Đề thi kiểm tra chuyên đề lần 4 môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)
Bạn đang xem tài liệu "Đề thi kiểm tra chuyên đề lần 4 môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_thi_kiem_tra_chuyen_de_lan_4_mon_ngu_van_lop_10_nam_hoc_2.doc
Nội dung text: Đề thi kiểm tra chuyên đề lần 4 môn Ngữ văn Lớp 10 - Năm học 2018-2019 - Trường THPT Liễn Sơn (Có đáp án)
- SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC ĐỀ THI KIỂM TRA CHUYÊN ĐỀ LẦN 4 TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN MÔN NGỮ VĂN LỚP 11. NĂM HỌC 2018 - 2019 (Đề thi gồm có 01 trang) (Thời gian làm bài: 90 phút, không kể thời gian giao đề) I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời. Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được ngoại ngữ! Một người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì. Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời. (Theo Ngữ văn 7, tập 2, tr.43, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015) Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên? Câu 2: Anh/ Chị hiểu như thế nào về quan niệm: "Một người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì"? Câu 3: Theo anh/chị, sai lầm đem đến những tổn thất và bài học gì cho đời? Câu 4: Anh/ Chị hãy rút ra thông điệp có ý nghĩa nhất trong đoạn trích trên. II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm) Viết 01 đoạn văn ngắn (khoảng 100 chữ) trình bày suy nghĩ về quan niệm của tác giả trong đoạn trích phần Đọc hiểu: "nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời". Câu 2 (5.0 điểm) Cảm nhận đoạn thơ dưới đây: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! (Trích Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, tr 23) Hết (Thí sinh không được giở tài liệu. Giám thị coi thi không giải thích gì thêm)
- SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC ĐÁP ÁN ĐỀ THI KIỂM TRA CHUYÊN ĐỀ LẦN 4 TRƯỜNG THPT LIỄN SƠN MÔN NGỮ VĂN LỚP 11. NĂM HỌC 2018 - 2019 (Đáp án gồm có 04 trang) (Thời gian làm bài: 90 phút, không kể thời gian giao đề) I. PHẦN ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm) Câu Nội dung Điểm 1 Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích: Nghị luận 0,5 2 - “Một người mà không chịu mất gì” nghĩa là không chấp nhận mất mát về 0,25 thời gian, công sức, tiền bạc, trí tuệ, - “thì sẽ không được gì” nghĩa là không đạt được thành công, không rút ra 0,25 được những bài học kinh nghiệm, không có sức mạnh, bản lĩnh, ý chí vươn lên, và không thể trưởng thành trong cuộc đời. 3 Sai lầm đem đến những tổn thất và bài học quý giá trong cuộc đời: - Sai lầm đem đến những tổn thất về cả vật chất, tinh thần (nỗi buồn, sự 0,5 chán nản, tuyệt vọng, ) - Sai lầm cũng đem đến những bài học kinh nghiệm, bài học về ý chí, nghị 0,5 lực; bài học về cách đối nhân xử thế, cách sống, cách làm người, 4 - HS có thể đưa ra thông điệp có ý nghĩa nhất như: Đừng sợ thất bại, sai 0,25 lầm, đừng sợ mọi thử thách, gian khổ, hãy bản lĩnh, tự tin đối mặt với mọi sóng gió để rèn luyện bản thân, - Lí giải được vì sao bản thân tâm đắc với thông điệp đó 0,75 II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm) * Yêu cầu về kĩ năng: - Biết cách viết đoạn văn nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí, vận dụng tốt các thao tác lập luận để giải quyết vấn đề một cách thuyết phục. - Đoạn văn có bố cục chặt chẽ, mạch lạc, hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng; hành văn trong sáng, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. * Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1 Giải thích 0,5 - Không phạm chút sai lầm nào là không mắc những sai trái, lầm lạc trong 0,25 nhận thức, suy nghĩ, hành động và không để lại những hậu quả đáng tiếc. - Ảo tưởng là không có thật, xa rời thực tiễn đời sống. Hèn nhát là không có 0,25 can đảm, dũng khí, sợ đối mặt với khó khăn, gian khổ, 2 Bình luận: Khẳng định quan điểm đúng đắn 1,25 a Tại sao Muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào là ảo tưởng: - Cuộc đời vốn không bằng phẳng, dễ dàng; con người thường xuyên phải 0,5 đối mặt với khó khăn, gian khổ; trong khi đó, năng lực của con người có giới
- hạn. - Sai lầm là một tất yếu không thể tránh khỏi. Chỉ có những kẻ ảo tưởng mới nghĩ rằng mình không mắc một sai lầm nào. b Tại sao Muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào là hèn nhát: - Khi con người sợ phạm sai lầm thì sẽ không dám xông pha, mạo hiểm, 0,5 không có ý chí phấn đấu, vươn lên, sống thu mình trong vỏ bọc bình yên, cách xa với thế giới bên ngoài. Những kẻ đó sẽ dần dần tự đánh mất ý chí, nghị lực, dũng khí, trở thành kẻ hèn nhát trong cuộc đời. - Phê phán: Những kẻ hèn nhát, sợ đối mặt với khó khăn, gian khổ, ảo 0,25 tưởng, viển vông, xa rời thực tế. 3 Bài học nhận thức và hành động 0,25 Nhận thức được tính chất hai mặt của sai lầm; luôn tự tin, dũng cảm, dám trải nghiệm, dám dấn thân trên con đường đi đến thành công. Lưu ý: Nếu không viết đúng hình thức đoạn văn thì trừ 0,5 điểm Câu 2 (5,0 điểm) * Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài nghị luận văn học. Bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, không mắc lỗi chính tả, diễn đạt, trình bày, * Yêu cầu kiến thức: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1 Vài nét về tác giả, tác phẩm và nêu vấn đề nghị luận 0,25 2 Thân bài 2.1 Khái quát chung về bài thơ và đoạn thơ trước đó 0,25 - Bài thơ “Vội vàng” nằm trong tập “Thơ thơ”, xuất bản năm 1938, là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. - Mở đầu bài thơ là những biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến si mê, ngây ngất của nhà thơ (11 câu đầu). - Tiếp đến, lại là những băn khoăn, lo lắng của nhà thơ khi ông cảm thấy cuộc đời mình ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh (18 câu tiếp theo). - Đoạn thơ cuối tập trung thể hiện niềm khao khát sống cao độ, mãnh liệt để tận hưởng mọi cái đẹp của cuộc sống trần thế. 2.2 Cảm nhận đoạn thơ a Về nội dung: 2,25 - Đoạn thơ bộc lộ tình yêu cuộc sống đắm say, cuồng nhiệt của nhà thơ; bộc lộ một quan niệm sống, triết lí sống mãnh liệt: sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. - Khát khát sống “vội vàng” để chạy đua với thời gian: Câu thơ bản lề để cho cao trào tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: "Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm". Đó là lời tự giục giã của nhà thơ. Chính vì "mùa chưa ngả chiều hôm" nên phải "mau đi thôi" để đến với cuộc sống đó, để “Ta muốn ôm”
- tất cả những gì có trong cuộc sống đó. - Đoạn trích thể hiện niềm khát khao tận hưởng cuộc sống thiết tha, mãnh liệt của Xuân Diệu: + Giục giã, thôi thúc, tăng tốc độ sống, sống nhanh, sống vội vàng để tận hưởng những vẻ đẹp cuộc sống khi mùa xuân chưa tàn phai. + Tăng cường độ sống: ôm, riết, say, thâu, cắn để tận hưởng tối đa tất cả vẻ đẹp của cuộc sống khi nó còn đang ở thời điểm tươi đẹp, quyến rũ nhất. - Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất: + Từ “ôm” đến “riết”, đến “say”, đến “thâu”, đến “cắn” + Từ rất nhiều sự vật, hiện tượng của cuộc sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng + Và rất nhiều cảm giác: chuếnh choáng, đã đầy, no nê + Diện tận hưởng rất rộng mà cường độ tận hưởng lại rất cao, rõ nhất là trong câu thơ cuối " - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!" - một tiếng nói thơ ca mới mẻ và táo bạo của "cái tôi - cảm xúc" Xuân Diệu. b Về nghệ thuật: 1,0 - Đoạn trích sử dụng hiệu quả thể thơ tự do khiến đoạn thơ thêm dồn dập, cảm xúc thơ dâng trào. - Sắp xếp ngôn từ: tạo nên những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào: + Dùng nhiều động từ chỉ hành động và chỉ cảm giác mạnh, ngày càng tăng tiến để bộc lộ cái cảm xúc bùng nổ của thi nhân: Ôm —> riết -> say -> thâu - > cắn; + Tính từ chỉ mức độ: Chuếnh choáng -> đã đầy -> no nê. + Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần) cho (3 lần) diễn tả tâm trạng vội vàng, cuống quýt, cuồng nhiệt, bộc lộ rõ với cái thần thái, sắc diện riêng của thi nhân, không thể lẫn được của Xuân Diệu. +. Các định ngữ đi kèm danh từ chỉ sự vật, hiện tượng: mây – đưa, gió – lượn, cỏ - rạng cho thấy sự vật, hiện tượng xuất hiện đầy ấn tượng, không mờ nhạt, tất cả đều đạt đến độ trọn vẹn, viên mãn thể hiện niềm khát khát khao yêu đời, yêu sống. - Nhịp thơ nhanh, sôi nổi, dồn dập như nhịp đập của trái tim góp phần thể hiện khát khao tận hưởng cuộc sống một cách mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 2.3 Đánh giá chung 0,5
- - Về nội dung: +. Đoạn thơ thể hiện quan niệm sống trong sáng, lành mạnh, tích cực. Với Xuân Diệu, sống vội vàng không chỉ là để tận hưởng mà còn là tận hiến hết mình cho cuộc sống. +. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã thể hiện cái tôi cá nhân đầy say mê, rạo rực. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân của tình yêu, của tuổi trẻ. Nỗi khát thèm ấy là xuất phát từ một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực của Xuân Diệu trước cuộc đời. - Về nghệ thuật, thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật: điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần; sử dụng động từ mạnh: thâu, riết, say, hôn, cắn; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm xúc của tác giả. 3 Kết bài 0,25 - Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là một đoạn thơ hay nhất trong bài thơ “Vội vàng”. - Đoạn thơ đã giúp ta hình dung được tâm hồn Xuân Diệu, một cái tôi yêu đời, giàu xúc cảm, một nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời. Với những gì thể hiện ở trên, Xuân Diệu rất xứng đáng với danh hiệu “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh).
- Người duyệt đề Người ra đề Người thẩm định Trần Thị Ngọc Mai Trần Thị Hồng Nhung Nguyễn Thanh Hương