Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- ren_luyen_ki_nang_lam_bai_van_nghi_luan_mot_doan_trich_mot_t.doc
Nội dung text: Rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi
- RÈN LUYỆN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN MỘT ĐOẠN TRÍCH, MỘT TÁC PHẨM VĂN XUÔI I/ CÁC DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN TRÍCH, TÁC PHẨM VĂN XUÔI : gồm 3 dạng sau : 1/ Dạng 1 : Nghị luận về một nhân vật, một hình tượng trong một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. a/ PHƯƠNG PHÁP: Ví dụ: Đề 1. Phân tích nhân vật Vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ( phần trích trong Ngữ văn 12- Tập 2). Đề 2. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2). Cách lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật, hình tượng cần phân tích ( Không thể thiếu ) II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích (nếu có). 2. Làm rõ nhân vật, hình tượng theo yêu cầu của đề bài : a. Nếu phân tích một nhân vật, hình tượng : lần lượt làm rõ các biểu hiện tính cách, phẩm chất nhân vật (chú ý các sự kiện chính, các biến cố, tâm trạng thái độ nhân vật ), đặc điểm của hình tượng ( nêu từng đặc điểm, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ các đặc điểm đã nêu) b. Nếu phân tích một nhóm nhân vật: lần lượt làm rõ đặc điểm chung và riêng của nhóm nhân vật hoặc phân tích từng nhân vật( nêu từng đặc điểm, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ các đặc điểm đã nêu). 3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật, hình tượng ; 4. Giải quyết yêu cầu phụ ( nếu có ) III./ Kết bài : - Dùng từ chuyển đoạn thông báo sự kết thúc của việc trình bày vấn đề ( tóm lại, nhìn chung ) Chú ý : Đề ra nghị luận vấn đề gì thì phải kết bài vấn đề đó. - Đánh giá khái quát về những khía cạnh nổi bật nhất của nhân vật, hình tượng. - Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu ý nghĩa của hình tượng, nhân vật với đời sống, với văn học hay tác động đến tư tưởng, tình cảm của người đọc). Có thể nêu cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm. b/ Đề luyện tập dạng 01 gồm 13 đề sau, có dàn ý chi tiết : Đề 1 : Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. Đề 2 : Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài . Đề 3 : Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài Đề 4 : Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài Đề 5 : Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong cảnh đêm hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ ở Hồng Ngài trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài Đề 6 : Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Đề 7 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. 1
- Đề 8 : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Đề 9 : Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Đề 10 : Phân tích hình tượng cây Xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành Đề 11 : Phân thích nhân vật hai chị em Chiến và Việt trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi. Đề 12 : Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu. Đề 13 : Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba qua trích đoạn kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. 2/ Dạng 2 : Nghị luận về nội dung hoặc giá trị nội dung tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. a/- PHƯƠNG PHÁP : Ví dụ: Đề 1. Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân ( phần trích trong Ngữ văn 12- Tập 2). Đề 2. Phân tích câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2). Cách lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Giới thiệu luận đề cần giải quyết (cần bám sát đề bài để giới thiệu luận đề cho rõ ràng, chính xác. Luận đề cần dẫn lại nguyên văn yêu cầu của đề). II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm. tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích ( nếu có) 2. Làm rõ vấn đề theo yêu cầu của đề bài : a. Nếu phân tích nội dung tác phẩm: lần lượt làm rõ nội dung cần phân tích ( nêu từng nội dung, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ ý nghĩa của nội dung) b. Nếu phân tích giá trị tác phẩm : - Nếu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm : + Giải thích khái niệm nhân đạo + Phân tích các biểu hiện của giá trị nhân đạo: + Đánh giá về giá trị nhân đạo. -Nếu phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm : + Giải thích khái niệm hiện thực: + Phân tích các biểu hiện của giá trị hiện thực: + Đánh giá về giá trị hiện thực. ( nêu từng luận điểm, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ luận điểm đã nêu) 3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện về nội dung hay giá trị tác phẩm. 4. Giải quyết yêu cầu phụ ( nếu có ) III./ Kết bài : -Đánh giá khái quát về những khía cạnh nổi bật nhất nội dung hay giá trị tác phẩm -Gợi liên tưởng rộng hơn, sâu sắc hơn ( thường nêu ý nghĩa nội dung, giá trị nội dung với đời sống, với văn học hay tác động đến tư tưởng, tình cảm của người đọc). Có thể nêu cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm. b/ Đề luyện tập dạng 02 gồm 04 đề sau, có dàn ý chi tiết : 2
- Đề 1 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. Đề 2 : Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. Đề 3 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Vợ nhặt " của Kim Lân. Đề 4 : Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu. 3/ Dạng 3 : Nghị luận về giá trị nghệ thuật trong tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. a/ PHƯƠNG PHÁP Ví dụ: Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ( Ngữ văn 12- Tập 2). Cách lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu về tác giả, vị trí văn học của tác giả. (có thể nêu phong cách). - Giới thiệu về tác phẩm (đánh giá sơ lược về tác phẩm). - Nêu nhiệm vụ nghị luận II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện, nêu vị trí đoạn trích ( nếu có) 2. Làm rõ vấn đề theo yêu cầu của đề bài : * Nếu đề nghị luận là tình huống truyện : a.Tình huống truyện: Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại. Nó là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt, khiến tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất, ý đồ tư tưởng của tác giả cũng bộc lộ đậm nét nhất. b. Phân tích các phương diện cụ thể của tình huống và ý nghĩa của tình huống đó. + Tình huống 1 ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm. + Tình huống 2 ý nghĩa và tác dụng đối với tác phẩm. (lần lượt làm rõ đặc điểm của từng tình huống bằng cách nêu từng tình huống, đưa dẫn chứng tiêu biểu, phân tích dẫn chứng làm rõ các tình huống đã nêu). - Bình luận về giá trị của tình huống b/ Đề luyện tập dạng 03 gồm 02 đề sau : Đề 1: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân Đề 2: Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu BÀI 01 : VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI) A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN: I. Tác giả: Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện Ông cũng là một nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. II. Tác phẩm: Vợ chồng A Phủ (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, in trong tập Truyện Tây Bắc, giải Nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong SGK là phần một. III. Nội dung, nghệ thuật: a) Nội dung: - Nhân vật Mị: 3
- + Cuộc sống thống khổ: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống ( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị, ). + Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc: Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu, ), Mị đã thức tỉnh (kỉ niệm sồng dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận, ) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc, ). Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo. + Sức phản kháng mạnh mẽ: Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt, đã thôi thúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình. - Nhân vật A Phủ: + Số phận éo le, là nạn nhân ủa hủ tục lạc hậu và cường quyền phong kiến miền núi (mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ). + Phẩm chất tốt đẹp: có sức khỏe phi thường, dũng cảm; yêu tự do, yêu lao động; có sức sống tiềm tàng mãnh liệt - Giá trị của tác phẩm: + Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi. + Giá trị nhân đạo: thể hiện tình yêu thương, sự đổng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mạng; tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai thống trị; trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc; b) Nghệ thuật: - Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị chủ yêu khắc họa tâm tư, ). - Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. - Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. - Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ, 3) Ý nghĩa văn bản: Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của họ. Đề 1 : Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài. A/ Lập dàn ý: I . Mở bài - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật Mị . II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt nội dung truyện. 2. Phân tích nhân vật Mị : a/. Phân tích đặc điểm 1: - Nêu đặc điểm: Mị là người phụ nữ có cuộc sống nghèo khổ, được gợi ra một cách ấn tượng ngay ở phần mở đầu truyện. -Làm rõ đặc điểm: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống ( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị, ). 4
- b./Phân tích đặc điểm 2: - Nêu đặc điểm: Dù cuộc sống khốn khổ, Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. -Làm rõ đặc điểm: Mùa xuân đến (thiên nhiên, tiếng sáo gọi bạn, bữa rượu, ), Mị đã thức tỉnh (kỉ niệm sồng dậy, sống với tiếng sáo, ý thức về thời gian, thân phận, ) và muốn đi chơi (thắp đèn, quấn tóc, ). Khi bị A Sử trói vào cột, Mị “như không biết mình đang bị trói”, vẫn thả hồn theo tiếng sáo. c/Phân tích đặc điểm 3: - Nêu đặc điểm: Mị còn là người phụ nữ có sức phản kháng mạnh mẽ. - Làm rõ đặc điểm: Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị dửng dưng “vô cảm”. Nhưng khi nhìn thấy “dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị xúc động, nhớ lại mình, đồng cảm với người, nhận ra tội ác của bọn thống trị. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp, niềm khát khao tự do mãnh liệt, đã thôi thúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho cuộc đời mình. 3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị: - Tác giả giới thiệu nhân vật Mị đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. - Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. -Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, chọn lọc, sáng tạo, tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. III . Kết bài : - Kết luận chung vè hình tượng nhân vật Mị. - Nêu ý nghĩa của nhân vật. - Cảm nghĩ về nhân vật. B/ Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu) Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện Ông cũng là một nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Đặc biệt, truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc . Thân bài Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in :Khái quát tác trong tập "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống phẩm tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng. Phân tích ý 1 a/. Mị là người phụ nữ có cuộc sống nghèo khổ, được gợi ra một cách ấn : Số phận của tượng ngay ở phần mở đầu truyện. nhân vật Mỵ -Tác giả mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. - Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh 5
- phúc cá nhân, sống tủi nhục hơn trâu ngựa. +Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc và có khả năng âm nhạc, cô thổi sáo giỏi, “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí. +Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. +Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống. +Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi . + Nỗi thống khổ của Mị thể hiện rõ nhất khi mùa xuân đến. Ngày Tết ai cũng được đi chơi "bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết”. Riêng Mị thì không. Mị muốn đi chơi. Mị phải trả giá đau đớn. Thằng A Sử đã trói đứng Mị suốt đêm trong buồng bằng một thúng sợi đay. Hắn còn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Suốt đêm, Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Mị sợ quá, cựa quậy “xem mình còn sống hay chết”. Có lúc Mị “vùng bước đi” chập chờn theo tiếng sáo, nhưng chân tay đang bị trói “đau không cựa được”, “đau nhức”, “đau dứt từng mảnh thịt”. Nghe tiếng ngựa nhai cỏ, gãi chân, Mị đau khổ thổn thức “nghĩ mình không bằng con ngựa”. Phân tích ý 2 b./Dù cuộc sống khốn khổ, Mị vẫn có một sức sống tiềm tàng và khát : sức sống vọng tự do, hạnh phúc. tiềm tàng và -Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa khát vọng tự lầm lũi kia đang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị do, hạnh phúc lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không của thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại bừng sáng. Và khát vọng hạnh nhân vật Mỵ phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu. -Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị 6
- thổi sáo cũng giỏi ), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. -Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo, bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu nữ. -Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi. - Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó, Mị mới có hành động : quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi . -Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của Mị. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước. Phân tích ý 3 c/. Mị còn là người phụ nữ có sức phản kháng mạnh mẽ. : sức phản - Có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A kháng mạnh Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi. Những mẽ của va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình nhân vật Mỵ mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc . Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình. -Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con 7
- người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận . -Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị . Nhận xét về - Tác giả giới thiệu nhân vật Mị đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. nghệ thuật Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn xây dựng biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh nhân vật Mị phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng “hoá thân” kỳ diệu của nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. - Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. -Ngôn ngữ kể chuyện rất sinh động, chọn lọc, sáng tạo, tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Kết bài Tóm lại, Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ . Đề 2: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài. A/ Lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Nêu vấn đề sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị . II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện. 2. Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị : a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra : b. Mị toan tự tử: c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi sinh một cách chóng vánh khi mùa xuân đến. d. Sức sống tiềm tàng thêm một lần nữa trỗi dậy khi gặp A Phủ: 3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện sức sống tiềm tàng của Mị: - Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. - Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. -Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. III./ Kết bài : - Kết luận chung về sức sống tiềm tàng của Mị. Nêu ý nghĩa của sức sống đó. - Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả. Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong cảnh đêm hội mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ ở Hồng Ngài trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài. A/ Lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét về tác phẩm 8
- - Giới thiệu về nhân vật Mị (đặc biệt là diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ) II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt nội dung truyện. 2. Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ: a/ Tâm trạng và hành động của Mị khi mùa xuân về (đặc biệt trong đêm tình xuân). - Ý phụ : Nêu khái quát về thân phận Mị ở Hồng Ngài (trong nhà thống lí Pá tra), chuyển ý và phân tích : tâm trạng Mị đã thay đổi trong “đêm tình mùa xuân”. - Phân tích tâm trạng của Mị khi nghe tiếng sáo, uống rượu, nhớ về quá khứ Tâm trạng thể hiện Mị khao khát tự do, hạnh phúc. - Phân tích tâm trạng của Mị khi vào trong buồng đến khi bị A Sử trói: tâm trạng thể hiện Mị khao khát tự do, hạnh phúc, đấu tranh để có tự do. b/ Diễn biến Tâm trạng và hành động nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ : - Dẫn ý vào phân tích : A Phủ bị trói gần bếp lửa, Mị vẫn hơ tay. - Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị thản nhiên, vô cảm. - Thấy nước mắt A Phủ, tâm trạng Mị thay đổi, Mị suy nghĩ nhiều. - Cuối cùng, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ. - Tâm trạng thể hiện lòng nhân từ của Mị. Đặc biệt thấy rõ sức phản kháng, lòng khao khát tự do và quyết tâm đi tìm tự do của Mị. 3. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tậm trạng nhân vật Mị: Miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật tâm lí, ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh, giàu chất thơ. III . Kết bài: - Kết luận chung về tâm trạng của Mị. Nêu ý nghĩa của tâm trạng. - Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả. B/ Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu). Mở bài Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam, không chỉ ở số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn bởi nghệ thuật viết truyện tài ba lôi cuốn người đọc nhiều thế hệ. Ông cũng là nhà văn có vốn sống hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Thành công xuất sắc của ông là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng đất Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".Truyện ngắn đã thể hiện sâu sắc diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. Thân Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập bài "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần : Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị :Khái và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị quát tác cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở phẩm Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng. Phân Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo, có nhiều người mê và Mị đã tích ý 1 có người yêu. Nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, Mị phải làm con dâu nhà Pá Tra. Cuộc : Số sống của Mị trong nhà Pá Tra còn khổ hơn trâu ngựa. Không chỉ bị đày đoạ về thể xác, phận Mị còn tê liệt tinh thần. “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”. Mỗi ngày Mị càng không của nói, “lùi lũi như con rù nuôi trong xó cửa”. Có phải Mị đã trở thành người vô cảm? nhân Không phải như vậy, tâm trạng Mị đã có sự thay đổi trong một “đêm tình mùa vật Mỵ xuân”. Phân Xuân qua rồi xuân lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến.Những nương tích ý 2 thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên : Tâm những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông trạng và sặc sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném hành pao, tung còn, Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị - một tâm hồn khô 9
- động cằn. Nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động. Nó chẳng khác nào những nốt của Mị nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và khi mùa đang phải chịu quá nhiều đau khổ. Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, chơi xuân về quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy lên sân thì Mị tha thiết bồi hồi khi nghe tiếng sáo từ đầu núi vọng lại. Mị đã ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo : Mày có con trai con gái Mày đi làm nương Tao không có con trai con gái Tao đi tìm người yêu Sự sống của tạo vật và con người như được khơi động, bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Nhất là tiếng sáo, tiếng sáo rủ bạn đi chơi ngoài đầu núi Tiếng sáo đã đánh thức kỉ niệm của một thời con gái của Mị: “ ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo ”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc. Ngày tết, Mị cũng uống rượu “ Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát ” Men rượu như tăng thêm nồng nàn sức trẻ đang bừng lên trong Mị, Mị thấy phơi phới trở lại, “ Mị trẻ lắm, Mị còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị. Mị từ từ bước vào buồng với tâm trạng phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị đã thức tỉnh và tự ý thức là mình trẻ lắm, mình vẫn còn trẻ và khao khát đi chơi như bao người phụ nữ đã có chồng khác. Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy bao nhiêu thì Mị cảm thấy phẫn uất bấy nhiêu. Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết, huống chi A Sử và Mị lại không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Không thể cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ nên Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay. Uất ức, nước mắt của Mị ứa ra khi tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá trình thức tỉnh. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nơ và niềm vui phơi phới muốn đi chơi Tết.“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Ngọn đèn làm ấm lên gian buổng tối tăm, lạnh lẽo. Hơi rượu nồng nàn cùng tiếng sáo rập rờn, thôi thúc Mị đi đến quyết định: muốn đi chơi. “ Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở giá trong.” Đây là lúc Mị đã thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp. Đúng lúc ấy, sợi dây trói tàn bạo của A Sử kịp thời quăng lưới vào khát vọng của Mị, ý muốn đi chơi bị chặn đứng. Chỉ sau một câu hỏi: Mày muốn đi chơi à? thì A Sử đã trói tay Mị vào cột bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị bị quấn lên cột, Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động của Mị, Tô Hoài dường như đã nhập hồn vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng. Hơi rượu vẫn còn nồng nàn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên nỗi đau khổ và đau đớn hiện tại, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và vùng bước đi. Nhưng cuối cùng cô vẫn phải trở lại với thực tại khắc nghiệt, đau đớn, khổ nhục khi tay chân, đầu không cựa được. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa khi nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Cô nín khóc, bối hồi trong trạng thái lúc mê, lúc tỉnh. Dây trói thít lại đau nhức nhưng Mị vẫn nồng nàn tha thiết nhớ. Bị trói đứng suốt đêm, khi bàng hoàng tỉnh thì trời đã sáng, chỉ nghe thấy tiếng lửa rép, không một tiếng động. Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan, thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Nghĩ vậy nên Mị vừa thương mình vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị sợ hãi cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết thì sợi dây trói lại đau dứt từng mảng thịt. Khép lại khát vọng được đi chơi, được sống tự do trong đêm tình mùa xuân. Kết cục ấy cũng là lời lên án, tố cáo đối với hành động tàn độc của cha con thống lí, đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi đã áp bức con người, chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của họ. Phân Từ sau cái đêm tình mùa xuân nghiệt ngã ấy, Mị càng trở nên vô hồn, vô cảm và vô tích ý 3 vọng. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài từ ngày đó chỉ còn thu 10
- : Diễn hẹp qua vuông cửa sổ chỉ bằng bàn tay ở căn buồng u tối. Ý thức làm người của Mị bị biến tâm cha con thống lí làm tê liệt tới mức Mị chỉ còn là cái bóng lãng quên đi dĩ vãng, không lí nhân gắn bó với hiện tại, lại càng chẳng thiết đến tương lai. Nhưng tâm trạng của Mị lại một vật Mị lần nữa có sự thay đổi. Sự thay đổi ấy diễn ra trong một đêm đông-đêm Mị cởi trói trong cho A Phủ. đêm cởi Trong đêm Mị bị trói, cũng là đêm A Sử đi chơi và bị A Phủ đánh bị thương. A trói cho Phủ là chàng tai mồ côi, nghèo, lao động giỏi, có gan bướng từ nhỏ. Đi chơi Tết, đánh A A Phủ Sử, A phủ bị bắt, bị xử kiện rồi trở thành người ở cho nhà Pá Tra. Để mất một con bò, A Phủ bị Pá Tra trói đứng vào cột. Nơi A Phủ bị trói gần bếp lửa hằng đêm Mị vẫn thổi lửa hơ tay. A Phủ bị trói đã mấy đêm rồi. Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị đã thấy A Phủ bị trói nhưng cô vẫn thản nhiên, vô cảm. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Đêm nay, khi ngọn lửa bập bùng sáng lên, khi lé mắt trông sang, nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ”của A Phủ, tâm trạng Mị đã thay đổi. Mị nhớ lại đêm năm trước bị A Sử trói, khi “sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã gục xuống”. Đêm ấy Mị đã khóc, còn bây giờ đây Mị dường như không còn biết khóc nữa. Chính dòng nước mắt nhân tình khổ đau đã thành dòng nham thạch nung chảy tâm hồn đã đóng băng của Mị. Thì ra đôi mắt “trừng trừng”, những cái đấm đá và bao nhiêu hành động phi nhân mà Mị phải chịu đã trở thành cuộc đời thường của cô. Cho nên dòng nước mắt chính là sự kiện bất bình thường gợi khơi cô nhớ lại quá khứ. Vừa thương mình, vừa căm phẩn lũ người tàn ác vừa bị ám ảnh bởi cái chết, ám ảnh bởi con ma nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà cùng thân cùng phận như mình đã chết trong quá khứ vừa nghĩ tới số phận phải chết vô lí của A Phủ Tâm hồn Mị nổi sóng bấn loạn. Vậy là dòng nước mắt của A Phủ đã làm Mị nhớ tới nước mắt của mình, Mị nhớ tới cái chết nhãn tiền của A Phủ. Từ số kiếp A Phủ, Mị lại nghĩ tới mình đã về “trình ma nhà nó rồi” không phương thoát khỏi nhưng A Phủ không lí gì phải chết Không dừng lại ở đó, ý nghĩ của Mị còn đi xa hơn, không phải cảm tình mà là lí tính. Mị nhận thấy chúng nó thật độc ác, nhận thấy nguy cơ cái chết sẽ đến với A Phủ chỉ trong đêm mai, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Mị lại nghĩ về mình là thân đàn bà, đã bị trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Chuyển ý nghĩ từ mình sang A Phủ, Mị thấy người kia việc gì mà phải chết Mị phảng phất nghĩ như vậy. Dù ý nghĩ của Mị chỉ là phảng phất, hai tiếng A Phủ chỉ là lần đầu tiên rung lên như hơi thở trong lòng Mị, nhưng nó là tiếng nói của tình thương. Hẳn là trong cái phảng phất ấy, Mị có nghĩ đến việc cứu A Phủ khỏi chết và Mị đã hình dung: đến một lúc nào, khi A Phủ trốn đi rồi, bố con Pá Tra bảo là Mị cởi trói cho A Phủ, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị không thấy sợ. Mị rút dao cắt dây trói cho A Phủ. Cho đến vòng dây cuối cùng được cắt đứt, A Phủ quỵ người xuống rồi lại quật người đứng dậy chạy băng băng vào trong bóng tối. Đến lúc này đây, Mị vẫn chỉ nghĩ đến việc cứu A Phủ. Đến khi A Phủ chạy xuống cái dốc, Mị nhìn lại thấy nguy cơ mình có thể bị chết thay vào đó, ý định tự cứu mình đã đến với Mị, Mị nói: "A Phủ! Cho tôi đi!". Đây là câu nói của lòng ham sống trong giờ phút nguy cấp để giải thoát đời mình. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng không đủ sức giữ chân Mị lại, Mị cứu A Phủ là tự cứu mình mà cô đã không biết. Chẳng cưới xin, họ đã trở thành vợ chồng từ cái đêm đầy ý nghĩa ấy, cái đêm vì nghĩa trước lúc vì tình. Thế là hai người nô lệ giải thoát cho nhau, nương tựa vào nhau, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Miêu tả tâm trạng của Mị trong đêm cứu A Phủ, một lần nữa, nhà văn Tô Hoài làm nổi bật khát vọng tự do trong Mị. Đó cũng chính là tinh thần phản kháng của Mị. Nhận Nhà văn Tô Hoài có bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn xét về miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh nghệ phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng “hoá thân” kỳ diệu của nhà thuật văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách thể hiện khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân diễn vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân vật biến tâm của và giọng nhân vật, những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng Mị khá thành công, 11
- trạng và khá sinh động và có sức thuyết phục người đọc khá cao. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả hành tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. động của Mị Kết bài Tóm lại, Tô Hoài rất thành công khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. Đó là quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ. Tác phẩm không chỉ phản ánh nỗi thống khổ của người dân miền núi Tây Bắc mà còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và quá trình vùng lên tự giải phóng mình của đồng bào vùng cao. Chính vì thế, truyện ngắn có giá trị nhân văn sâu sắc. Đề 4 : Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ trong truyện “Vợ chồng A Phủ ” của Tô Hoài. A/ Lập dàn ý : I . Mở bài: - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Giới thiệu và nhận định chung về tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt nội dung truyện. 2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ: - Dẫn ý vào phân tích : A Phủ bị trói gần bếp lửa, Mị vẫn hơ tay. - Lúc đầu, thấy A Phủ bị trói, Mị thản nhiên, vô cảm. - Thấy nước mắt A Phủ, tâm trạng Mị thay đổi, Mị suy nghĩ nhiều. - Cuối cùng, Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ và chạy theo A Phủ. - Tâm trạng thể hiện lòng nhân từ của Mị. Đặc biệt thấy rõ sức phản kháng, lòng khao khát tự do và quyết tâm đi tìm tự do của Mị. 3. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tậm trạng nhân vật Mị: Miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật tâm lí, ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh, giàu chất thơ. III . Kết bài: - Kết luận chung về tâm trạng của Mị. Nêu ý nghĩa của tâm trạng. - Cảm nghĩ về nhân vật, về tác giả. Đề 6: Phân tích giá trị nhân đạo truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ( SGK Ngữ văn 12) ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2009). A. Đáp án của Bộ GD&ĐT : a. Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; phân tích được giá trị tư tưởng của một tác phẩm. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (chủ yếu phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai) và giá trị nhân đạo trong văn học, thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rõ được các ý cơ bản sau: −Nêu được vấn đề cần nghị luận − Tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi (tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra). −Bênh vực và cảm thông sâu sắc với những con người có số phận bất hạnh như Mị, A Phủ. −Trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo miền núi trong xã hội cũ. −Đồng tình với tinh thần phản kháng, đấu tranh của những người bị áp bức và vạch ra con đường giải phóng cho họ. −Đánh giá chung về giá trị nhân đạo của tác phẩm. 12
- B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu) Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Thân Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập bài "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần : Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị :Khái và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị quát tác cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở phẩm Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng. Khái Giá trị nhân đạo hiểu một cách giản dị là tình cảm, thái độ của nhà văn dựa trên niệm các nguyên tắc và đạo lí làm người mang tính chuẩn mực và tiến bộ của thời đại được Giá trị thể hiện qua cái nhìn về cuộc sống và con người từ bối cảnh cụ thể trong tác phẩm. nhân đạo Phân Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” trước hết được toát lên tích ý : từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người niềm lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. cảm Mị vốn là một cô gái xinh đẹp mang trong mình biết bao phẩm chất cao quý. Thế thông mà kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà sâu sắc thống lý, dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến đối với miền núi, Mị phải sống một chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm tối. Mị không chỉ bị số phận hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần. Mị bị đối xử như con vật, thậm chí bất không bằng con vật: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con hạnh, bị ngựa, là con ngựa phải tới ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ mất biết ăn cỏ, biết làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi gì nữa Con trâu, con quyền ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái sống của nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Sự đau khổ tủi cực đã cướp đi mất tuổi người xuân của Mị, biến cô trở thành một kẻ cam chịu. Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng lao động yêu đời thuở nào giờ gần như đã chết, chỉ còn người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn miền lạnh lẽo, trống vắng. Mị ngày càng không nói. Mị mất hết cảm giác thời gian: không dĩ núi, mà vãng, không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái “lỗ tiêu biểu vuông” của chiếc cửa sổ “bằng bàn tay, trăng trắng, không biết là sương hay là là Mị và nắng”. Mị gần như tê liệt sức sống, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bằng A Phủ. những chi tiết chân thực gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Không chỉ với nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài còn thể hiện tình thương yêu, sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật A Phủ. A Phủ là một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, yêu chính nghĩa, vốn không nợ nần gì nhà thống lý Pá Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khoáng tự do như con chim trời giữa núi rừng Tây Bắc, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà thống lý Pá Tra. Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi ngày tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lý. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ phải chịu biết bao sự đoạ đày nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy dài trong những đêm bị trói đứng trong góc nhà, thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên “hai hõm má xám đen lại” vì tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ. 13
- Phân Đồng cảm với người lao động nghèo, tác giả đã tố cáo gay gắt thế lực thực tích ý 2 : dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đói lập, chà đạp lên cuộc sống con người là tố cáo cha con thống lý Pá Tra. gay gắt Thống lí Pá Tra là kẻ thâm độc, tàn bạo, là nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau cho thế lực cuộc đời của Mị, A Phủ. Với Mị, Pá Tra chính là kẻ tước đoạt tự do, hạnh phúc cuộc thực dân đời Mị, biến Mị trở thành "trâu ngựa". Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay phong nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền kiến. sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ Điển dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị hình là về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Từ đó, cuộc cha con đời tăm tối của Mị bắt đầu. Mị bị bóc lột sức lao động với những công việc quanh năm thống lý suốt tháng, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị trở thành vô cảm, sống “lùi lũi như con rùa Pá Tra. nôi trong xó cửa”. Với A Phủ, Pá Tra lợi dụng thần quyền và cường quyền để xử kiện một cách dã man, phi lí, vô nhân đạo. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan. Chưa hết, khi A phủ để mất một con bò, anh bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột bằng dây mây, từ chân tới đầu. A Phủ sẽ chết nếu không được Mị cứu thoát. Pá Tra đã coi tính mạng của A Phủ không bằng một con bò. Cùng với tên thống lí Pá Tra, nhà văn còn tố cáo, lên án sự tàn bạo của tên A Sử. Nếu như Pá Tra là kẻ biến Mị trở thành nô lệ thì A Sử là kẻ tước đi một chút tự do cuối cùng của Mị. A Sử không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính. Chỉ bằng mấy trang truyện, nhà văn Tô Hoài đã gieo vào lòng người đọc nỗi căn hận với Pá Tra, với A Sử, với giai cấp thống trị, là nguyên nhân gây ra mọi nỗi đau khổ cho người lao động nghèo. Phân Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, “Vợ chồng A Phủ” tích ý 3: còn là một bài ca ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặt ca ngợi niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp của những con người những Tây Bắc. Đó chính là một biểu hiện quan trọng về giá trị nhân đạo của truyện này. nét Trước hết là đối với nhân vật Mị. Người đọc không chỉ thương một cô Mị phẩm khốn khổ, bị đoạ đày, mà còn yêu một cô Mị tài hoa, ham sống, giàu lòng hiếu thảo, chất tốt đức hi sinh và tinh thần đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh. Ách thống trị của cường đẹp của quyền, thần quyền, hủ tục đã không giết hẳn hình ảnh người con gái tài hoa, yêu đời người trong Mị. Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn âm lao ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác động ngoại cảnh để bùng dậy, cháy sáng. Đêm tình động, mùa xuân và cảnh Mị cởi trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất trong tác phẩm, đánh dấu sự bừng tỉnh của con người đấu tranh trong Mị. Nhờ tiếng sáo Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi” và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Mị là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu”, nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên 14
- tai Mị cứ “lững lờ”. “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến. Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ:“người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con Thống Lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu! Cùng với việc miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt của Mị, nhà văn Tô Hoài còn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật A Phủ. Tác giả đã khắc hoạ nên một A Phủ chất phác, lao động giỏi, cường tráng, có bản lĩnh, yêu tự do. Những phẩm chất tâm hồn và tính cách khoẻ khoắn, mạnh mẽ ấy đã giúp Mị và A phủ có đủ nghị lực để trỗi dậy, phá bỏ gông cùm, thoát khỏi nhà Pá Tra, đi tìm tự do. Và họ đã có tự do, cho dù hành động của Mị và A phủ là tự phát, chỉ là bắt đầu bằng lòng khát khao sống. Phân Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” còn mang nét mới, tiến bộ hơn tích ý 4: chủ nghĩa nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng chỉ ra thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương con vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất đường yếu lịch sử. Con đường đó được nhà văn miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị giải và A Phủ từ lúc trốn khỏi Hồng Ngài đến lúc trở thành những người du kích Phiềng Sa. phóng Từ những con người nô lệ u mê, câm lặng, họ đã tự phá bỏ sợi dây trói hữu hình thắt thực sự chặt cuộc đời họ trong nhà thống lý Pá Tra để đi theo tiếng gọi của tự do, để giác ngộ của một chân lý: chỉ có cách cầm súng đánh lại bọn thống trị, họ mới có thể có được cuộc người sống bình yên, hạnh phúc. lao động Nhận Giá trị nhân đạo của truyện càng trở nên thấm thía, sâu sắc nhờ hình thức xét về nghệ thuật viết truyện điêu luyện của ngòi bút Tô Hoài. Một bút pháp mô tả tâm lý nghệ khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh thuật lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ thể hiện khả năng “hoá thân” kỳ diệu của nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Tô Hoài cũng giá trị thành công khi miêu tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhân nhiên sinh động, giàu chất thơ ; các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo đạo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Kết bài Tóm lại, niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ; tố cáo gay gắt thế lực thực dân phong kiến. Điển hình cho thế lực đối lập, chà đạp lên cuộc sống con người là cha con thống lý Pá Tra; ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp của những con người bị đày đoạ, đau khổ; chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử là những biểu hiện giá trị nhân đạo đặc sắc của truyện 15
- ngắn "Vợ chồng A Phủ". Đề 6: Phân tích giá trị hiện thực tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. A/ Lập dàn ý : I/ Mở bài : - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Nêu vấn đề giá trị hiện thực của truyện II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện, 2. Phân tích giá trị hiện thực của truyện : a/.Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" là tác giả đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, được thể hiện qua hai nhân vật điển hình là Mị và A Phủ. -Làm rõ đặc điểm: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời nhưng vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra, bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống ( lời giới thiệu về Mị, công việc, không gian căn buồng của Mị, ). -Làm rõ đặc điểm: A Phủ mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ Chỉ vì dám đánh lại con quan thống lý để bảo vệ bạn bè, bênh vực lẽ phải, A Phủ bị cột chặt vào thân phận một đứa ở gạt nợ trong nhà Pá Tra. b/.Giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" còn biểu hiện qua việc nhà văn phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi, được thể hiện qua hai nhân vật điển hình là Pá Tra và A Sử. -Làm rõ đặc điểm: Thống lí Pá Tra xuất hiện trong tác phẩm như một kẻ chủ mưu cho mọi tội ác. Nó có thể ra lệnh để bắt người vô lí, để đánh trói người một cách tàn nhẫn mà không một chút đắn đo. -Làm rõ đặc điểm: A Sử vừa là con người tàn bạo: ngang nhiên bắt Mị về làm vợ, làm nô lệ, đi phá đám, phá nát niềm vui, vui xuân của bao nhiêu trai gái bản làng khác. - Phản ánh bọn thống trị đó, nhà văn muốn người đọc liên tưởng đến bọn người tàn ác, tàn bạo đang làm điêu đứng những cảnh đời trên những nẻo rừng Tây Bắc. 3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện giá trị nhân đạo của truyện: - Một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. - Tô Hoài cũng thành công khi miêu tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhiên sinh động, giàu chất thơ ; - Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. -Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. III./ Kết bài : -Tóm lại, truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" có giá trị hiện thực sâu sắc với hai biểu hiện : miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây Bắc; phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị. -Ý nghĩa giá trị . B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu) Mở bài Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi . Truyện thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc. Thân Truyện "Vợ chồng A Phủ" được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập bài "Truyện Tây Bắc".Tác phẩm gồm hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị :Khái và A Phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Kết thúc phần đầu là cảnh Mị quát tác cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra. Phần sau kể Mị và A Phủ ở phẩm Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ cách mạng. A Phủ trở 16
- thành đội trưởng du kích đánh Pháp bảo vệ làng. Phân Biểu hiện trước hết về giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" tích ý 1 là tác giả đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây Bắc : miêu tả dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, được thể hiện qua hai nhân vật chân điển hình là Mị và A Phủ. thực số Mị là người con gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa. Cuộc sống đối với cô lúc ấy phơi phận phới như tiếng sáo mùa xuân và đẹp đẽ như tình yêu buổi đầu. Nhưng những tháng cực khổ ngày hạnh phúc trôi qua chóng vánh, bước chân vào nhà thống lý với tư cách một cô của dâu gạt nợ, Mị chỉ còn là người nô lệ không công, là con trâu, con ngựa, thậm chí người không bằng con trâu, con ngựa nhà thống lý. Đè nặng lên cuộc sống của cô là ba tầng dân áp bức: cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi. Mị chết dần chết mòn miền núi trong chuỗi thời gian quẩn quanh được đo bằng tăm tối, tủi nhục, đau thương. Bị bóc lột Tây Bắc sức lao động, hành hạ về thể xác, chưa hết, Mị còn bị đày đoạ cả về mặt tinh thần. Quãng đời làm dâu nhà thống lý “nhào nặn” Mị trở thành con người cam chịu. Cô gái Mèo xinh đẹp, duyên dáng với tiếng sáo làm say mê lòng người ngày nào gần như đã chết, chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị cắt đứt mối dây liên hệ giao tiếp với con người xung quanh. Thờ ơ trước sự chảy trôi của thời gian, sự vận động của không gian, Mị mất luôn cả ý thức về dĩ vãng, hiện tại và tương lai. Cuộc đời Mị giờ đây được thu nhỏ qua ô cửa bằng lòng bàn tay. Qua ô cửa ấy, sắc màu sự sống trước mặt Mị bao giờ cũng mờ mờ, trăng trắng, “không biết là sương hay nắng” Tâm hồn Mị tê liệt hết sức sống. Sự tồn tại của Mị trong nhà thống lý chỉ đơn giản là sự tồn tại về mặt thể xác, câm lặng, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Chỉ qua những chi tiết miêu tả cuộc đời Mị, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Bên cạnh nhân vật Mị, sự xuất hiện của nhân vật A Phủ làm hoàn chỉnh hơn, tô đậm thêm bức tranh hiện thực và giá trị tố cáo của tác phẩm. Cũng như Mị, trước khi là người gạt nợ cho Pá Tra, A Phủ là chàng trai khoẻ mạnh, dũng cảm, gan góc. Anh sống phóng khoáng, tự do như cánh chim trời giữa núi rừng Tây Bắc. Nhưng một khi đã sống trên vùng đất của bọn địa chủ phong kiến, cuộc sống tự do là điều khó xảy ra với những người dân lao động giỏi giang như A Phủ. Chỉ vì dám đánh lại con quan thống lý để bảo vệ bạn bè, bênh vực lẽ phải, A Phủ bị cột chặt vào thân phận một đứa ở gạt nợ trong nhà Pá Tra. Anh chịu đựng bao sự đày đoạ nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. Nếu như Mị trở thành hình bóng lặng lẽ như “con rùa nuôi trong xó cửa” thì A Phủ cũng câm nín như “bức tượng đá” để hứng chịu những trận đòn. Người con trai phóng khoáng của núi rừng Tây Bắc ngày xưa giờ đây cũng tê liệt tinh thần phản kháng. Kết cục của quãng đời làm người ở gạt nợ là A Phủ phải tự đi lấy cọc chôn xuống đất cho cha con Pá Tra trói mình. Sự yếu đuối, nước mắt khóc từ xưa vốn được xem là độc quyền của người phụ nữ, vậy mà dòng nước mắt ấy đã chảy xuống hai hõm má đen xạm của A Phủ lúc bị trói. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi con người ta ý thức rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến sự chết lan dần khắp cơ thể mà đành bất lực, đành tuyệt vọng. Phân Giá trị hiện thực của truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" còn biểu hiện qua việc tích ý 2 nhà văn phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi, được thể hiện : nhà qua hai nhân vật điển hình là Pá Tra và A Sử. văn phơi Thống lí Pá Tra là kẻ thâm độc, tàn bạo, là nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau bày bản cho cuộc đời của Mị, A Phủ. Với Mị, Pá Tra chính là kẻ tước đoạt tự do, hạnh phúc chất tàn cuộc đời Mị, biến Mị trở thành "trâu ngựa". Bố mẹ nghèo , cưới nhau không có tiền phải bạo của vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ giai cấp truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã thống trị muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, ở miền cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. núi Từ đó, cuộc đời tăm tối của Mị bắt đầu. Mị bị bóc lột sức lao động với những công việc quanh năm suốt tháng, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị trở thành vô cảm, sống “lùi lũi như con rùa nôi trong xó cửa”. Với A Phủ, Pá Tra lợi dụng thần quyền và cường quyền để xử kiện một cách dã man, phi lí, vô nhân đạo. Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra 17
- là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan. Chưa hết, khi A phủ để mất một con bò, anh bị thống lí Pá Tra trói đứng vào cột bằng dây mây, từ chân tới đầu. A Phủ sẽ chết nếu không được Mị cứu thoát. Pá Tra đã coi tính mạng của A Phủ không bằng một con bò. Cùng với tên thống lí Pá Tra, A Sử cũng là một kẻ tàn bạo. Nếu như Pá Tra là kẻ biến Mị trở thành nô lệ thì A Sử là kẻ tước đi một chút tự do cuối cùng của Mị. A Sử không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính. Phản ánh bọn thống trị đó, nhà văn muốn người đọc liên tưởng đến bọn người tàn ác, tàn bạo đang làm điêu đứng những cảnh đời trên những nẻo rừng Tây Bắc Nhận Hiện thực về cuộc sống khốn khổ của người dân nghèo, về bộ mặt tàn bạo xét về của giai cấp thống trị đã được tái hiện một cách sinh động qua nghệ thuật viết nghệ truyện điêu luyện của nhà văn Tô Hoài. Ông có một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc thuật sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham thể hiện sống và khát vọng hạnh phúc, tình yêu là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ khả năng giá trị “hoá thân” kỳ diệu của nhà văn vào chiều sâu nội tâm nhân vật. Tô Hoài cũng thành hiện công khi miêu tả phong tục tập quán Tây Bắc và bức tranh phong cảnh thiên nhiên sinh thực động, giàu chất thơ. Các tình tiết dẫn dắt một cách khéo léo một cách khéo léo tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi. Kết bài Tóm lại, truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" có giá trị hiện thực sâu sắc với hai biểu hiện: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân miền núi Tây Bắc; phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị. Hiện thực đó góp phần làm rõ hơn , đầy đủ hơn bức tranh hiện thực của xã hội nước ta dưới thời chế độ thực dân nửa phong kiến. VỢ NHẶT ( KIM LÂN) A/ ÔN TẬP TRỌNG TÂM KIẾN THỨC CƠ BẢN: I. Tác giả: Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945. II. Tác phẩm: Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí, 1962) được viết dựa trên một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. III. Nội dung, nghệ thuật tác phẩm: 1) Nội dung: 18
- - Nhân vật Tràng: + là người lao động nghèo, tốt bụng và cởi mở (giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ),,, + luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức xây dựng hạnh phúc. Câu “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình và Tràng đã “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, thấy nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng, Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Anh cũng nghĩ tới sự đổi thay cho dù vẫn chưa ý thức thật đầy dủ (hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp). - Người “vợ nhặt”: + là nạn nhân của nạn đói. Những xô đẩy dữ dội của hoàn cảnh đã khiến “thị” chao chát, thô tục và chấp nhận làm “vợ nhặt”. +Tuy nhiên, sâu thẳm trong con người này vẫn khao khát một mái ấm. “Thị” là một con người hoàn toàn khác khi trở thành người vợ trong gia đình. - Bà cụ Tứ: + Một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con; + Một người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha; + Mmột con người lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Ba nhân vật có niềm khát khao sống và hạnh phúc, niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi sáng và ở cả những thời khắc khó khăn nhất, ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Qua các nhân vật, nhà văn muốn thể hiện tư tưởng: “dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai”. 2) Nghệ thuật: - Xây dựng được tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện. - Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc. - Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế. - Ngôn ngữ một mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi. 3) Ý nghĩa văn bản: Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 và khẳng định: ngay trên bờ vực của cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. B/ LUYỆN TẬP Đề 1 : Phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. A/ Lập dàn ý: I . Mở bài - Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm; - Giới thiệu và nhận định chung về nhân vật người vợ nhặt . II. Thân bài: 1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt nội dung truyện. 2. Phân tích nhân vật người vợ nhặt : a/. Phân tích đặc điểm 1: - Nêu đặc điểm: Người “vợ nhặt ” là nạn nhân của nạn đói năm 1945. -Làm rõ đặc điểm: + Người vợ nhặt là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không quá khứ. + Chân dung chị ta hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn. Đó là hình ảnh một người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, còn quần áo thì rách như tổ đĩa. + Chị ta hiện ra trước mắt mọi người với điệu bộ còn xa mới gọi là dịu dàng. Đàn bà gì mà “sầm sập chạy tới”, “sừng sỉa nói”, “đứng cong cớn trước mặt hắn” 19
- + Đã thế, chị ta thuộc loại ăn nói chỏng lỏn, ghê gớm, mở miệng thì “rích bố cu”, “bỏ bố”, “sợ gì”. + Và trên hết, chị ta là một người đang đói. Đói đến mức quên cả ý tứ, sỉ diện tối thiểu của một người con gái. b./Phân tích đặc điểm 2: - Nêu đặc điểm: Nhưng trong sâu thẳm con người thị vẫn có niềm khát khao được sống, khát khao một mái ấm hạnh phúc. -Làm rõ đặc điểm: + Con người thật của chị ta, khi đi với Tràng mới hiện lên đầy đủ. Người đàn bà cong cớn ấy, ngay từ khi đi theo Tràng về nhà đã khác : một cô dâu ngoan ngoãn dễ thương đang về nhà chồng + Khi bước vào nhà Tràng, người đàn bà ấy “ngồi mớm ở mép giường hai tay khư khư ôm cái thúng, mặt bần thần”. Đó cũng chính là cái tâm trạng ngổn ngang trăm mối của lòng người. + Nhưng có lẽ nét đẹp của người đàn bà ấy, thực sự hiện ra rõ nhất là sau buổi gặp gỡ với bà cụ Tứ và buổi sáng hôm sau của cuộc đời làm vợ. Thị tỏ ra đảm đang, hiền thục. + Bóng dáng của chị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự ấm áp. Chị mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết. 3. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật “vợ nhặt ” : - Tác giả đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để bộc lộ phẩm chất, tính cách. - Cách kể chuyện tự nhân , hấp dẫn, dựng cảnh sinh động - Đối thoại hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị III . Kết bài : - Kết luận chung về hình tượng nhân vật “vợ nhặt ” . - Nêu ý nghĩa của nhân vật. - Cảm nghĩ về nhân vật. B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu). Mở bài Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945. Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất thành công nhân vật người vợ nhặt. Đó là hình ảnh của một người nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt . Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946), được bài: Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962). Truyện kể về xóm Khái ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe quát thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Phân Người “vợ nhặt ”là nạn nhân của nạn đói năm 1945. Thị là người vô gia cư, tích ý 1 : đến cái tên cũng chẳng có. Có lẽ thị không phải người ở xứ này, mà ở một nơi nào đó, do nạn đói đã trôi dạt đến đây, bám víu bụi bờ để sống.Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Nhưng Tràng không nhận ra thị. Bởi hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Nạn đói đã tàn phá ghê gớm, khiến cho thị thay hình đổi dạng. Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong còn lấy đũa quẹt 20
- ngang miệng và khen ngon Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. Phân Nhưng trong sâu thẳm con người thị vẫn có niềm khát khao được sống, khát tích ý 2 : khao một mái ấm hạnh phúc. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia” ). Thật là tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm hạnh phúc của gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng có con như những người đàn bà may mắn khác. Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. Nhân vật Vợ nhặt đã thể hiện sự điêu luyện của ngòi bút Kim Lân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo để Nghệ nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, thuật dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn. Kết Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không luận người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết . Nhân vật là một bằng chứng sinh động để tác giả tố cáo hiện thực về nạn đói, góp phần tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Đề 2 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2011- Phần nâng cao) A. Đáp án của Bộ GD&ĐT : a. Yêu cầu về kĩ năng Biết cách làm bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi; biết cách phân tích một hình tượng nhân vật. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Yêu cầu về kiến thức Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt (chủ yếu phần trích trong Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập hai), thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rõ được các ý cơ bản sau: - Nêu được vấn đề cần nghị luận - Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. - Trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. - Khát vọng sống mãnh liệt; có niềm tin vào tương lai tươi sáng. - Nghệ thuật: nhân vật được đặt trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. 21
- - Đánh giá chung về nhân vật. B/Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu). Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất thành công nhân vật Tràng. Đó là hình ảnh của một người nghèo đói, bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc . Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946), được bài: Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962). Truyện kể về Khái xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề quát đẩy xe thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lên dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Phân Trước hết, Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tích ý 1 : tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp. Thật vậy, xuất hiện trong tác phẩm, Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có một mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn. Đã vậy, Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”; “cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.Thêm vào đó, tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Có thể nói, Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp. Thấy người đàn bà đói quá, anh sẵn sàng cho ăn dù cũng chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù bỗng sợ cho tương lai, anh vẫn không từ chối. Điều chủ yếu là :"Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy". Chính sự tốt bụng và nhân hậu này đã đem đến hạnh phúc cho Tràng. Phân Mặc dù nghèo khổ nhưng trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát tích ý 2 : khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói. Qủa thật, chuyện lấy vợ của Tràng là một lạ mà thú vị - đùa mà thật, thật mà cứ như đùa. Lúc đầu, khi người phụ nữ đói nghèo, rách rưới đồng ý theo không Tràng về làm vợ, Tràng không phải không biết “chợn”: “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”. Có vẻ như một quyết định không nghiêm túc như phóng lao phải theo lao vậy.Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong lại là tất nhiên : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc. Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc:“ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy ” Có thể nói , trong tác phẩm, có tới hơn hai mươi lần nhà văn nhắc đến niềm vui và nụ cười thường trực của Tràng khi đã có vợ bằng các từ ngữ rất gợi tả và gợi cảm : mặt phớn phở, mắt sáng lên lấp lánh, miệng cười tủm tỉm Chỉ sau một đêm “nên vợ nên chồng”, Tràng thấy mình đổi khác “ trong 22
- người êm ái, lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”. Tràng “ bỗng nhiên thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà”; “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này ” Niềm vui của Tràng thật cảm động, lẫn lộn cả hiện thực lẫn ước mơ. “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng “ngật ngưỡng” của Tràng ở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Phân Tràng là người có khát vọng sống mãnh liệt; có niềm tin vào tương lai tích ý 3 : tươi sáng. Tràng biết vượt lên trên hoàn cảnh để sống hạnh phúc. Trong phúc chốc, Tràng nghĩ đến“ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”. Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng. Hai hình ảnh trên đối lập nhau nhưng có nhiều ý nghĩa. Hình ảnh cách mạng xa mà gần, trừu tượng mà cụ thể, tạo xúc động mạnh và gợi niềm tin. Đó là tín hiệu của sự đổi đời, nhất định Tràng và bao người nông dân nghèo khổ khác sẽ được sống trong hạnh phúc nếu biết đứng dậy để đoàn kết đấu tranh Nhân vật Tràng đã thể hiện sự điêu luyện của ngòi bút Kim Lân trong nghệ Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo để thuật nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách: cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn. Kết Tóm lại, Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt luận vợ hết sức đặc biệt. Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống. Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhựng người dân lao động nghèo: đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai. Đề 3 : Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2008) A. Đáp án của Bộ GD&ĐT : a. Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận phân tích nhân vật; kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. b. Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở hiểu biết về truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, thí sinh phân tích được diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ với các ý cơ bản sau: - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và nhân vật. - Bối cảnh nảy sinh tâm trạng: giữa nạn đói thê thảm, mọi người đang đối mặt với cái chết thì Tràng (con trai bà cụ Tứ) lại lấy vợ. - Diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ: + Ngạc nhiên và lo lắng. + Hờn tủi và thương xót. + Mừng lòng và mong mỏi. - Đánh giá: Với tình huống truyện độc đáo, lựa chọn chi tiết đặc sắc, Kim Lân đã miêu tả diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chân thực, tinh tế, cảm động; từ đó làm toát lên tấm lòng nhân hậu, bao dung của nhân vật và trái tim nhân đạo của tác giả. 23
- B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu). Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Trên cái nền tăm tối và đau thương của nạn đói Ất Dậu ( 1945), nhà văn đã viết rất hay về tâm trạng của bà cụ Tứ - một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu. Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946), được bài: Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962). Truyện kể về xóm Khái ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe quát thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Phân Trước hết, xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông tích ý 1 dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm: nhà nghèo, goá bụa, sống :Khái gian khổ, thầm lặng. Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện với vài nét quát về đơn giản : chưa thấy người đã thấy tiếng ho, dáng lọng khọng, đôi mắt nhoèn hấp , cuộc đời Nhà văn gọi bà bằng những từ ngữ trân trọng, trìu mến: bà cụ, bà lão, người mẹ nghèo của bà khổ. Cách gọi như vậy thể hiện sự kính trọng bà mẹ, kính trọng tuổi già và kính trọng nỗi khổ đau suốt một đời đã đè nặng lên vai con người. Chính thái độ này của Kim Lân đã khiến nhà văn như nhập thân vào bà cụ Tứ, nhìn sự việc, kể lại theo con mắt và tâm trạng của bà. Phân Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ có sự thay đổi theo trật tự thời gian. Khởi tích ý 2 đầu, bà ngỡ ngàng trước việc Tràng có vợ - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ :tâm nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả trạng bằng hàng loạt những câu nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy ngỡ nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao ngàng lại chào mình mình bằng u? ”.Sự việc Tràng lấy vợ được xem là việc ngạc nhiên động trời, tạo ra một tình huống đầy kịch tính. Bà ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân còn chẳng xong mà Tràng lại dám lấy vợ. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm, đó là tâm trạng vừa ai oán, vừa xót thương cho đứa con mình vì Tràng lấy vợ trong lúc bần hàn, người mẹ nghèo không biết lấy gì cho con và bà tủi hờn cho mình: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt sau này. Còn mình thì Tâm trạng buồn tủi cho chính mình thì không đủ sức lấy được vợ cho đứa con trai duy nhất của mình để đến nỗi Tràng phải nhặt vợ.Trong nỗi lo âu của bà còn là những day dứt, dằn vặt của người mẹ vì bà đã không làm tròn bổn phận làm mẹ. Sau đó bà đã lo lắng: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát này không. Ý nghĩ ấy biểu hiện tấm lòng thương con bao la của bà cụ Tứ. Nỗi lo lắng của bà là tấm lòng của người mẹ đầy trách nhiệm nhưng đành bất lực trước số phận. Phân Tiếp theo là tâm trạng của bà cụ Tứ khi nói chuyện với người vợ Tràng. tích ý 3 Người đàn bà Tràng đã nhặt về làm vợ đang đứng trước bà cụ Tứ. Thị như một người :tâm có lỗi, cúi mặt xuống,tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà đăm đăm nhìn thị. Đó là cái trạng nhìn của sự ái ngại, cảm thông,. Ánh mắt của bà là ánh mặt của tình thương. Bà nghĩ của bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà 24
- cụ Tứ con mình mới có được vợ ”. Bà đã hiểu rất rõ nguyên nhân người ta đã lấy con khi nói mình. Hay chính bà đã hiểu được hoàn cảnh của thị là một người đang gặp khó khăn, chuyện đói khổ nên đã theo không về làm vợ con bà. Bà còn hiểu cũng nhờ người ta mà con với mình mới có được vợ. Một sự thấu hiểu sâu sắc. Người được bà ban ơn, lại cũng là người người mà bà phải chịu ơn. Tuy nhiên, không vì lẽ đó mà bà phải hạ thấp mình. Bà là vợ mẹ, bà có quyền quyết định tất cả. Và người đàn bà kia cùng Tràng đang hồi hộp, chờ Tràng đợi cái giây phút quyết định ấy. Bà đã gọi thị là con, xưng u một cách tự nhiên, bằng chính tình cảm chân thành, ấm áp thể hiện sự tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay trong lần đầu gặp mặt. Câu nói đầu tiên của bà với nàng dâu mới thật chân tình, cảm động: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng ”. Nhà văn đã tìm được từ ngữ chính xác để miêu tả tâm trạng của bà cụ: mừng lòng chứ không phải bằng lòng. Nó vừa có vẻ mộc mạc của người già vừa lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu dòng nước mắt xót thương. Rồi bà lại động viên con trai và con dâu: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng mày liệu mà bảo nhau làm ăn ai giàu ba họ, ai khó ba đời ”. Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm tin thì ở bà cụ Tứ, sự vận động tâm lí phức tạp hơn nhiều. Con người già cả ấy đã đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, lòng đầy ám ảnh về một quá khứ nặng trĩu những đắng cay, cơ cực:“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”. Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị: “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Hiểu biết, cảm thông, cưu mang và thương xót với một cô gái xa lạ, nghèo khổ, rách rưới, đói khát theo không con bà về làm vợ, tấm lòng ấy chỉ có ở một con người có lòng nhân hậu, bao dung và vị tha. Bà cụ Tứ là một người như vậy. Phân Cuối cùng là tâm trạng của bà cụ Tứ vào sáng hôm sau. Khi Tràng thức dây đã tích ý 4 thấy mẹ và vợ đang dọn dẹp nhà cửa, sân vườn. Tràng thấy mẹ mình hôm nay nhẹ :tâm nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà trạng xăm xắn dọn dẹp, thu vén căn nhà. Bà cùng những người con đều nghĩ: thu xếp nhà của bà cửa cho quang quẽ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá cụ Tứ hơn. vào Trong bữa cơm ngày đói thảm hại: giữa cái mẹt rách có độc một chùm rau chuối sáng thái rối và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn hôm sau vừa kể toàn chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà ”. Bữa ăn diễn ra thật nhanh bởi niêu cháo chỉ đủ cho mỗi người lưng lưng hai bát là đã hết nhẵn. Bà cụ Tứ nhình hai con vui vẻ: Chúng mà đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ. Rồi bà bưng ra một cái nồi bốc khói nghi ngút, bà cười và nói với con:“Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ ‘ngon” này không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người của người dân lao động: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hy vọng của con người vẫn không thể bị tiêu diệt – con người vẫn muốn sống cho ra sống. Chính chất người đã thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hy vọng. Tuy nhiên, niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”. Bà không cầm được nước mắt. Tình thương của bà đối với các con càng lúc càng như kiệt sức. Nhưng họ không gục ngã chính vì họ đã tìm được niềm an ủi trong sự cưu mang, nương tựa nhau, quan tâm chăm sóc nhau. Tình vợ chồng, tình mẹ con-những động lực lớn lao ấy đã giúp họ tăng sức mạnh vượt qua những thực trạng u uất, bế tắc. Chính bà cụ Tứ đã thắp sáng ngọn lửa niền tin và hy vọng cho hai con. Bà là người mẹ nhân hâu nhất. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ khá sắc sảo. 25
- Ông đã thấu hiểu và phân tích được một cách hợp lí những chuyển biến tâm trạng Nghệ phức tạp mà sâu sắc của nhân vật. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc thuật đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất, tính cách: cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn. Kết Có thể nói, thành công của nhà văn là đã thầu hiểu và phân tích được những luận trạng thái tâm lý khá tinh tế của nhân vật bà cụ Tứ trong một hoàn cảnh đặc biệt.Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ là điển hình cho những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam nghèo khổ, nhân hậu, giàu đức hi sinh và khao khát hạnh phúc. Đề 4 : Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. ( Trích đề thi và đáp ánTốt Nghiệp THPT năm 2008 - Lần 2) A. Đáp án của Bộ GD&ĐT : a) Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc hiểu để phân tích làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm tự sự. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b) Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở những hiểu biết về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, thí sinh biết phân tích các chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật nội dung nhân đạo của tác phẩm; có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau song cần nêu được những ý chính sau: - Phản ánh hiện thực cuộc sống bi thảm của người dân lao động trong nạn đói khủng khiếp 1945; lên án tội ác của thực dân, phát xít. - Cảm thương thân phận rẻ rúng của con người. - Ngợi ca nét đẹp tâm hồn người lao động nghèo: khát khao hạnh phúc, lòng nhân hậu, niềm hy vọng vào ngày mai B. Gợi ý làm bài: ( Phần sau đây chỉ là gợi ý chi tiết của dàn ý sơ lược. Học sinh đọc tham khảo. Khi làm bài, HS phải viết thành bài hoàn chỉnh, diễn đạt sáng tạo hơn. Chú ý dòng in đậm đứng là ý chính, dòng in đậm nghiêng là trích dẫn chứng tiêu biểu). Mở bài Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Truyện thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Thân Vợ nhặt thực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946), được bài: Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí ( 1962). Truyện kể về xóm Khái ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe quát thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Khái Trước hết, ta có thể hiểu: Gía trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác niệm phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với giá trị nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà nhân văn còn thể hiện tấm lòng nâng niu, trân trọng của mình với những nét đẹp trong tâm đạo hồn và niềm tin khả năng vươn lên của người lao động để hướng về sự sống, về ánh sáng và tương lai dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời. Có thể nói, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã giúp cho chúng ta cảm nhận một cách sâu 26
- sắc về cuộc sống tối tăm của những người lao động nghèo trong nạn đói năm 1945, cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm của họ. Phân Biểu hiện thứ nhất về giá trị nhân đạo của của truyện đó là nhà văn đã tố cáo tích ý 1 : bọn thực dân, phát xít, nguyên nhân gây ra nạn đói cho nhân dân ta. Vợ nhặt trước hết là thiên truyện về cái đói. Chỉ mấy chữ “Cái đói đã tràn đến ” đủ gợi lên hoài niệm kinh hoàng cho người xứ Việt về một hiểm hoạ lớn của dân tộc đã quét đi xấp xỉ gần một phần mười dân số trên đất nước này. Đúng như chữ nghĩa Kim Lân, hiểm hoạ ấy “tràn đến”, tức là mạnh như thác dữ. Cách tả của nhà văn càng gây một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, nhưng đáng sợ nhất là có tới hai lần ông so sánh người với ma: “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma” và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Kiểu so sánh ấy thể hiện một cảm quan đặc biệt của Kim Lân về cái thời ghê rợn: đó là cái thời mà ranh giới giữa người và ma, cái sống và cái chết chỉ mong manh như sợi tóc, cõi âm nhoà vào cõi dương, trần gian mấp mé miệng vực của âm phủ. Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, cái tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Quả là cái đói đã lộ hết sức mạnh huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Câu nói của bà cụ Tứ ở cuối truyện đã trực tiếp chỉ rõ nguyên nhân gây ra nạn đói: Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ Kẻ đã bắt nhân dân ta nhổ lúa để trồng đay làm nguyên liệu phục vụ cho cuộc chiến tranh đó là phát xít Nhật khi chúng đến xâm lăng Đông Dương năm 1940. Còn sưu cao thuế nặng, đó là chính sách bảo hộ thâm độc của thực dân Pháp khi chúng cai trị nước ta. Đó là nỗi đau, là thảm hoạ với dân tộc Việt Nam. Đó còn là một tội ác, một mối thù chỉ có thể đưa vào quá khứ chứ không thể lãng quên. Phân Biểu hiện thứ hai về giá trị nhân đạo của truyện là nhà văn thể hiện thái độ cảm tích ý 2 : thương thân phận rẻ rúng của con người. Thái độ ấy được Kim Lân kín đáo bộc lộ qua cách kể chuyện, cách xây dựng nhân vật. Giọng kể chậm rãi, từ tốn, nhẹ nhàng biểu hiện cái nhìn gần gũi, cảm thông của tác giả. Cách miêu tả tâm lí sâu sắc, chứng tỏ nhà văn đã thâm nhập vào nhân vật nên mới thấu hiểu tâm tư thầm kín của họ. Kim Lân xây dựng nhân vật Tràng có vẻ hoang sơ nhưng chưa phải là hoang dã, thô kệch nhưng không thô lỗ, vô tâm nhưng chưa phải ngờ nghệch. Người vơ nhặt có chao chát, chỏng lỏn nhưng chưa phải đanh đá, điêu ngoa, theo không Tràng về làm vợ là do đói, là do khát sống chứ không phải là lẳng lơ, hư hỏng. Đặc biệt, nhân vật bà cụ Tứ, dưới ngòi bút của Kim Lân, hiện lên là một người mẹ thương con hết mực, một người phụ nữ nhân hậu, bao dung Nhà văn đã xây dựng các nhân vật bằng cả một tấm lòng nâng niu trân trọng. Phân Biểu hiện quan trọng nhất về giá trị nhân đạo của truyện là tác giả đã đi sâu tích ý 3 : khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người. Trong cảnh bần cùng đói rách, người ta có thể sống ích kỉ, lạnh lùng, thậm chí là tàn nhẫn. Nhưng người lao động Việt Nam vẫn sống nhân hậu, tràn đầy tình thương, nhường cơm sẻ áo, cưu mang đùm bọc; vẫn khao khát vương lên, khao khát hạnh phúc và hy vọng vào tương lai. Các nhân vật anh Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt đã thể hiện rõ điều đó. Anh Tràng có vẻ ngoài thô kệch nhưng lại rất tốt bụng. Khi thấy người đàn bà đói gợi ý đòi ăn, Tràng không từ chối, sẵn sàng cho ăn dù mình cũng chẳng dư dật gì. Người đàn bà nghèo khó hơn mình, quyết định đi theo thì Tràng cũng không từ chối dù cũng rất lo đến cái thân mình không nuôi nổi lại còn đèo bòng nhưng anh vẫn chậc, kệ và dẫn vợ về nhà Sáng hôm sau, Tràng thấy có cái gì vừa thay đổi thu dọn phòng sạch sẽ gọn gàng. Thật sự là Tràng đã tìm thấy hạnh phúc của mình. Hạnh phúc dâng lên trong lòng Tràng. Từ khi có vợ, Tràng thấy gắn bó với ngôi nhà mình hơn, thấy nên người 27