tảo tần khuya sớm để nuôi con nên người. C. Hình ảnh gầy gò theo tháng năm D. Hình ảnh cha lo toan, hi sinh cho con cái. Câu 5. Thông điệp mà bài thơ gửi gắm đến bạn đọc là gì? A. Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, biết ơn cha sâu nặng. B. Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, biết ơn cha sâu nặng. Đó cũng là truyện thống đạo lí của dân tộc Việt Nam về đạo làm con đối với đấng sinh thành. Ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng.
  47. C. Bài thơ ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng. D. Bài thơ là lời tâm sự của con dành cho cha kính yêu. Câu 6: Dòng nào sau đây nêu đúng nghĩa của từ “thăng trầm” trong bài thơ? A. Nhịp điệu trầm – bổng (cao – thấp) trong câu thơ. B. Ổn định, hạnh phúc trong cuộc sống. C. Đáng thương, khổ sở, nhiều niềm đau. D. Không ổn định, lúc thịnh lúc suy trong cuộc đời. Câu 7: Nội dung chính của bài thơ là gì ? A. Tô đậm tình yêu thương của mẹ dành cho con. B. Thể hiện sự nỗ lực và vươn lên từ cuộc sống nghèo khổ. C. Ca ngợi tình yêu thương và đức hi sinh, dành tất cả vì con của cha. D. Nhấn mạnh vào sự bảo vệ, che chở của cha mẹ dành cho con. Câu 8: Trong các cụm từ sau, đâu là cụm danh từ? A. chở câu lục bát C. một dải ngân hà B. dệt từ muôn thăng trầm D. xanh mướt đồng xa Câu 9: Em hãy nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh có trong hai câu thơ sau: Cha là một dải ngân hà. Con là giọt nước sinh ra từ nguồn (Trình bày bằng một đoạn văn từ 3– 5 câu) Câu 10: Nêu suy nghĩ của em về vai trò của người cha trong gia đình. (Trình bày bằng một đoạn văn từ 5– 7 câu) II. Phần viết Số phận mong manh, bất hạnh của cô bé bán diêm và tình cảm yêu thương con người của nhà văn Anđecxen qua đoạn trích truyện “ Cô bé bán diêm” ( Ngữ văn 6 bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Tập 1) Phần Câu Nội dung Điểm 1 Thơ lục bát 0.5 2 Biểu cảm 0.5 3 Người con 0.5 4 Hình ảnh cha vóc dáng dần gầy gò, sọp đi, nhọc nhằn 0.5 Đọc suốt đời, lo toan hi sinh tất cả vì con của mình. hiểu 5 Bài thơ thể hiện niềm xúc động, sự thấu hiểu, yêu kính, 0.5 biết ơn cha sâu nặng. Đó cũng là truyện thống đạo lí của dân tộc Việt Nam về đạo làm con đối với đấng sinh thành. Ca ngợi tình phụ tử thiêng liêng cao quý, đáng trân trọng. 6 Không ổn định, lúc thịnh lúc suy trong cuộc đời. 0.5 7 Ca ngợi tình yêu thương và đức hi sinh, dành tất cả vì 0.5 con của cha.
  48. 8 một dải ngân hà 0.5 9 Biện pháp tu từ so sánh: 1.0 So sánh: Cha là một dải ngân hà Con là giọt nước sinh ra từ nguồn Tác dụng: Dải ngân hà rất rộng lớn và bao la. Giọt nước đối với dải ngân hà ngoài kia thì vô cùng nhỏ bé. Nhưng giọt nước cũng phải sinh ra từ nguồn. Con là giọt nước nhior bé mà tinh khiết được sinh ra từ nguồn cội sáng đẹp là cha. So sánh như vậy để khẳng định công lao to lớn, sự vất vả hi sinh của người cha. Qua đó cũng thể hiện tình yêu và sự biết ơn của con đối với người cha kính yêu của mình. Niềm tự hào, hạnh phúc vì là con của cha. 10 Cha là trụ cột gánh vác mọi trọng trách của gia đình ( 1.0 Làm những việc nặng nhọc, lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống gia đình) Cha là chỗ dựa vững chắc lớn lao về mặt tinh thần ( cứng cỏi, tâm hồn cao thượng ) Cùng với mẹ, cha tạo ra mái ấm hạnh phúc mang đến sự hoà thuận trong gia đình Con cần phải yêu kính, hiếu thuận với cha mẹ Phần a.Yêu cầu về hình thức: viết - Bài viết có bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt trôi chảy; văn phong trong sáng, có cảm xúc, bài làm có các ý rõ ràng, biết nêu và đánh giá luận điểm. b. Yêu cầu nội dung: Đảm bảo một số vấn đề cơ bản sau: +) Mở bài - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và khái quát được vấn đề nghị luận + ) Thân bài: - Số phận mong manh, bất hạnh của cô bé bán diêm + Gia cảnh: Mẹ, bà đã qua đời, ở với người bố nát rượu, khó tính. Hai bố con phải ở trên căn gác tồi tàn Em lang thang bán diêm trong khi “ bụng đói, cật rét”, em như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa Trong tình cảnh ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: được sưởi ấm, được ăn ngon, được gặp bà, gặp mẹ
  49. Cô bé đã chết bởi cái rét cắt da, cắt thịt của thời tiết và bởi sự ghẻ lạnh của người đời. - Tình cảm yêu thương con người của nhà văn Anđecxen qua đoạn trích truyện: nỗi đau đớn, xót xa trước những số phận nghèo khó, đặc biệt là trẻ em và gián tiếp lên án sự vô tâm, thờ ơ, dửng dưng của những con người trong xã hội +) Kết bài: Khẳng định lại vấn đề: nỗi cảm thông, thương xót của nhà văn dành cho những mảnh đời bất hạnh. Bài tham khảo Ai đã từng đọc “Cô bé bán diêm” của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ và vô cùng xúc An–Đéc–xen được mệnh danh là “ Ông già kể chuyện cổ tích”- nhà văn lớn của Đan Mạch. Truyện ông viết không chỉ dành cho thiếu nhi mà ở mỗi câu chuyện viết cho thiếu nhi là những bài học nhân đạo cho người lớn. Vốn là người đa cảm và có năng khiếu văn chương, ông trở thành nhà văn nổi tiếng với loại truyện dành cho thiếu nhi. Cái tên An-đéc-xen rất quen thuộc với bạn đọc năm châu bởi truyện của ông có sức hấp dẫn lạ lùng được tạo nên từ sự kết hợp tài tình giữa hiện thực và tưởng tượng, cùng với tính chất hoang đường, kì ảo. “Cô bé bán diêm” là câu chuyện vô cùng cảm động về số phận bất hạnh của một cô bé nghèo khổ trong xã hội tư bản đương thời. “ Cô bé bán diêm” của Andecxen phản ánh số phận mong manh, bất hạnh của em bé nghèo khổ. Thực tại của em quá phũ phàng, bà và mẹ đã bỏ em ra đi mãi mãi, em sống cùng người bố nát rượu trong căn gác xép tồi tàn, em lang thang bán diêm trong khi bụng đói, cật rét giữa đêm giao thừa rét cắt da, cắt thịt của xứ sở Đan Mạch. Đọc những trang văn của Andecxen ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé. Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mối cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống. Ngôi nhà xinh xắn với những dây thường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán. Để bớt cảm giác lạnh lẽo, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”. Em không thể về