Mở bài và kết bài các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 12

docx 8 trang thaodu 16264
Bạn đang xem tài liệu "Mở bài và kết bài các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxmo_bai_va_ket_bai_cac_tac_pham_van_hoc_trong_chuong_trinh_ng.docx

Nội dung text: Mở bài và kết bài các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn Lớp 12

  1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP MB: “Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Là những lời thơ thần của Lý Thường Kiệt vang dội trên sông Như Nguyệt để đánh đuổi quân Tống xâm lược cũng như khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta dưới thời nhà Lý. Sau hàng nghìn năm nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ quân chủ, trăm năm Pháp thuộc, 5 năm phát xít thì giờ đây thực dân Pháp đang âm mưu quay lại cướp nước ta lần nữa dưới chiêu bài lừa bịp công luận quốc tế “bảo hộ” và “khai hóa”, để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta cũng như vạch mặt, tố cáo thực dân Pháp thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Đây là một áng văn chính luận mẫu mực của nền văn học Việt Nam hiện đại, kết tinh những tinh hoa của dân tộc và khí phách non sông, mang giá trị pháp lí, giá trị lịch sử và cả giá trị nghệ thuật cao cả. Trước sự chứng kiến của hơn 50 vạn đồng bào cả nước tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, bằng bút pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn và giọng đọc đặc biệt thì Bản Tuyên Ngôn độc lập đã khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, thấm nhuần vào từng con tim, khối óc con người Việt Nam. KB: Lời văn không khô khan mà trũ tình đanh thép. Mỗi từ mỗi câu đều chứa đựng trong đó sức nặng tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh để giữ độc lập tự do. Cụm từ độc lập tự do được lặp đi lặp lại ba lần như khắc sâu vào muôn triệu người Việt Nam, như tiếng kèn xung trận vang lên mạnh mẽ hào hùng. Lời tuyên bố mở nước cũng là lời thề sắt đá vừa thiêng liêng vừa khích lệ nhân dân ta vừa là lời cảnh báo đối với kẻ thù. Tác phẩm kết thúc những cũng là mở đầu cho một thời kì đấu tranh giữ vững chủ quyền độc lập tự do của dân tộc. TÂY TIẾN MB: “Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ Tươi như cánh nhạn lai bồng “Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau”” ( Cuộc chia ly màu đỏ – Nguyễn Mỹ) Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm không thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, là để báo thù, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá nhân vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. KB:Đọc Tây tiến, cái ta cảm nhận được không chỉ là vỏe đẹp hào hùng, hòa hoa, sự hy sinh bi tráng của người lính Tây Tiến mà vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên miền Tây. Tất cả hiện lên thật rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình, nỗi nhớ thương chưa khi nào nguôi dứt. Có thể nói, với Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến chống Pháp. Khói lửa chiến tranh đã qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang mới, nhiều người thuộc đoàn quân Tây Tiến năm xưa giờ đây đã rở thành thiên cổ, trông đó có cả nhà thơ Quang Dũng hào hoa Đúng như những vần thơ Gian Nam từng viết: "Tây Tiên biên cương mờ khói lửa
  2. Quân đi lớp lớp động cây rừng Và bài thơ ấy, con người ấy Vẫn sống muôn đời với núi sông." VIỆT BẮC MB: “Chín năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu) Đã từ lâu mảnh đất Tây Bắc – Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, quê hương của những anh hùng, đây là mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng ân tình khiến ai đã đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi, xuyến xao. Mảnh đất ấy đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ cho những ai đã từng đến rồi lại phải đi. Có người đã từng nói : “ Thơ chỉ trào ra khi trong tim anh mọi thứ đã thật ứ đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi nhà thơ Tố Hữu – Một người lính đã từng gắn bó với mảnh đất này viết nên tác phẩm “Việt Bắc” – tuyệt tác của đời mình. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình- chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc của thi nhân. KB:Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô "ta - mình", bài thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống con người Việt bắc. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối bài thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào đê lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng, như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hòa tâm hồn!" ĐẤT NƯỚC MB:Đất nước đã nghiêng vào trong thơ ca, nghệ thuật như một điểm hẹn về tâm hồn của rất nhiều văn nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết: “Tổ quốc tôi như một con tàu Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau” Hay Chế Lan Viên đã không kìm được lòng mình mà thốt lên rằng: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng” Chưa đâu và cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn Thì Nguyễn Khoa Điềm – Một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ đã gặp gỡ đề tài này bằng tập thơ “ Trường Ca mặt đường khát vọng” Trong đó chương V là chương trung tâm kết nối tác phẩm bằng hình tượng nghệ thuật trung tâm là Đất Nước. Bằng là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc
  3. bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình dị, khác hẳn với những nhà thơ cùng thời để miêu tả về Đất Nước và để thể hiện quan niệm vô cùng mới mẻ và sâu sắc: “Đất nước này là của nhân dân Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”. KB:Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài này đã nhiều nhưng "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. , góp vào vườn thơ về đất nước hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ. SÓNG MB 1: Từ trước đến nay, tình yêu luôn là thứ không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người. Xuân Diệu đã từng viết: “Làm sao sống được mà ko yêu Không nhớ không thương một kẻ nào” ( Bài thơ tuổi nhỏ – Xuân Diệu) Đó cũng là lý do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn từng viết về tình yêu nhưng có lẽ sâu sắc nhất phải kể đến 2 cây bút thơ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam, đó là Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Nếu như Xuân Diệu từng làm mưa làm gió khiến người đọc nhớ mãi khi đặt tất cả dấu ấn tình yêu mãnh liệt của mình với “Biển” thì Xuân Quỳnh – một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua hình ảnh “Sóng”. Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều biết tiếng thơ chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm và tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường.Một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh phải kể đến tập “Hoa dọc chiến hào” với linh hồn là bài thơ “Sóng” được tác giả viết nhân một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền năm 1967. KB: Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu "Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ Ta lớn lên rồi, thơ là người bạn, người yêu Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hóa lưu thơ" Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà. NGUỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
  4. MB1: Một nhà phê bình đã từng nói: "Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một mức độ nào đó thơ mới hình thành. Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã thật ứ đầy." Cả cuộc đời cần mẫn như con ong hút nhụy từ những con ong của cuộc sống, Nguyễn Tuân đã để lại trên thi đàn văn chương Việt Nam một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông khẳng định vị trí của mình bằng một phong cách rất đặc biệt mà giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã gói gọn trong chữ "ngông" của một người tài ba uyên bác. Nếu trước cách mạng ông dùng cái ngông để phê phán xã hội và viết về vẻ đẹp của những con người kì vĩ lớn lao ở một thời vang bóng thì sau cách mạng tháng Tám, cái "ngông" của Nguyễn Tuân lại được dùng để ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Đồng thời, ông cũng đi tìm cho mình một chủ nghĩa anh hùng ở đời sống của nhân dân lao động bình thường. một trong những tác phẩm thể hiện rất rõ phong cách của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám đó là tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí sáng tác năm 1958 – 1960khi nhà văn đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân ở thể kí. Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động là ta phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định không quá lời rằng với tác phẩm "Người lái đò sông Đà", ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng nở hoa trên dòng sông văn chương của mình. MB 2: "Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường. Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương. Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn." ( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Hòa chung với không khí sôi nổi của cả nước khi Miền Bắc tiên lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội với xu hướng đi đến những vùng cao để phục hồi kinh tế với tiếng hát đầy sông, đầy cầu thì Nguyễn Tuân đã lựa chọn Tây Bắc làm miền đất hứa để viết lên tuyệt tác của đời mình. Ông không đi theo lối mòn khi viết về những “cái tôi” còn buồn như Huy Cận, Chế Lan Viên – Những “cái tôi” luôn cô đơn trước vũ trụ, cô đơn giữa dòng đời. Nguyễn Tuân đã khéo léo để “cái tôi” cá nhân của mình hòa chung với “cái ta” của cộng đồng và mở ra một trào lưu văn học mới để rồi tất cả được kết tinh trong tập “Tùy bút Sông Đà” mà linh hồn của nó chính là “ Tùy bút Người lái đò Sông Đà”. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời say mê đi tìm cái đẹp, cái đẹp ở đây chính là nghệ thuật, mà khi nói đến nghệ thuật cũng chính là cái đẹp, với Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã ban tặng. Cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân phát hiện ra trong “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Tây Bắc, ở những con người đang gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương, đất nước. Chất vàng mười ấy chính là vẻ đẹp của người lái đò sông Đà, dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Tuân đó vừa là người anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài hoa trên chính nghề nghiệp của mình. MB 3: “ Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu”
  5. ( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm cho mình những nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà”. Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đưa con đẻ tinh thần của mình là bởi chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực đơn cho nhãn quan sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn. KB:Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc. Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới tinh khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG MB: Một lần anh đến Huế thơ Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng Sông Hương quyến rũ lạ lùng Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi Sông Hương đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một niềm cảm hứng bất tận đối với tất cả văn nghệ sĩ, nhưng dù là trong tác phẩm nào đi chăng nữa sông Hương vẫn luôn mang một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê đắm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “phải lòng” sông Hương – xứ Huế như một lần gặp gỡ định mệnh để rồi gắn bó với mảnh đất này hơn 40 năm. Trước những rung động của một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn dành cho sông Hương một bài kí trang trọng. Cả bài kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông” .Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu. MB 2:
  6. Trong bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ", Thanh Hải có viết "Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời" Chẳng biết từ bao giờ mà sông Hương núi Ngự đã bước vào trong văn chương, trở thành một điểm nhấn quan trọng, một mối duyên nợ. Nhà thơ Tố Hữu – người con của mảnh đất Vĩ Dạ, Đông Ba có lần đã phải thốt lên rằng: "Sông Hương ơi! Dòng sông êm Trái tim ta ngày đêm tự tình" Góp mặt vào trong thi đàn thi ca văn chương với vẻ đẹp dòng sông đằm thắm và trữ tình ấy phải kể đến nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường với bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Bằng tài năng nghệ thuật viên mãn kết hợp với kiến thức uyên sâu ở nhiều lĩnh vực, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc đến với dòng sông Hương thiết tha và lãng mạn. "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là linh hồn của tập truyện cùng tên xuất bản năm 1986, được tác giả viết năm 1981 và được đưa vào trong chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng, của thể kí ở văn học Việt Nam thời hậu chiến nói chung. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn đã xây dựng được con sông thơ mộng, lãng mạn để từ đó bộc lộ cái "tôi" với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, sâu sắc với nền văn hoá riêng của nó. KB:Có thể nói "Ai đã đặt tên cho dòng sông" đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông hung tợn, man dại ở khúc thượng nguồn rồi trở nên mê đắm, thủy chung khi gặp được người tình trong mộng của mình là Huế. Sông Hương không vô tri vô giác mà nó có cảm xúc và có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê hương xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế: "Dòng sông ai đã đã đặt tên Để người đi nhớ Huế không quên Xa con sông mang bao nỗi nhớ Người ở lại tháng năm đợi chờ." VỢ CHỒNG A PHỦ MB1:Trên cánh đồng văn chương Việt Nam, có nhà văn độc canh bằng một loại thể. Tiêu biểu cho khuynh hướng này phải kể đến nhà văn Kim Lân – nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng) lại có nhà văn thâm canh tăng vụ bằng nhiều loại thể. Tiêu biểu ta phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Tính đến nay sự nghiệp của Tô Hoài đã già nửa thế kỉ. Ông là tác giả của khoảng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo với nhiều thể loại phong phú và đa dạng. Nhưng nhắc đến Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám, người yêu văn không thể không nhắc tới "Dế mèn phiêu lưu kí"; sau Cách mạng tháng Tám với tập "Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện ngắn: "Cứu đất cứu Mường", "Mường Giơn giải phóng" và "Vợ chồng A Phủ". Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhắc đến ông với "Cát bụi chân ai" và tiểu thuyết "Ba người khác". Đến nay "Vợ chồng A Phủ" vẫn là cái mốc thách thức của nhà văn Tô Hoài. Truyện được giải thưởng văn nghệ 1954-1955 là một truyện ngắn xuất sắc viết về đề tài miền núi Tây Bắc. Tác phẩm được đưa vào trong chương trình giảng dạy như một kiệt tác của Tô Hoài. Truyện xoay quanh cuộc đời của người con gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp nết na được Tô Hoài phát hiện và thể hiện với sức sống tiềm tàng bất diệt. Đó là Mị – nhân vật chính trong tác phẩm này. Thông qua sức sống tiềm tàng của Mị, Tô
  7. Hoài bộc lộ là một nhà văn nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Shê-khốp đã từng nói: "Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy". Và Tô Hoài là một nhà văn như thế. MB 2:“Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một.” Đó là lời chia sẻ về cuộc sống những ngày đi thực tế ở Tây Bắc đã để lại trong Tô Hoài những điều để thương, để nhớ nhất. Những cảm xúc ấy đã được kết tinh thành tập “Truyện Tây Bắc” mà lấp lánh nhất có lẽ là truyện ngắn “ Vợ Chồng A Phủ”, Tác phẩm được tổ chức chặt chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần những nút thắt quá biến động những vấn thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn hiện thực sắc bén. Nhà văn Nga Sê-khốp nói: "Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Thông qua lăng kính đầy tình yêu thương, lòng nhân ái tác giả đã thể hiện được chủ nghĩa nhân đạo tích cực, mới mẻ chưa từng có trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Được thể hiện thông qua cuộc đời, số phận 2 nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân vật trung tâm từ trong bóng tối đau khổ, ô nhục đã vươn ra ánh sáng của hạnh phúc, tự do. KB:"Văn học là cuộc đời Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi di tới của văn học", mỗi người nghệ sĩ lớn đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và đời sống. Đời sống là nguồn đè tài không bao giờ vơi cạn cho những sáng tác đầy nảy nở, bước đi trên từng nẻo đường là một giọt chắt chiu tư tưởng được hình thành. Qua tác phẩm "Vợ chồng A Phủ, ta thấy không chỉ cáo lũ quan lại phong kiến bị lên án tố cáo, Tô Hoài còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất và khát vọng tự do hạnh phúc, cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nguời lao động. Đó chính là chủ nghĩa nhan đạo Cách mạng, gắn tình thương với đấu tranh, gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người. Đó chính là sự diễn tả hợp lí những nghịch cảnh, những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Mị, giúp nhà văn phần nào đạt đến cái gọi là "phép biện chứng tâm hồn". Cùng với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện giản dị, "Vợ chồng A Phủ" vẫn giữ nguyên vẹn sức hấp dẫn của mình qua hàng thập kỉ. VỢ NHẶT MB1:Kim Lân được ví như một loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó là những hạt bụi vàng văn hóa thẳm sâu của nền văn minh sông Hồng. Ông trở thành nhà văn của những số phận thiệt thòi, những kiếp người cùng khổ của làng quê Việt Nam giữa thế kỉ XX. Các nhân vật của ông đều mang hình bóng của tác giả, là con người hiền hậu,chất phác và giàu yêu thương, tình nghĩa. Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được in trong tập Con Chó Xấu Xí năm 1962. Nhà văn đã dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng. MB 2:Nhà văn Nguyễn Khải nhận xét: " Là học trò của cụ Nguyễn Tuân, tôi vẫn không tin Nguyễn Tuân viết " Chữ người tử tù" cũng như Kim Lân viết "Làng" và "Vợ nhặt". Đó không phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ". Xét riêng truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim Lân quả xứng với lời khen đó. Thiên truyện về cái đói, cái chết mà làm lộ ra sự sống, lộ ra chất người kì diệu. Tư tưởng nhân văn sâu sắc đó không phải là truyện ngắn ồn ào mà được diễn đạt thấm thía qua nghệ thuật văn xuôi đặc sắc đã đưa Kim Lân vào hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học hiện đại. Đọc "Vợ nhặt", không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người. KB : Trên phông nền u ám của nạn đói, của cái chết, tiếng quạ kêu thê thiết với mùi đống dâm khét lẹt, Kim Lân vẫn pha vào đó một chút màu sắc ấm áp của hạnh phúc lứa đôi, lóe lên hy vọng về một ngày mai tươi sáng, về sự thay đổi vận hội. Thông qua tình huống dở khóc dở cười vô cùng trớ trêu đó, Tác giả ngầm khẳng định một chân lý mà Nguyễn Khải đã thể hiện trong "Mùa Lạc": "Sự sống nảy sinh từ trong lòng cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong gian khổ hy sinh. Ở đời này không có con đường cùng mà đây chỉ là
  8. những ranh giới. Điều cốt yếu là con người phải chuẩn bị cho mình một sức mạnh để có thể vượt qua những ranh giới ấy." RỪNG XÀ NU MB 1:Văn học viết về chủ đề miền núi càng ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm viết về chủ đề miền núi đã đem đến cho văn học nước nhà một màu sắc riêng – một màu sắc đậm đà chất dân tộc. Nhiều tác phẩm viết về miền núi đã có những thành công lớn, đã đạt giải thưởng cao về văn học nghệ thuật. Nhớ lại giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955, cả hai tác phẩm viết về đề tài miền núi đã giành được giải thưởng về mảng văn xuôi. Đó là tuyện ngắn "Vợ Chồng A Phủ" nằm trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài đạt giải nhất về truyện và ký. Đó là tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" của nhà văn Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành) đã giành giải nhất về tiểu thuyết. Tiếp theo "Đất nước đứng lên" một lần nữa nhà văn Nguyễn Trung Thành lại thành công với một truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh cách mạng, đó là truyện ngắn "Rừng xà nu". Truyện ngắn rừng xà nu đã từng được nhận giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Viết truyện ngắn "Rừng xà nu" cũng với cảm hứng sử thi nhưng với dung lượng một truyện ngắn thì truyện ngắn "Rừng xà nu" đã gây một sự ngỡ ngàng, đem đến một thành công hết sức lớn trong dung lượng một truyện ngắn mà phản ánh được cả một cuộc đấu tranh Mỹ ngụy của người dân cách mạng Tây Nguyên. Tính chất sử thi đã được dồn nén trong một tác phẩm truyện ngắn, vì vậy mà tính sử thi càng đậm đặc hơn được thể hiện qua chủ đề, qua nhân vật, qua hình tượng cây xà nu và qua ngôn ngữ của tác phẩm.