Tài liệu ôn luyện thi THPT quốc gia môn Ngữ văn - Phần Văn học Việt Nam hiện đại
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn luyện thi THPT quốc gia môn Ngữ văn - Phần Văn học Việt Nam hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_lieu_on_luyen_thi_thpt_quoc_gia_mon_ngu_van_phan_van_hoc.pdf
Nội dung text: Tài liệu ôn luyện thi THPT quốc gia môn Ngữ văn - Phần Văn học Việt Nam hiện đại
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại trung tâm, hình tượng Sóng. Cả bài thơ là những con Sóng tâm tình của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con Sóng là hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc hòa nhập, lúc lại là sự phân thân của em. Người phụ nữ rọi vào Sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ Sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng Sóng Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm hồn mình thật xác đáng và đẹp 2. Hình tượng Sóng a. Hình tượng Sóng được gợi ra bằng âm điệu Âm điệu là sự hòa điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Bài thơ “Sóng” có âm hưởng nhịp nhàng, lúc dạt dào, sôi nổi, lúc thầm thì, lắng sâu gợi nên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp miên man, đó cũng là nhịp điệu tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Âm hưởng chủ đạo là sự trải dài, không ngắt nhịp, Sóng được tạo nên bởi thể thơ 5 chữ với sự biến hóa cả về vần và nhịp. Về nhịp chữ, bài thơ có sự biến hóa phong phú về nhịp thơ, có lúc là nhịp 2/3, có lúc lại là nhịp 3/2, có lúc là nhịp 1/4 rồi lại trở về không nhịp thơ. Nhịp thơ thay đổi như vậy giúp Xuân Quỳnh mô phỏng nhịp Sóng biến đổi rất mau lẹ, biến hóa không ngừng về vần, thi sĩ đã tạo ra các cặp từ, các vế câu, cặp câu đi liền kề, kế tiếp luôn phiên đáp đối nhau. Dữ dội và dịu êm (b), ồn áo và lặng lẽ (t) Sóng không hiểu nổi mình (B), Sóng tìm ra tận Bể (T). Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện tựa như con Sóng này vừa lặng xuống, con Sóng khác lại trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi tả hình ảnh những con Sóng trên mặt Biển cứ miên man khi thăng khi giáng khi bổng khi trầm. Như vậy, trước khi Sóng xuất hiện qua hình ảnh cụ thể thì ta đã nghe, đã cảm nhận được Sóng qua âm hưởng mọi nhịp điệu. Âm hưởng và nhịp điệu của sóng rất gần gũi với tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu vì vậy Sóng là đối tượng để nhà thơ cảm nhận về thế giới tâm hồn mình. b. Sóng là đối tượng của sự cảm nhận Hai khổ thơ đầu sóng là đối tượng của sự cảm nhận: “ Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận Bể” Khổ thơ đầu là sự phát hiện rất tinh tế của nhà thơ về đặc điểm và tính chất của Sóng. Trong một con Sóng luôn tồn tại hai trạng thái mâu thuẫn, đối lập nhau, vừa dữ dội, vừa dịu êm, vừa ồn ào, vừa lặng lẽ. Đặc điểm này của Sóng cũng giống như tâm hồn của người con gái trong tình yêu. Trong tình yêu người con gái luôn sống với những biến động bất thường của tâm hồn, có lúc dữ dội ồn ào mạnh mẽ đến Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại cuồng nhiệt, có lúc dịu êm lặng lẽ sâu lắng tinh tế và dịu dàng. Đúng như ca dao xưa đã diễn tả rất tinh tế đời sống tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: “ Đưa tay ngắt một cọng ngò Thương anh đứt ruột, giả đò ngó lơ” Đây là hai câu thơ mang tính chất tự thú, tự bạch thật táo bạo mà êm đềm. Nó táo bạo vì quá mãnh liệt và chân thực nhưng êm đềm vì sau những dữ dội ồn ào tình yêu vẫn đổ về phía cuối câu thơ để lắng vào dịu êm lặng lẽ. Đó là cái dịu dàng con gái làm mát cả bài thơ. Dẫu sao con Sóng quen thuộc đã trở nên lạ lùng, khó lí giải trước những mẫu thuẫn ấy Sóng khao khát tự khám phá, tự nhận thức “ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận Bể” Sông và Bể là những không gian, hành trình tự nhiên của những con Sóng là từ suối đổ về Sông, từ Sông đổ về Biển lớn. Đó là hành trình từ không gian chật hẹp đến không gian rộng lớn bao la, thông thường Sóng được khởi sinh từ lòng Sông. Nếu Sông không hiểu nổi Sóng thì Sóng quyết tìm ra đến Bể lớn. Hành trình của những con Sóng cũng giống với người phụ nữ trong tình yêu. Khi yêu người phụ nữ yêu chân thành mãnh liệt, yêu hết mình, yêu đến tận cùng “ Lòng đau rạn vỡ” “ Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng Thuyền đau rạn vỡ” Nhưng người phụ nữ không cam chịu nhẫn nhục. Nếu trong tình yêu không có sự đồng cảm bao dung thì người phụ nữ quyết tìm một tình yêu chân thành, đồng cảm, bao dung hơn, mãnh liệt hơn bởi khi sống hết mình với tình yêu con người mới nhận thức được những vẻ đẹp tinh tế và phong phú nhất của tâm hồn. Đây là một qua niệm về tình yêu rất mới mẻ và táo bạo của Xuân Quỳnh. Tình yêu là trạng thái cảm xúc phong phú đầy đam mê khát vọng, chân thành nồng nhiệt nhưng không cam chịu nhẫn nhục. Nếu trong tình yêu không có sự đồng cảm thì cần chủ động, dứt khoát tìm đến một tình yêu mới đồng cảm bao dung và sâu sắc hơn. Xuân Quỳnh viết những câu thơ này khi nhà thơ vừa trải qua những cay đắng đổ vỡ mất mát hạnh phúc và tình yêu. Từ sự chiêm nghiệm sâu sắc về tình yêu và cuộc đời nhà thơ đã viết nên những lời tâm sự chân thành bằng ngôn ngữ kì diệu của thơ ca, từ đó tác động sâu sắc đến tình cảm và nhận thức của con người về Sóng, về trái tim và tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Không chỉ mãnh liệt với khát vọng kham phá, Sóng còn được cảm nhận như sự tồn tại vĩnh hằng với thời gian “ Ôi con Sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại “ Ngày xưa” là cái đã qua, “ Ngày sau” là cái chưa tới. Trạng từ ngày xưa, ngày sau chỉ thời gian vô hồi vô hạn, vô thủy vô chung nhưng thời gian có đổi thay thì những con Sóng “ vẫn thế”- vẫn sống với những biến động thao thức của tâm hồn, vẫn háo hức trong hành trình tìm ra Biển lớn. Nỗi khát vọng của Sóng trong trong sự hòa nhập đồng cảm với Bể cũng là nỗi khát vọng muôn đời của con người đặc biệt với tuổi trẻ tình yêu bao giờ cũng là một niềm đam mê và khát vọng bồi hồi. Từ Sóng tới tình yêu vốn là tứ thơ quen thuộc xưa nay, ca dao xưa đã từng mượn Sóng để hạ lời thề vàng đá: “ Bao giờ cho Sóng bỏ ghềnh Cù lao bỏ Biển anh mới đành bỏ em” Con Sóng si tình Xuân Diệu từng rạo rực khao khát “ Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ thật êm Hôn êm đềm mãi mãi Đã hôn rồi hôn lại Cho đến mãi muôn đời Đến tan cả đất trời Anh đến thôi ào ạt” Nét riêng của Xuân Quỳnh là tạo ra con Sóng mãnh liệt mà đầy nữ tính, giàu trạng thái có cái bồi hồi rất trẻ trung, có ái dữ dội rất tương xứng với tình yêu nhưng còn có cái dịu dàng rất sâu lắng, rất con gái. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu trên cả hai bề cảm xúc và nhận thức. Vì thế những con Sóng được cảm nhận rất sinh động sâu sắc và rất có hồn. c. Nếu trong 2 khổ thơ đầu sóng là đối tượng cảm nhận thì 5 khổ thơ tiếp theo sóng là đối tượng nhận thức suy tư Nguồn gốc của tình yêu: Trong tình yêu con người luôn có nhu cầu nhận thức lí giải và cắt nghĩa về tình yêu. Xuân Quỳnh cũng vậy, từ cái nền hoành tráng của thiên nhiên “ Trước muôn trùng Sóng bể” Dòng suy tư của nhà thơ cuộn lên như những con Sóng khôn cùng, những câu hỏi liên tiếp hóa thành cuộc đối thoại lớn với thiên nhiên, vũ trụ về tình yêu “ Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” Nhà thơ đã lí giải nguồn gốc của tình yêu bằng qui luật tự nhiên của Sóng biển. Sóng bắt đầu từ Gió nhưng qui luật tự nhiên còn có thể cắt nghĩa, còn qui luật của tình yêu không thể cắt nghĩa theo lôgic thông thường bởi tình yêu là một hiện tượng tâm lí hồn nhiên, nhiều bí ẩn và bất ngờ không như Sóng biển, như gió trời, làm sao có thể cắt nghĩa được bằng qui luật thông thường. Xuân Quỳnh đã diễn đạt rất sâu Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại sắc điều mà Pascal đã nói: “ Trái tim có những qui luật riêng mà lí trí không thể hiểu được” Tình yêu cần có lí trí nhưng trước hết là câu chuyện của trái tim cho nên không thể dùng lí trí tỉnh táo để xác định thời điểm chính xác bắt đầu một mối tình. Chính sự bất lực của những câu trả lời đã góp phần kì ảo hóa tình yêu không lí giải được về nguồn gốc của tình yêu nhà thơ đi đến sự thú nhận đầy đáng yêu: “ Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau”. Đọc câu thơ người ta có sự liên tưởng thú vị, dường như nhà thơ vừa lắc đầu, vừa mỉm cười bẽn lẽn như thú nhận thành thực đáng yêu: Em không biết đã yêu anh khi nào? Câu thơ còn có một giọng điệu độc đáo, nếu đảo lại trật tự câu thơ sẽ lan về phía lí trí tỉnh táo. Viết như Xuân Quỳnh hiệu quả khác hẳn “ Em cũng không biết nữa” là sự bất lực của lí trí khi lí giải tình yêu “ Khi nào ta yêu nhau” là sự rung động đồng cảm của 2 trái tim. Cách viết của Xuân Quỳnh như diễn tả nỗi choáng váng của cô gái khi chạm phải vùng chói sáng của tình yêu làm cho lí trí phải dừng bước và trở thành vô nghĩa. Chính vì lẽ đó mà nhiều cô gái trong ca dao xưa từng thổn thức: “ Thấy anh như thấy mặt trời Chói chang khó ngó trao lời khó trao” Không lí giải được nguồn gốc của tình yêu dòng suy tư tiếp tục chiếm lĩnh mọi không gian và thời gian. Những biểu hiện của tình yêu + Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ: Những câu thơ này của Xuân Quỳnh đã động vào chỗ da diết khắc khoải nhất của tình yêu, đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ da diết khắc khoải nhất, đó là nỗi nhớ chiếm lĩnh trọn vẹn cả không gian, cả dưới lòng sâu và trên mặt nước. Đó là nỗi nhớ chiếm lĩnh mọi thời gian cả ngày lẫn đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ. Nỗi nhớ đó còn đi sâu vào tiềm thức, vào giấc mơ của con người “ Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức” Những câu thơ này của Xuân Quỳnh gợi ta liên tưởng đến những câu thơ mãnh liệt chân thành của Chế Lan Viên: “ Nửa đêm em tỉnh dậy Nghe gió bên này thổi về bên ấy Đó là lúc hồn anh không ngủ Đi giữa đất trời đến hát ru em” Tuy nhiên chỉ có trái tim yêu hết mình mới làm cho tình yêu thống trị cả không gian và thời gian, cả ý thức lẫn tiềm thức và đi vào giấc mơ như thế. Tình yêu xét ở khía cạnh ấy quả là một bất thường, một phi thường giữa đời thường + Để diễn tả nội nhớ trong tình yêu Xuân Quỳnh đã sử dụng hai cặp hình ảnh so sánh song song. Sóng vỗ bờ cả ngày lẫn đêm, em nhớ anh cả khi thức lẫn khi ngủ, hai cặp hình ảnh song song cộng hưởng, nhằm diễn tả tình yêu sâu sắc hơn. Thì ra Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại thời gian sinh hoạt còn có giới hạn bởi thức < ngủ nhưng thời gian tình yêu phá vỡ mọi giới hạn thống trị cả tiềm thức giấc mơ và thao thức khôn cùng. + Đoạn thơ còn sử dụng biện pháp Nghệ thuật nhân hóa: Sóng nhớ bờ ngày đêm không ngủ và sự sáng tạo trong hình thức khổ thơ (riêng khổ thơ này có 6 câu) nhằm diễn tả những cảm xúc nồng nàn và say đắm của tình yêu. Điều đó cho thấy người phụ nữ trong tình yêu rất chân thành, sâu sắc và mãnh liệt Chính trong nỗi nhớ con người đã gặp ánh sáng lấp lánh của tình yêu đó là lòng chung thủy “ Dẫu xuôi về phương Bắc Dẫu ngược về phương Nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” Để diễn tả lòng thủy chung của tình yêu nhà thơ đã có cách diễn đạt rất mới mẻ và sáng tạo “Phương Bắc” “ Phương Nam” là hai miền không gian xa cách, “ xuôi” và “ ngược” chỉ sự vận động trái chiều. Bình thường người ta chỉ nói ngược Bắc, xuôi Nam Xuân Quỳnh nói ngược lại “ xuôi về phương Bắc” “ ngược về phương Nam” phải chăng trong tình yêu chỉ vì bất cứ lí do gì thì sự xa cách cũng đều là nghịch lý. Vì thế mà ngược thành xuôi, xuôi thành ngược. Hay bởi vì trong trái tim người con gái, đất trời rộng lớn chỉ có duy nhất một phương anh nên dẫu Bắc hay Nam xuôi hay ngược cũng đều không còn ý nghĩa gì nữa bởi vì sự xa cách làm tình yêu thêm chân thành mãnh liệt. Hơn thế nữa hai từ xuôi và ngược còn biểu tượng cho những khó khăn thử thách, trắc trở của tình yêu. Trong tình yêu đâu phải chỉ toàn hạnh phúc và những giấc mơ ngọt ngào mà còn biết bao khó khăn đang đợi chờ trước mặt nhưng chính khó khăn ấy sẽ giúp con người giữ vững lòng chung thủy và tình yêu sâu sắc mãnh liệt chân thành. Có thể nói cách đảo vị trí này là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh làm cho câu thơ hàm súc ý vị hơn, diễn tả thật sâu sắc nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu. Vì thế câu thơ “ Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh một phương” Đã khẳng định cái bất biến (lòng chung thủy) giữa cái vạn biến, sự thay đổi và những khó khăn thử thách của cuộc đời Nếu trong hai khổ thơ đầu, từ những cảm nhận về Sóng, Xuân Quỳnh đã đưa ra những quan niệm rất mới mẻ táo bạo về tình yêu thì lòng chung thủy trong tình yêu lại là một nét đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc. Từ ca dao xưa bình dân khẳng định: “ Chồng em áo rách em thương Chồng người áo gấm xông hương mặc người” Quan niệm của Xuân Quỳnh về lòng chung thủy trong tình yêu có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc. Vì thế mà thơ Xuân Quỳnh luôn nhận được sự đồng cảm của nhiều thế hệ độc giả Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Tình yêu không chỉ gắn liền với nỗi nhớ, lòng chung thủy mà còn gắn liền với sự tin tưởng, khát vọng hạnh phúc dẫu cuộc đời có ngược xuôi đầy trắc trở, dẫu trong tình yêu không tránh khỏi sự cách xa kẻ Bắc người Nam nhưng nhà thơ vẫn tin tưởng mãnh liệt vào sự chiến thắng của tình yêu “ Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn ngàn cách trở” “ Đại dương” là không gian mênh mông bao la, “bờ” là biểu tượng của sự bình yên và hạnh phúc. Tất cả mọi con Sóng ngoài Đại dương dù xa cách với bờ ngàn trùng nhưng đều vượt qua được những thử thách khó khăn để đến được bến bờ hạnh phúc. Những con Sóng ấy ở ngoài Đại dương cũng như con Sóng tình yêu của Xuân Quỳnh chắc chắn sẽ vượt qua muôn vàn cách trở để đến được với bờ, và em đến được với anh. Đến lúc ấy Sóng mới thôi thao thức. Xuân Quỳnh đã nói đúng được qui luật muôn đời của tình yêu, tình yêu đích thực luôn khao khát đến được bến bờ của hạnh phúc và luôn tin tưởng vào hạnh phúc. Những suy tư trên Sóng của Xuân Quỳnh đã đạt được sự kết hợp cả cảm xúc và lí trí. Cho nên vừa thổn thức, vừa lắng sâu d. Sóng là sự suy tư bày tỏ khát vọng Trong hai phần đầu bài thơ Sóng Xuan Quỳnh đã cảm nhận rất đẹp về tình yêu. Tình yêu là một một hiện tượng tự nhiên gắn liền với nỗi nhớ, lòng chung thủy, niềm khát khao hạnh phúc nhưng tình yêu càng đẹp, con người càng âu lo trước sự trôi chảy của thời gian và sự trường tồn của một mối tình. Xuân Quỳnh cũng thế, trước sự mênh mông của Biển cả, sự suy tư về tình yêu, nhà thơ còn suy tư về thời gian về cuộc đời “ Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa” Nhà thơ đã cảm nhận rất rõ về sự ngắn ngủi nhỏ bé, hữu hạn của cuộc đời, khi viết những câu thơ này Xuân Quỳnh còn rất trẻ ( 25 tuổi) nên nhà thơ thấy cuộc đời còn dài, cuộc đời dài nhưng người cũng qua đi vì năm tháng không ngừng trôi chảy, tình yêu của con người nhiều khi không vượt nổi thời gian và phai tàn theo năm tháng. Cũng giống như Đại dương dù bao la đến đâu thì mọi đám mây đều có thể vượt qua biển. Những dự cảm âu lo về sự phai tàn đổi thay của tình yêu còn được Xuân Quỳnh gửi gắm trong bài “ Hoa cỏ may” “ Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may Áo em sơ ý cỏ găm dày Lời yêu mỏng manh như màu khói Ai biết lòng anh có đổi thay” Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Tuy nhiên ở bài thơ Sóng Xuân Quỳnh không lo âu mà ngược lại càng thêm tin tưởng vào cuộc đời, vào một tình yêu vĩnh cửu, khát vọng tình yêu thôi thúc nhà thơ vượt qua những giới hạn của đời người để bất tử hóa tình yêu “ Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỡ” Làm sao là một thoáng băn khoăn đầy đam mê khao khát của tình yêu. Tan ra là khát vọng đến độ cháy bỏng, ngàn năm là xu hướng vươn tới sự bất tử. Tan thành trăm con Sóng là khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng hiến dâng trọn vẹn mãnh liệt và thủy chung. Đó còn là khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu bằng cách làm cho tình yêu của mình trở nên rộng lớn hơn. Tình yêu của Xuân Quỳnh khát khao hòa nhập vào tình yêu lớn của cuộc đời để trở thành một tình yêu vĩnh hằng. Đúng là: “ Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chẳng có Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” - Tự hát - 3. Đánh giá Qua hình tượng Sóng và em ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy chủ động, mạnh bạo bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó là một nét mới mẻ thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không phút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực, “ Vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên” Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng tha thiết và đắm say một tình yêu thủy chung tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong quan niệm vững bền của dân tộc. Nghệ thuật: + Bài thơ xây dựng thành công hình tượng Sóng. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của em vì thế mà qua Sóng chúng ta hiểu được tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu và thấy được những rung động trong tâm hồn + Viết theo thể ngữ ngôn- một thể thơ truyền thống nhưng bài thơ lại có sự biến đổi linh hoạt về vần và nhịp vì thế đã tạo ra âm hưởng, nhịp điệu của bài thơ vừa nhịp nhàng sôi nổi, vừa dào dạt lắng sâu. Nhịp Sóng nhưng đồng thời cũng là nhịp tâm hồn + Ngôn ngữ trong bài thơ trong sáng, giản dị, giàu sức biểu cảm. Tuy nhiên sự giản dị đó chỉ có được ở những cây bút thiên tài. + Bài thơ sử dụng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật như: Ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, đối lập tương phản góp phần tạo nên những con Sóng chân thực sống động có hồn và diễn tả rất tự nhiên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại + Cấu trúc bài thơ: Riêng khổ thơ 5 được cấu tạo bằng 6 câu, diễn tả một nỗi nhớ nồng nàn, da diết, phá vỡ mọi giới hạn không gian, thời gian, trật tự của câu chữ, ngôn từ III. Kết luận Với bài thơ “Sóng” Xuân Quỳnh vừa là một tình nhân lại vừa là một thi nhân. Nhà văn Côlômbia Ga-xi-a Market đã nói một câu rất hay “ Con bướm phải mất 380 triệu năm mới cất cánh bay lên được, bông hoa Hồng cũng phải mất thêm 180 triệu năm nữa mới nở chỉ để làm đẹp cho đời mà thôi. Con người cũng phải trải qua chừng ấy năm mới hát được hay hơn chim và biết chết vì yêu”. Tình yêu là một giá trị văn hóa lớn, Xuân Quỳnh đã trình diễn một một giá trị văn hóa như thế. Bài thơ như một truyền thuyết về tình yêu đôi lứa. Sóng là một truyền thuyết tâm hồn và tính truyền thuyết ấy sẽ khiến Sóng còn vỗ lâu dài trong tâm hồn độc Đàn GHI TA CỦA LOR CA- Thanh Thảo - 5.2. Phân tích. a. Lor-ca là người nghệ sĩ và người chiến sĩ đấu tranh cho tự do, công lí. - Hình ảnh Lor-ca được xuất hiện qua các hình ảnh tượng trưng siêu thực. + Đó là hình ảnh những tiếng đàn bọt nước không phải ngẫu nhiên Thanh Thảo lấy lại hình ảnh những tiếng đàn để gợi tả Lor-ca. Đàn ghi ta gắn bó mật thiết với Lor-ca trên những nẻo đường ca hát và sáng tạo, Lor-ca đã viết về cây đàn ghi ta: "cây đàn ghi ta cất tiếng thở than như cốc rượu ban mai sóng sánh đổ tràn cây ghi ta bắt đầu lời ai oán dỗ nó nín đi phỏng có ích gì chẳng thể nào làm cây đàn im tiếng nó van vỉ như dòng nước sâu thổn thức như gió thở dài trên đỉnh tuyết lạnh băng. ơi ghi ta! trái tim người tư thương dưới năm ngọn kiếm sắc" Vì thế đàn ghi ta trở thành biểu tượng cho con đường nghệ thuật, cho khát vọng nghệ thuật cao cả mà ông nguyện phấn đấu suốt đời. Với Lor-ca đàn ghi ta là sự quyến rũ kì lạ của âm nhạc mà người nghệ sĩ này đã dùng tiếng đàn ghi ta cất lên lời tranh đấu chống lại chủ nghĩa phát xít. Đàn ghi ta còn là tâm hồn Lor-ca, là khí phách kiên cường của người nghệ sĩ yêu tự do, hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân, là biểu tượng cho tình yêu của ông với đất nước của cây Tây Ban cầm. Đàn ghi ta còn là định mệnh, là linh hồn của người nghệ sĩ. Cho nên ngay từ khi còn trẻ Lor-ca đã linh cảm: khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta." + Hình ảnh bọt nước đã gắn liền với hình ảnh đàn ghi ta. Hình ảnh bọt nước gợi sự nhỏ bé mong manh, chìm nổi, phù du. Sự kết hợp những tiếng đàn với bọt nước gợi liên tưởng cho người đọc về cuộc đời của Lor-ca. Cuộc đời của Lor-ca cũng mỏng manh, ngắn ngủi tựa như những bọt nước nổi lên rồi nó lại vỡ tan. Sinh mệnh người nghệ sĩ trong xã hội cũ vô cùng ngắn ngủi. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Lor-ca còn được gợi tả qua hình ảnh "Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt." Hình ảnh này gợi liên tưởng tới đấu trường bò tót - một nét đặc trưng của văn hóa Tây Ban Nha. Nhưng ở đây Thanh Thảo không muốn nói tới một đấu trường bò tót mà là một đấu trường chính trị, trong đó Lor-ca là người chiến sĩ đấu tranh cho tự do công lí, là người nghệ sĩ có khát vọng đổi mới nền nghệ thuật già nua Tây Ban Nha. - Thanh Thảo đã chọn hai hình ảnh này khởi đầu cho thi phẩm giống như kiểu tạo âm chữ cho một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt đó là sự tương phản giữa âm thanh hồn nhiên với màu sắc chói gắt, tương phản giữa tiếng đàn thảo dân với áo choàng đấu sĩ, tương phản giữa vẻ khiêm nhường với sự ngạo nghễ, giữa niềm hân hoan với nỗi kinh hoàng, giữa nghệ thuật và bạo lực, giữa thân phận bọt bèo với thực tại tàn khốc. Sự đối chọi ấy đã miêu tả đầy sức ám gợi về cả sinh mệnh và sứ mệnh của Lor-ca. Sinh mệnh của Lor-ca rất ngắn ngủi nhưng sứ mệnh của chàng vô cùng cao cả. Và trên cái nền hiện thực tranh chấp đối chọi ấy nổi lên chân dung Lor-ca. "đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếch choáng trên yêu ngựa mỏi mòn." Các từ láy "lang thang" "đơn độc" "chếch choáng" "mỏi mòn" đã tạo nên bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động đầy bão táp. Trong không khí ngột ngạt của nền chính trị độc tài trên đất nước Tây Ban Nha, trong sự già nua của nền nghệ thuật đang cần sự cách tân, đổi mới. Chàng trai trẻ Lor-ca một mình một ngựa đi lang thang về miền đơn độc, về những vùng đất làng quê hẻo lánh của đất nước Tây Ban Nha. Với cây đàn ghi ta chàng hát những khúc ca tư tình mang đậm màu sắc dân gian Tây Ban Nha bày tỏ tình yêu quên hương xứ sở và cổ vũ tinh thần, khát vọng tự do của nhân dân Tây Ban Nha trên hành trình đấu tranh cho công lí, chỉ có tiếng đàn ghi ta với âm thanh dìu dặt tha thiết. "li la li la li la" Vẻ đẹp của văn hóa Tây Ban Nha "áo choàng đỏ gắt", sắc tím dìu dịu của hoa từ đinh hương trên mọi nẻo đường Tây Ban Nha và vầng trăng chếnh choáng cùng chàng trai trẻ phiêu du đơn độc mỏi mòn. Phải chăng những hình ảnh âm thanh sắc màu ấy là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật. Vượt lên trên sự đe dọa của các thế lực bạo tàn là vẻ đẹp lãng du của Lor-ca trên con đường đấu tranh cho tự do và công lí. Nhìn theo góc độ nào cũng vẫn chỉ thấy hành trình của con người tự do và nhà cách tân nghệ thuật mong manh và đơn độc. Như vậy trong khổ thơ đầu, bằng những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực, mang tính biểu tượng đối lập kín đáo kết hợp những từ láy, Thanh Thảo đã phác họa chân dung Lor-ca người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp công lí, người nghệ sĩ cô đơn trên hành trình. Tuy nhiên có một điều đáng nói là Lor-ca luôn xuất hiện trên nền của cái đẹp của nghệ thuật, của văn hóa Tây Ban Nha. Một vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại b.Cái chết đầy bi tráng của Lor-ca và khát vọng cách tân dang dở. - Từ những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực nhưng ẩn chứa những dự cảm về dòng đời mong manh ngắn ngủi của một nghệ sĩ thiên tài. Trong hai khổ thơ tiếp theo Thanh Thảo đã miêu tả cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca và khát vọng cách tân nghệ thuật đầy dang dở. "Tây Ban Nha hát ngêu ngao bỗngng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bi điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du" + Cái chết của Lor-ca được miêu tả qua những hình ảnh tả thực đó là hình ảnh áo choàng bê bết đỏ, hình ảnh này có khả năng gợi tả cái chết bi thảm và đẫm máu của Lor-ca vì thế mà tấm áo choàng của chàng ướt đẫm một màu máu. Bọn phát xít Frăng-cô đi bắn hàng loạt súng vào người nghệ sĩ thiên tài, người chiến sĩ đấu tranh cho tự do công lí. Cho nên từ áo choàng đỏ gắt đầy kiêu hãnh chuyển thành áo choàng bê bết đỏ vô cùng đau thương. + Cùng với hình ảnh tả thực ở khổ thơ này ngôn từ trong các dòng thơ này cũng được tình lược đến mức tối đa: Tây Ban Nha (một từ), hát nghêu ngao (hai từ), bóng kinh hoàng (hai từ) . Câu thơ gọn nhưng nỗi đau thương thì đậm đặc, nhà thơ nhạc sĩ thiên tài Lor-ca đã ngã xuống ngay trên quê hương mình khi mới 38 tuổi, ngã xuống cùng cây đàn ghi ta huyền thoại của anh. Cái chết của Lor-ca làm chấn động cả đất nước Tây Ban Nha và làm chấn động cả tâm hồn người nghệ sĩ trẻ tuổi Lor-ca bị giết vào lúc không ngờ nhất, khi cả đất nước Tây Ban Nha đang hát vang những khúc ca lãng du phóng khoáng tự do của người nghệ sĩ thiên tài. Và khi Lor-ca đang hát ngêu ngao những bài ca tranh đấu, bọn phát xít đã điệu chàng về bãi bắn, họng súng bạo tàn của bọn phát xít hướng về chàng, tấm áo đẫm ướt một màu máu mà Lor-ca đi như người mộng du như không biết mình bị giết chết hay chàng không để ý tới cái chết. + Đặc biệt trong cấu trúc dòng thơ cả bài thơ có hai lần tên Lor-ca xuất hiện, trong lần thứ hai Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc - hình ảnh Lor-ca xuất hiện trong những câu thơ siêu thực. Còn trong lần xuất hiện đầu tiên, Lor-ca bị điệu về báo bắn, hình ảnh Lor-ca xuất hiện trong những câu thơ tả thực, so với phần lớn những câu thơ trong bài đây là câu thơ có chủ thể, để cho Lor-ca xuất hiện nhà thơ muốn nhấn mạnh một sự thật buồn đau của quá khứ bạo tàn và hình tượng nhà thơ Tây Ban Nha đấu tranh vì tự do công lí hiện ra rất thực và đầy chất bi tráng. Như vậy với hình ảnh tả thực, sự tình lược tối đa về mặt ngôn ngữ và để Lor-ca xuất hiện trực tiếp người đọc hình dung rất chân thực về thời điểm bi phân nhất trong cuộc đời Lor-ca. Cái chết của chàng đã tạo nên một niềm đồng cảm xót thương cho cuộc đời người nghệ sĩ trẻ tuổi. Đồng thời gợi lên người đọc lòng căm thù với chế độ phát xít độc tài. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại - Nhưng ngày sau hình ảnh tả thực là những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực "tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn giọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy" + Những hình ảnh này gợi cho ta rất nhiều liên tưởng. Từ những tiếng đàn bọt nước đã trở thành tiếng ghi ta nâu. Màu nâu gợi liên tưởng tới những làn da rám nắng của những cô gái Tây Ban Nha. Nhưng màu nâu còn gợi liên tưởng tới màu của đất đai màu mỡ của quê hương xứ sở. + Cùng với hình ảnh ghi ta nâu là hình ảnh bầu trời cô gái ấy. Bầu trời gợi không gian bao la và cao rộng, nó biểu tượng cho khát vọng tự do. Còn cô gái ấy chính là Mariana, là người yêu của Lor-ca. Trong thời khắc Lor-ca bị bắn chết hướng về tình yêu của mình. Bên cạnh hình ảnh "bầu trời cô gái ấy" còn là "tiếng ghi ta lá xanh biết mấy". Lúc sinh thời Lor-ca đã viết trong bài "ghi nhớ": "bao giờ tôi chết hãy chôn tôi giữa những cây cam và cây bạc hà tốt lành" Vậy phải chăng màu lá xanh chính là màu của sự sống bất tận. Cái chết của Lor-ca còn tạo một phản ứng dây chuyền, từ âm thanh trở thành màu sắc, từ âm thanh trở thành hình khối "tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan" và cuối cùng thành sự chuyển động "tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy" Việc kết hợp các danh từ liên kết tiếp bên cạnh nhau qua thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã có khả năng diễn tả cái chết đầy bi tráng của Lor-ca. Mặc dù bị bọn phát xít Frăng có giết hại một cách tàn nhẫn nhưng khi ngã xuống trên quê hương Tây Ban Nha, Lor-ca vẫn hướng về con người, quê hương, tình yêu, sự sống và khát vọng tự do. Điều đó chứng tỏ, bọn phát xít có thể giết chết được Lor-ca những không thể giết chết được tình yêu quê hương xứ sở, tình yêu đối với con người và sự sống của chàng. Và chúng càng không thể tiêu diệt được khát vọng tự do công lí và nghệ thuật của Lor-ca. Vì thế tiếng đàn ròng ròng máu chảy vỡ ra như nước mắt khóc thương người nghệ sĩ thiên tài. Như vậy cái chết của Lor-ca từ sự bi thảm đã được nâng lên từ màu sắc trữ tình và bi tráng. c. Niềm sót thương Lor-ca khi những tiếng đàn không được ai tiếp tục. "không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng" - Để diễn tả niềm xót thương Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng nghệ thuật so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang. Nói tới tiếng đàn là nói đến nghệ thuật Lor- ca, cỏ mọc hoang tượng trưng cho sự sống mãnh liệt và bất diệt. Thủ pháp nghệ thuật so sánh đã diễn tả sâu sắc niềm sót thương trước cái chết của Lor-ca. Sự ra đi của Lor-ca là một tổn thất lớn đối với quá trình cách tân nghệ thuật của đất Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại nước Tây Ban Nha. Khi Lor-ca ra đi quá trình cách tân nghệ thuật ấy đã trở thành dang dở, nền nghệ thuật của Tây Ban Nha đã trở nên loạn nhịp vì thiếu một người nhạc trưởng chỉ huy, dẫn đầu. Vì vậy nghệ thuật của Tây Ban Nha sẽ ra sao. Sự ra đi của Lor-ca để lại một niềm tiếc thương vô bờ bến bởi khi còn sống Lor-ca đã viết: "khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn". Cây đàn là sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của Tây Ban Nha vì thế cây đàn còn có tên gọi khác là Tây Ban Nha cầm. Biết bao thế hệ người dân Tây Ban Nha đã sống và chết với cây đàn ấy. Lor-ca cũng tha thiết yêu quê hương xứ sở, chàng cũng muốn được chôn cùng cây đàn ghi ta để khi về còn lặng yêu chàng vẫn được hát những giai điệu dân ca của dân tộc mình. Nhưng khi Lor-ca bị giết chết, sự thực là chàng đã không được chôn cùng với cây đàn. Điều đó có nghĩa người ta đã không hiểu được tình yêu quê hương xứ sở của chàng. Với người nghệ sĩ đây là một nỗi đau lớn. Hơn nữa Lor-ca là một người nghệ sĩ thiên tài, là con chim họa mi của xứ sở Tây Ban Nha vì thế Lor-ca muốn người dân Tây Ban Nha hãy chôn vùi tên tuổi của Lor-ca, chôn vùi những khám phá, sáng tạo nghệ thuật của ông để sáng tạo ra một nền nghệ thuật thực sự và vượt lên trên tên tuổi của Lor-ca. Nhưng rất tiếc người ta cũng không hiểu di nguyện của chàng. Vì quá ngưỡng mộ Lor-ca người ta đã đặt chàng lên bệ thờ tên tuổi và sự nghiệp của Lor-ca đã trở thành vật cản đối với những cách tân khám phá sáng tạo của người đời sau. Đó là nỗi đau lớn nhất của người nghệ sĩ chân chính. - Hai câu thơ sau nhà thơ Thanh Thảo đã cụ thể hóa niềm xót thương Lor-ca: "giọt nước mắt vầng trăng long lanh trong đáy giếng" Câu thơ có sự giao hòa của ánh sáng và màu sắc gợi lên suy tư và liên tưởng nhiều chiều. Có thể hiểu vầng trăng sáng lung linh là giọt nước mắt khổng lồ và giọt nước mắt ấy long lanh tựa như trăng ở đáy giếng. Ta đã từng gặp cách liên tưởng này trong "Nguyệt cầm" của Xuân Diệu. "Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần Đàn buồn đàn lặng ôi đàn chậm Môi giọt nơi tàn như lệ ngân." Trong "Nguyệt cầm" Xuân Diệu" đã vận dụng thuyết tương giao của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực để cảm nhận sự giao hòa của thiên nhiên mà ở đó trăng hóa thành đàn, ánh sáng của trăng thành sợi dây đàn và giọt âm thanh cũng đồng thời là giọt ánh sáng và giọt lệ. Sự cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu về sự tương giao của vạn vật trong trời đất nhằm diễn tả sự cô đơn đến rợn ngợp trong tâm hồn người nghệ sĩ. Còn Thanh Thảo lại cảm nhận sự tương giao màu sắc và ánh sáng để làm nổi bật lên sự xót thương. Vì thế trước cái chết của người nghệ sĩ thiên tài, ánh trăng đã hóa thánh nước mắt. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Tuy nhiên câu thơ cũng có thể hiểu theo cách thứ hai: ánh sáng của trăng chiếu xuống nơi đáy giếng tạo nên một vẻ đẹp lung linh với niềm xót thương cho cái chết của người nghệ sĩ thiên tài. Thanh Thảo đã tưởng tượng làn nước ấy là những giọt nước mắt mà người đời đã khóc thương Lor-ca. Dù hiểu theo cách nào người đọc có thể cảm nhận được cái chết của Lor-ca đã chạm thấu cả đất trời, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho thiên nhiên, con người, sự sống và niềm tiếc thương ấy là vĩnh cửu. d. Suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca. "đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc" Cái chết của Lor-ca để lại một niềm thương tiếc nhưng với Lor-ca đó lại là một sự giải thoát. Thanh Thảo đã suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng yếu tố có tính chất tâm linh để chỉ số phận và cái chết bi thảm của Lor-ca "đường chỉ tay đã đứt". Đường chỉ tay là đường sinh mệnh của con người nhưng đường chỉ tay đã đứt diễn tả số mệnh của Lor-ca vô cùng ngắn ngủi trong dòng sông cuộc đời bao la. Lor-ca đã ra đi rất thanh thản: "Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc" lần thứ hai tên Lor-ca lại xuất hiện nhưng không phải trong đời thường mà trong thế giới siêu thực. Để tên Lor-ca xuất hiện lần này nhà thơ muốn khẳng định rằng thế lực bạo tàn không thể tiêu diệt được anh. Câu thơ có sự xuất hiện của chủ thể nhưng hình tượng Lor-ca bắt đầu nhòe và mờ dần. Nhà thơ ảo hóa hình tượng nhân vật để khẳng định sự bất tử của Lor-ca. Ta có thể hình dung Lor-ca hiện ra trên chiếc ghi ta lấp lánh sắc bạc của tình yêu đã hòa quyện làm nên sắc thái đa dạng tâm hồn. Những thế lực bạo tàn đã giết chết Lor-ca, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do công lí, cho sự cách tân nghệ thuật nhưng không một thế lực bạo tàn nào có thể tiêu diệt được tiếng đàn Lor-ca. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng Lor-ca đã: "ném lá bùa cô gái Di-gan vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt" Lá bùa của cô gái Di-gan cho chàng để làm vật hộ mệnh nhưng bây giờ "đường chỉ tay đã đứt" lá bùa đâu còn ý nghĩa gì. Chàng ném cả trái tim mình vào lặng yên bất chợt. Những câu thơ siêu thực ấy diễn tả sự ra đi dứt khoát dã từ của Lor-ca. Chàng muốn tự mình giải thoát khỏi những hệ lụy của trần gian để về với cõi vĩnh hằng. Nhưng tiếng đàn ghi ta bất chợt lại ngân lên "li la li la li la". Tiếng đàn ấy đã hòa nhập với non sông đất nước Tây Ban Nha, vượt qua biên giới và vang vọng trong tim mọi người. Thanh Thảo đã nhiều lần viết về tình yêu cái chết và sự bất tử. Thật đặc sắc qua âm thanh và giai điệu của tiếng đàn: Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại "anh rung giữa những sợi dây đàn giữa những dây đàn dòng sông bỗng chảy xiết và cô gái hiện lên đột ngột cuốn ta về dòng sông." (Những người đi tới biển) Một lần nữa dư âm của tiếng đàn ghi ta kéo dài sự sống của Lor-ca. Bài thơ khép lại bằng những âm vô nghĩa nhưng chiếm một dòng thơ. Đây là khổ thơ duy nhất chỉ có một dòng: "li la li la li la" đưa Lor-ca vào cõi yên lặng vĩnh hằng. 5.3. Đánh giá. Như vậy qua tác phẩm "Đàn ghi ta của Lor-ca" nhà thơ Thanh Thảo đã xây dưng rất thành công hình tượng Lor-ca , một người nghệ sĩ mang khát vọng đổi mới, cách tân nghệ thuật. Một người chiến sĩ khao khát đấu tranh cho tự do công lí nhưng cuộc đời đầy ngang trái bi phẫn. Đó là cuộc đời của con người "nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương". Cái chết của Lor-ca là một tổn thất lớn với nền nghệ thuật của Tây Ban Nha và để lại niềm tiếc thương muôn đời cho hậu thế. Tuy nhiên người nghệ sĩ ấy sẽ mãi mãi bất tử với những âm thanh giai điệu của tiếng đàn ghi ta. - Để xây dưng thành công hình tượng Lor-ca Thanh Thảo đã sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng siêu thực gợi chiều sâu của suy tư liên tưởng. Đồng thời đó cũng là những thi liệu rất ám ảnh trong thế giới nghệ thuật của chính Lor-ca như đàn ghi ta, bài ca mộng du, con ngựa đen,vầng trăng đỏ, chàng kị sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di-gan, lá bùa hộ mệnh, hoa từ đinh hương. Chính những thi liệu ấy đã tạo nên tính chân thật của Lor-ca. + Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu dòng tạo mạch thơ liên tục xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng đầy sức ám ảnh. + Bài thơ còn có sự kết hợp giữa chất tự sự và chất nhạc. Có thể xem bài thơ như một câu chuyện kể về cuộc đời của một con người. Câu chuyện ấy được kể trên cái nền của âm nhạc. Vì thế có thể xem bài thơ như một bản giao hưởng bi hùng. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ I.Khái quát về tác phẩm 1. Người lái đò sông Đà là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà năm 1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tác phẩm đã thể hiện nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. 2. II. Tìm hiểu đoạn trích. 1. Phân tích hình tượng dòng sông Đà. Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, trong tùy bút Người lái đò sông Đà, dòng sông Đà đã hiện lên như một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa với hai ấn tượng sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng, trữ tình. 1.1. Dòng sông hung bạo. Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao, rừng thiêng, với gió bão và thách ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân tung hoành sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ. Nhà văn tài hoa đã khiến ngôn từ dựng lên ghềnh thác, khiến nhịp điệu tạo thành sóng gió, dùng những thao tác so sánh, nhân hóa dẫn dắt người đọc tới trùng điệp những hình dung, liên tưởng khiến cho sự hung bạo của sông Đà hiện lên đặc biệt sống động và truyền cảm. 1.1.1. Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ sông Đà chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá, như chi tiết mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách Độ hẹp của lòng sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn ép tới nghẹt thở còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động từ chẹt trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng về cái yết hầu: vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản cảu xúc giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi ra vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành. Những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với cấu trúc trùng điệp của kiểu ngôn từ không xác định như nào, mấy trong so sánh về một khung cửa sổ trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt điện đã làm tăng thêm cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với rợn ngợp của người quan sát. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại 1.1.2. Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng. Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc, những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong cụm từ ngữ hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác; kết cấu ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, trùng điệp ghê rợn trên măt ghềnh. Từ láy gùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như đòi nợ xúyt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. 1.1.3. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh những cái hút nước trên sông. Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra trong hình ảnh cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh ghê sợ của cửa cống cái bị sặc , hoặc trong cả hình ảnh và âm thanh khi tưởng tượng ra mặt nước đang bị rót dầu sôi – đó là những hình ảnh và âm thanh cho thấy cả sức mạnh và sự hung bảo của hút nước. Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái , tất cả đều góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người. Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi truyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn đã phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hùng dung ra những bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới - đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm vè những sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Không dừng lại trong hình dung, tưởng tượng về những cái bè hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, nhà văn còn tạo ra tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông nước xanh ve, thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan và bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp vào người. 1.1.4. Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người phải là thác đá sông Đà. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại a) Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người: khi oán trách van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo khi rống lên Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá sông Đà; mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy hứng thú cho người đọc. Đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng nhà văn đã thể hiện tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông Qua so sánh, tiếng thác đá sông Đà được hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa, cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác, xúc giác. b) Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: Tới cái thác rồi!, nhà văn đã đồng tời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh: sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời vách đá. Tính từ trắng xóa lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh chân trời đá, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật như thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng tiền vệ, boong ke, pháo đài , một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa đặt trong những nhịp câu ngắn, nhanh, dồn đập: mặt sông rung tít, nước thác reo hò hò là ùa vào bẻ gãy thúc gối đội thuyền đánh miếng đòn độc hiểm bám lấy thuyền dánh khúyp quật vu hồi khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm hơn bởi những âm thanh cuồng loạn của một trận nước vang trời thanh la não bạt Có lúc thác đá còn được động vật háo để tăng thêm sự hung hãn hoang dại như trong hình ảnh: dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại mạnh trên sông đá. Thậm chí sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông thần đá. Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và góc nhìn của nhà văn mà đã sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì ngỗ ngược nhăn nhúm méo mó bởi sự gồ ghề; lúc to lớn qua một dáng vẻ bệ vệ oai phong lẫm liệt; khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự xấc xược trong cái hất hàm thách thức; lúc khác lại là tảng đá lớn nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh nhân hóa về thằng đá tướng tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ thuyền đối phương, khi dàn sắn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn, vòng ba bên phải, bên trái đều là luồng chết luồng sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhất là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng gió, với nước thác, đá sông Đà không im lìm và bất động như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà thét gào sống động; không vô tri mà ác hiểm, dữ dằn, đá sông Đà đã không chỉ lộ diện mạo mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người. 1.1.5. Tuy nhiên, ngay khi miêu tả một sông Đà hung bạo, hiểm ác, làm hiện lên tất cả diện mạo và tâm của địa của kẻ thù số một của con người, nhà văn của những cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh phi thường tuyệt mĩ, những gió bão, thách ghềnh dữ dội, những núi cao, vực sâu vẫn luôn truyền cho người đọc niềm say mê khao khát muốn được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên. Khi miêu tả sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân không giấu được niềm say mê, phấn khích đối với những hình ảnh, âm thanh, hay những hoạt động của dòng sông. Nhà văn đã say sưa trước khúc tráng ca mãnh liệt của hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè , là âm thanh man dại tới cuồng loạn của nước thác trong sự so sánh với lửa, với rừng, với đàn trâu da cháy bùng bùng, đó cũng là sự hùng vĩ mênh mông của thác đá sông Đà với sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá , là sự ghê rợn sảng khoái của một trân nước vang trời thanh la não bạt tất cả đã tạo thành một tập hợp hoành tráng của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có sức hấp dẫn kì lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê. Thậm chí khi miêu tả dòng sông Đà ở khúc hạ lưu êm ả, câu văn của Nguyễn Tuân vẫn bâng khuâng trong cảm giác dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Từ láy xa xôi gợi nỗi tiếc, nhớ nhung của chính nhà văn với khúc thượng nguồn với những sức mạnh hoang dại, với những cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội hào hùng. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức uyên bác, nhà văn của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội, phi thường đã làm hiện lên hình ảnh dòng sông Đà hung bạo, hiểm ác không chỉ như một con thủy quái, kẻ thù số một của con người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa, khơi gợi cảm giác hãi hùng đầy ngưỡng mộ, mê đắm. 1.2. Dòng sông trữ tình. Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn xèo xèo tan trên cát, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích. 1.2.1. Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài Vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Khi so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình, nhà văn đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của dòng sông. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc đời thường của những người lao động bình thường. 1.2.2. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến ảo khi vì niềm yêu và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại dòng sông một cách công phu và tinh tế trong những thời điểm khác nhau, với những sắc thái khác nhau. Đó là dòng xanh ngọc bích trong sáng, qúy giá và êm nhẹ của sông Đà mùa xuân; việc so sánh màu xanh bích ngọc của sông Đà với màu xanh cách hến của sông Gâm, sông Lô không chỉ là biểu hiện khá quen thuộc của một nhà văn thì tài, thích khoe tài hoa, khoe uyên bác mà còn là sự thiên vị của một niềm yêu! Đó còn là dòng sông Đà lừ lừ chính đỏ vào mùa thu – những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điệm dạm và chậm rãi của con sông đầy nặng phù sa thượng nguồn. Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn năm năm báo oán, đời đời đánh ghen với con người. Vậy là, ngay khi dừng lại miêu tả thơ mộng, trữ tình của dòng sông, hình ảnh của một dòng sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh. 1.2.3. Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà gợi cảm như một cố nhân. Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho những bồn chồn, khát khao, vồ vập Đó là tình huống đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng, thèm một không gian phóng khoáng mênh mông, và nhất là thèm được gặp lại sông Đà – cố nhân! Hai chữ cố nhân vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa cũ của Đường thi. Đoạn văn sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc miêu tả dòng sông Đà gợi cảm thông qua việc bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng sông thấy loáng loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy là cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống như cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi, Nguyễn Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là thiên cổ lệ cú của Lí Bạch: “Yên hóa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn làm xao xuyến những tâm hồn luôn nhớ phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian mà như còn trôi chảy trong dòng thời gian miên viễn, xa xăm của thế giới Đường thi. Sau đó là một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại bướm trên Sông Đà.” Hai chữ Sông Đà điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, thậm chí không kịp bình tĩnh để quan sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi theo những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn đi theo những khao khát, say mê Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi! Trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể thấy hình ảnh sông Đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn qua so sánh trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm. Nắng tuy hữu hình nhưng lại vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt. Giòn tan lại là tính từ dùng để chỉ đặc điểm của những vật thể mỏng manh, dễ vỡ. Nắng giòn tan là một ẩn dụ đẹp để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa qúy giá, nó hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm; cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông. Sông Đà càng qúy giá hơn với nhà văn khi ông so sánh niềm vui tái ngộ với dòng sông cố nhân như niềm vui khi nối lại chiêm bao đứt quãng – một việc gần như không thể có trong đời người. Và sự nối lại giấc mơ càng hi hữu hiếm qúy bao nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao xê dịch đã sung sướng thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao xê dịch đã nhiều lần tới sông Đà, và bất cứ lúc nào, nếu muốn, ông cũng có thể tới với cố nhân của mình; vậy mà qua so sánh, có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới, kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, như vừa được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần gặp nào cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất. Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm bắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao hẹn hò chung thủy trong tương lai, với sự gợi cảm của mình, sông Đà đã thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân, dẫu trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn, mê hoặc lòng người đến kì lạ. 1.2.4. Và có lẽ nét trữ tình thi vị nhất của sông Đà chính là ở sắc thái lặng tờ hoang dại của nó. Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng: Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người. Tính từ Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại lặng tờ lặp lại tới hai lần cùng câu văn mang y nghĩa khẳng định: Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi khiến cho sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà như còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Tính chất ước lệ của cụm từ đời Lí đời Trần đời Lê đưa đến cảm giác cuộc sống như ngưng lại nơi đây, để bờ bãi sông Đà cũng ngưng lại trong một không gian nguyên sơ, thuần khiết, an lành , một không gian nằm ngoài sự trôi chảy vận động, đổi thay của cuộc sống văn minh. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo: bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoạc của tuổi thơ, và chính trong thế giới ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng lờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm. Sự yên ả êm đềm đến mức mơ hồ của sông Đà khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm hơn bởi những hình ảnh thật mong manh, nhỏ bé, những hình ảnh chỉ có thể nhận ra trong một không gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết với mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú, mấy nõn búp cỏ gianh đẫm sương đêm và nhất là được gợi tả qua âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiếng cá dầm xanh quẫy nước Đặc biệt nhất là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, cất tiếng hỏi nhà văn bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác như nhà văn bước lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, và không có thực của thế giới cổ tích. Ảo giác mãnh liệt đến mức nhà bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa, niềm khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hóa miền Tây Bắc mà còn là cách để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người trong nền văn minh hiện đại. Không một sự miêu tả trực tiếp nào khiến sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như trong lời ao ước của Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông rất đỗi êm đềm. 1.2.5. Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn đã trực tiếp xuất hiện qua lời kể hào hứng: tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu ; trong những lời cảm thán nồng nàn: Chao ôi, trông con sông vui như ; chao ôi, thấy thèm được giật mình Vậy là bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và uyên bác còn có một Nguyễn Tuân đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung như một tình nhân, như một cố nhân ; khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại sông Đà, bãi sông Đà, khi lại say đắm muốn tan hòa vào thế giới êm đềm bát ngát của dòng sông; và nhất là luôn lai láng niềm mong ước của một thi nhân muốn được đề thơ vào sông ngước. Với việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh , với lối hành văn đầy biến hóa, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả hoặc bộc lộ cảm xúc, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng dòng sông Đà trong hai sắc thái: hung bạo và trữ tình. Ông đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa, uyên bác khi miêu tả dòng sông, trong cách tô đậm những sắc thái phi thường tuyệt mĩ trong việc soi chiếu dòng sông từ góc độ văn hóa, thẩm mĩ, và nhất là trong cách khắc họa dòng sông Đà như một công trình mĩ thuật kì vĩ tuyệt vời của tạo hóa, để từ đó người đọc nhận ra tình yêu say đắm của nhà văn với quê hương, đất nước. 2. Hình tượng người lái đò sông Đà. Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con người đặc tuyển, xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu XX, đó là những vẻ đẹp vang bóng một thời thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc. Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng tác sau 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến đối với họ. Người lái đò sông Đà trong tùy bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn trí dũng. 2.1. Lai lịch và ngoại hình người lái đò. Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão : Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn 2.2. Bối cảnh cho ông đò xuất hiện. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Ngay khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã có y thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào với hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió , một không gian của những hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách thành bí ẩn thâm nghiêm. 2.3. Tình huống bộc lộ vẻ đẹp tài hoa trí dũng của con người. Và để khắc họa vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng ngoan cường, đó cũng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng vi thạch trân của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiến thuyền then đuôi én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc. Đối thủ ghê gớm của ông đò trong cuộc vượt thác là cả một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn. Những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như dàn sẵn trận địa dụ thuyền đối phương đánh khúyp quật vu hồi đã nhân cách hóa dòng sông khiến cho thiên nhiên sông Đà với sóng dữ, thác dữ, đá dữ trở nên hung hãn, hiểm ác như một thứ kẻ thù số một của con người. Tác giả còn sử dụng một loạt các từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông Đà khi thì ngỗ ngược, nhăm nhúm, méo mó, xấc xược thách thức, khi tiu nghỉu cái mặt xanh Lỡ một loạt những động từ đặt trong các nhịp câu ngắt ngắt, nhanh, dồn dập: nước thác reo hò hò la ùa vào bẻ gẫy đá trái thúc gối đội thuyền bám lấy thuyền , rồi sử dụng cấu trúc điệp để tả nước xô đá, đá xô sóng hay sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tủa, đánh đòn âm - tất cả đã làm hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông Đà khi cùng một lúc các sức mạnh thiên nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và con người nhỏ bé. Thiên nhiên sông Đà còn vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để đưa con thuyền vượt thác sông Đà khúc thượng nguồn, những người lái đò phải đối đầu với cả một trùng vi thạch trận trên dòng dông, trong đó, vòng đầu, mở ra năm cửa cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn vòng hai tăng thêm nhiều cửa tử cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết luồn sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi người lái đò luôn phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông. 2.4. Vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò trong trận thủy chiến với sóng thác sông Đà. 2.3.1. Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận, khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt méo bệch đi – cách sử dụng từ độc đáo đã giúp nhà văn làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thì giác và xúc giác : mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng – đây vẫn là cách miêu tả thông qua cảm giác quen thuộc của Nguyễn Tuân – vết thương đau đớn của ông đò đã dược thể hiện bởi cảm giác tóe đom đóm và rát bỏng như lửa cháy. Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Đà. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò. 2.3.2. Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã thuộc quy định của dòng sông, thác đá Ông được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà khi nắm chắc bờm sóng ghì cương phóng nhanh vào cửa sinh; kinh nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết ông nhớ mặt từng đứa trong bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước để có cách ứng phó phù hợp. Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi cho thấy những biện pháp kì diều của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài hoa con người thậm chí đã chiến thắng cả thần sông thần đá. 2.3.3. Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cách mở cách khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảng khắc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm: vút vút , qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi với cách so sánh về một mũi tên tre xuyên qua hơi nước, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại 2.5.Những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị. Giỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh khắc; khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bịn dịn khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày. III. Kết luận: Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn quan sát, khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách ấy, tác phẩm đã thực sự thành công khi phát hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng nười qúy giá trong tâm hồn, tính cách những người lao động bình dị miền Tây Bắc. Tùy bút Người lái đò sông Đà đã trở thành một thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Với quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tích cực của Nguyễn Tuân, người lái đò nơi thượng nguồn Tây Bắc thực sự là một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng sông nước khi hàng ngày phải chiến đấu và luôn phải chiến thắng thiên nhiên bằng trí tuệ, sự khéo léo, sức mạnh và lòng can đảm của mình. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG 2.2.1. Hình tượng sông Hương a. Sông Hương ở thượng lưu a1. Sông Hương - “bản trường ca của rừng già” Thủy trình của Hương giang bắt đầu từ thượng lưu – nơi mà sông Hương, trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Thật vậy, ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông mang vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Những động từ mạnh, những cấu trúc giống nhau được điệp lại liên tiếp đã khiến cho con sông hiển hiện như một khúc ca dài bất tận của thiên nhiên. Nhưng trường ca đâu chỉ có sức mạnh mà trong bản chất của mình nó còn mang chứa yếu tố trữ tình bay bổng. Quả đúng thế, con sông Hương, sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, đã trở nên “dịu dàng”, đằm thắm có thể làm “say đắm" bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó“giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. a2. Sông Hương - "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại" Không phải là trường ca của “những người đi tới biển”, cũng không giống trường ca “mặt đường khát vọng” của tuổi trẻ đô thị miền Nam những đánh Mỹ, sông Hương là bản “trường ca của rừng già”. Vẻ nguyên sơ, hoang dã, thâm nghiêm của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Những cô gái Bô- hêmiêng từ lâu vẫn được biết đến là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Đó là những thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp của “một tâm hồn tự do và trong sáng”. a3. Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” Không chỉ giúp cho bạn đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại nhưng cũng đầy chất thơ của sông Hương, nhà văn còn muốn đem đến một cái nhìn sâu hơn, muốn "ghi công" sông Hương như một "đấng sáng tạo" đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp bên ngoài của nó mà hầu như không biết rằng con sông còn là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa - văn hóa Huế. Sẽ là không quá nếu ai đó cho rằng : không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. Bởi từng ngày từng giờ, sông Hương vươn mình chảy ra cửa Thuận thì cũng từng ngày từng giờ dòng sông đem Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại đến, duy trì và bồi đắp “phù sa” cho cả một vùng văn hóa đã được hình thành ở trên và hai bên bờ sông. Ấy thế nhưng, “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” cái công lao to lớn ấy. Nó đã âm thầm chảy và đã lặng lẽ cống hiến cho Huế nhiều thế kỉ qua. Đây chính là chiều sâu vẻ đẹp và “nhân cách” của dòng sông, là nét “tính cách” đáng trân trọng của Hương giang mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn khắc họa. b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế Sau cái khởi nguồn ở vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vả của mình để đến với Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp để lại những dấu ấn riêng của mình. b1. Sông Hương – người gái đẹp của cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại Vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ. Bằng nghệ thuật so sánh, nhà văn đã ví sông Hương như "người gái đẹp đang ngủ mơ màng thì được người bạn tình mong đợi đến đánh thức”. Với lối so sánh ấy, dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên cơ thể của một người thiếu nữ đương thì xuân sắc : “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Về mặt địa lý, hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình ấy, con sông lại như có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại sững như thành quách”. Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng. Nhờ đó mà hành trình về xuôi của dòng sông không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó luôn luôn biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến bất ngờ, khoái cảm khác. Có những câu văn giàu chất họa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế (“vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc”). Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc rất thích : “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”. Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nó khiến cho cảm nhận về con sông như người con gái đẹp càng trở nên rõ nét và gợi cảm : sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” trước khi “xuôi dần về Huế”; sông Hương như con người biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi : “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”; sông Hương như “tấm lụa” mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu. b2. Sông Hương – vẻ đẹp “trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi” Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế, đến đây, như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch". Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bổng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái "triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay. Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng ống kính máy quay” ra không gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là không gian văn hóa Huế thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn : "Sông Hương trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành phố : sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Vậy là, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Huế và chính nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và không còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. Sông Hương chính là “trung tâm cảnh”, là linh hồn của thiên nhiên cảnh vật. c. Sông Hương giữa lòng thành phố Huế Cuối cùng, sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được "thành phố tương lai" mà nó mong đợi : thành phố Huế. Có lẽ vì thế mà con sông "tươi vui hẳn lên". Như đã tìm đúng đường đi, sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những "thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long" để rồi "giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình “chào” Huế : " sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại c1. Sông Hương - "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh". Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Pêtécbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức "không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với ngưòi bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo". Tuy nhiên, tất cả sự lý giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề mà nhà văn đã khái quát về sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố : “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hêraclít - nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh "khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ “trái tim” : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ ? Có lẽ là cả hai ! c.2. Sông Hương – “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì Bà hành, Bạch Cư Dị đã từng viết : Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt Một vầng trăng trong vắt lòng sông Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều : Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như tiếng suối mới sa nửa vời Dẫn ra câu chuyện về một ngưòi nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: "Tứ đại cảnh" (một điệu nhạc Huế), Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của Sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới. c.3. Sông Hương – người tình dịu dàng và chung thủy Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở đất nước ta (hầu hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong. Qua những cảm nhận nêu trên về sông Hương, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương. d. Sông Hương - dòng sông của lịch sử và thi ca d.1. Sông Hương - bản hùng ca ghi dấu các chiến công oanh liệt của dân tộc Ở góc nhìn lịch sử, sông Hương gắn liền với những thế kỉ vinh quang của Đất Nước từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương được biết đến với tư cách là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Tiếp nối truyền thống đó, con sông “vẻ vang soi kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa”. Thế kỷ XX, sông Hương “đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển” để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. d.2. Sông Hương - vẻ đẹp giản dị của một người con gái dịu dàng của đất nước Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Điều làm nên vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến của con sông là khi nghe lời gọi của Tổ quốc “nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” nhưng khi “trở về với cuộc sống bình thường” sông Hương tự nguyện “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Những đổi thay này của sông Hương ngỡ bất ngờ mà không hề bất ngờ bởi nó đã mang cái dáng dấp, cái vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua : Đạp quân thù xuống đất đen Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa (Nguyễn Đình Thi) Lịch sử - hùng tráng và đời thường - giản dị, sông Hương đã tự biết thích ứng với từng hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Điều đó không chỉ khiến cho dòng sông luôn trở nên mới mẻ trong cảm nhận của con người mà còn có thêm những vẻ đẹp mới. d.3. Sông Hương – dòng sông thi ca Với vẻ đẹp độc đáo và đa dạng, lại không bao giờ tự lặp lại mình nên sông Hương luôn có những vẻ đẹp mới, có khả năng khơi những nguồn cảm hứng mới cho các văn nghệ sĩ đặc biệt là các nhà thơ. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì cảm nhận về sông Hương như dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng : “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng: “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm: “Con sông đám cưới Huyền Trân. Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn. Hèn chi thơm thảo nỗi buồn. Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ. Con sông nửa thực nửa mơ. Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”. Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nhưng phải gần đến kết thúc, đến những dòng cuối cùng của bài bút kí nhà văn mới đưa ra câu trả lời cho nó. Có nhiều cách để trả lời câu hỏi trên nhưng nhà văn đã chọn cho mình một “đáp án” đầy chất trữ tình : "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Tuy nhiên, nếu đọc kĩ thì ta sẽ thấy câu hỏi ấy thực ra đã được trả lời ngay từ những dòng đầu tiên và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện cho đến dòng cuối cùng của bài kí. Nói cách khác, chính thiên nhiên hoang dại và trữ tình “đã đặt tên cho dòng sông”; chính lịch sử hào hùng và truyền thống văn hóa đậm bản sắc của xứ Huế “đã đặt tên cho dòng sông”; và chính con người với tình yêu thiết tha của mình dành cho con sông quê hương đã góp phần tạo nên “tên tuổi” của nó. Tóm lại, nếu xem sông Hương là một công trình nghệ thuật tuyệt tác mà tạo hoá đã dày công tạo dựng thì cũng có thể coi hình tượng sông Hương trong bài bút kí này là một tượng đài nghệ thuật diệu kỳ mà người nghệ sĩ ngôn từ đã dành tất cả tâm huyết và tinh huyết của mình để “chạm khắc”. Có thể nói, sông Hương đã được sinh ra một lần nữa trong tình yêu và sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi bỗng nhớ câu nói của một triết gia phương Tây : Mọi thứ trên đời đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ lớp bụi của mình lên vạn vật để làm mờ tất cả. Nhưng thời gian lại sợ những vĩ nhân bởi chỉ có các vĩ nhân là tồn tại vĩnh hằng. Dù biết rằng “mọi sự so sánh là khập khiễng”, tôi vẫn cứ nghĩ : con sông Hương thơ mộng của xứ Huế và đất nước Việt Nam, con sông Hương của văn học nghệ thuật trong bài ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ trường tồn với thời gian, nhịp bước cùng năm tháng./. 2.2.2. Hình tượng nhân vật “tôi” Ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin văn hóa mới mẻ mà còn tùy thuộc vào sự cuốn hút, cái “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình như một Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Đó là người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái tôi đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm. a) Một cái tôi mê đắm và tài hoa Ấn tượng đầu tiên về cái tôi trữ tình Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ là ở sự mê đắm và tài hoa khi viết về con sông Hương của xứ Huế. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? nhà văn đã dành nhiều tâm trí, tình cảm, tài năng của mình để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Thật vậy, trên mỗi chặng hành trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, con sông đều hiện lên với một vẻ đẹp khác nhau. Ở thượng nguồn, sông Hương không chỉ được hình dung như “bản trường ca của rừng già” – một khúc ca dài hùng tráng và lãng mạn của đại ngàn thiên nhiên hùng vĩ mà còn mang dáng dấp của một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Đến khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông lại giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương, sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Và trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương cứ như thể là nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa Đấy là góc nhìn địa lý. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Đó là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn là một dòng chảy địa lý thuần túy mà nó giống như một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại khổ mà hào hùng của dân tộc. Nó mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc của văn hóa Việt : Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa (Huy Cận) Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả. Nhưng tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài kí không chỉ thể hiện ở cách nhìn nhận và phát hiện về vẻ đẹp đáng yêu của dòng sông mà còn bộc lộ ở những suy cảm ấy đầy chất thơ với có sức cuốn hút lạ thường. Chẳng hạn như khi tác giả nhìn thấy sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình của Huế, với dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước in trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại Sẽ thật là thiếu sót nếu nói đến sự tài hoa của cái “tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường mà không nhắc đến vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là ngoại lệ. Sự tài hoa của cái “tôi” tác giả hiện hiện rõ trên từng câu chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc. Bên những đoạn văn như thế, ta không khó để bắt gặp trong thiên tùy bút này (mà ở đây mới chỉ là đoạn trích) những cách diễn đạt của một “phu chữ”, của người đã cất công lựa chọn trong cái vốn ngôn ngữ toàn dân những từ, ngữ hay nhất có thể, rồi tổ chức, sắp đặt chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay, những câu văn đẹp. Chẳng Vũ Văn Chiến Trang
- Tài liệu ôn luyện thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn Phần : Văn học Việt Nam hiện đại hạn: “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long [ ], nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Đó là chưa kể đến những ý văn đẹp như một ý thơ : “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”; “những vấn vương của một nỗi lòng”; “đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”; Có thể khẳng định đây không phải là lối diễn đạt thông thường của văn xuôi, nhất là ở thể kí mà là những kiểu chữ nghĩa thường thấy trong thơ ca, thậm chí còn thơ hơn nhiều bài thơ mà ta đã đọc đâu đó. Trong sự tài hoa của cái tôi nhà văn về ngôn ngữ, thiết tưởng cũng không nên bỏ qua các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng một cách thành công, ví như nhân hóa và so sánh. Bằng thủ pháp nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Con sông ấy lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; khi thì “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; khi là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” Không chỉ có thế, chính nhà văn trong bài kí này đã giãi tỏ trực tiếp về cái thủ pháp nhân hóa mà mình sử dụng – cái thủ pháp mà dường như ông không thể không dùng đến khi khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, thú vị của sông Hương : “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Có thể nói, thủ pháp nhân hóa đã được nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong bài kí. Nhờ nó mà hành trình về xuôi của sông Hương đã trở thành hành trình tâm hồn của người con gái tìm đến người tình mà nó mong đợi. Cũng nhờ thủ pháp ấy mà những kiến thức địa lý, lịch Vũ Văn Chiến Trang