Sáng kiến kinh nghiệm Những sai lầm thường gặp của học sinh ở một số bài học trong Toán 6 và biện pháp khắc phục
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Những sai lầm thường gặp của học sinh ở một số bài học trong Toán 6 và biện pháp khắc phục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nhung_sai_lam_thuong_gap_cua_hoc_sinh.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Những sai lầm thường gặp của học sinh ở một số bài học trong Toán 6 và biện pháp khắc phục
- Phần một. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Như ta đã biết, mục tiêu giáo dục và đào tạo là “nâng cao mặt bằng dân trí, đảm bảo những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập cuộc sống xã hội và kinh tế, theo kịp tiến trình đổi mới của đất nước, đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Môn Toán với vị trí là môn học có tiềm năng phát triển trí tuệ và hình thành các phẩm chất trí tuệ “linh hoạt, độc lập, sáng tạo”. Hoạt động học toán góp phần phát triển đạo đức và nhân cách cho học sinh như: Say mê và có hoài bảo trong học tập, mong muốn góp phần mình cho sự nghiệp chung của đất nước, ý chí vượt khó, bảo vệ chân lí, cảm nhận được cái đẹp, trung thực, tự tin, khiêm tốn, . Ngoài ra môn Toán cũng là môn công cụ để giúp học sinh học tốt các môn học khác. Trong quá trình học toán, học sinh thường mắc những sai lầm, cho dù những sai lầm đó thường xảy ra hoặc có thể xảy ra đều là điều đáng tiếc cho bản thân học sinh và người dạy. Nếu trong quá trình dạy học toán, ta đưa ra những tình huống sai lầm mà học sinh dễ bị mắc phải, chỉ rõ và phân tích cho các em thấy được chỗ sai lầm, điều đó sẽ giúp cho các em không những khắc phục được sai lầm mà còn hiểu kĩ hơn bài mình đang học. Chính vì thế trong khi trực tiếp giảng dạy bộ môn toán 6, kết hợp với việc tham khảo ý kiến của đồng nghiệp.Tôi đã đúc kết, tổng hợp tất cả những sai lầm thường gặp của học sinh trong quá trình dạy học, để viết thành đề tài “Những sai lầm thường gặp của học sinh ở một số bài học trong toán 6 và biện pháp khắc phục”. 2. Mục đích nghiên cứu: - Tìm nguyên nhân tại sao học sinh rất dễ bị ngộ nhận và mắc sai lầm trong khi thực hiện phép toán. - Đưa ra biện pháp để giúp học sinh hạn chế và chấm dứt những sai lầm hay mắc phải khi thực hiện phép toán. 1
- 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: - Đối với mỗi bài học, tiết học nếu có những sai lầm thường xảy ra thì giáo viên cần đưa vào ngay tiết dạy để chỉ rõ cho học sinh biết trước những lỗi sai đó. - Mỗi sai lầm đưa ra giáo viên còn hướng dẫn học sinh tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp khắc phục giải quyết những sai lầm để học sinh rút kinh nghiệm và hiểu thêm bài học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này được áp dụng trong khi dạy chương trình toán 6 THCS và cụ thể là học sinh lớp 6a2 Trường trung học cơ sở Lạc Hòa. 2
- Phần hai. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Đặc điểm tình hình: 1.1. Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao Ban giám hiệu của nhà trường. - Được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy đúng chuyên môn. - Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí đồng nghiệp. - Đa số các em học sinh ngoan, lễ phép một số em tỏ ra thích học môn toán, và có năng khiếu về bộ môn toán. 1.2. Khó khăn: - Nhiều học sinh rỗng nhiều kiến thức, không nắm được các kiến thức, kĩ năng cơ bản, và còn lười học. - Nhiều gia đình chưa thực sự quan tâm tạo điều kiện cho các em học tập. 1.3. Thực trạng: 1.3.1. Số liệu thống kê: Năm học 2012 – 2013 được sự phân công của Ban giám hiệu tôi đảm nhận dạy môn Toán 6. Sau khi dạy hết chương I tôi cho học sinh lớp 6a 2 làm bài kiểm tra để khảo sát chất lượng hiểu bài của học sinh là thế nào? Trong đề kiểm tra có nội dung phần tự luận như sau: 1) Thực hiện các phép tính sau: a) 5.(2+3) b) 5x – 36 : 18 = 13 c) 2 . 52 2) Xét xem hiệu 13.7.9.11 - 2.3.4.7 có là số nguyên tố hay hợp số? Qua việc chấm bài và chữa bài cho học sinh, tôi thống kê điểm làm bài kiểm tra của học sinh lớp 6a2 ở phần tự luận như sau: 3
- Chất lượng làm bài Số lượng (bài) Tỉ lệ (%) Giỏi 4 10% Khá 4 10% Trung bình 12 30% Yếu, kém 20 50% 1.3.2. Nguyên nhân thực trạng: Trước kết quả thu được của lần kiểm tra này, tôi thấy rằng nhiều học sinh thường mắc sai lầm trong cách giải. Nguyên nhân học sinh thường mắc sai lầm là do: - Trong quá trình học toán, học sinh hiểu phần lý thuyết có khi chưa chắc chắn hoặc còn mơ hồ về các định nghĩa, các khái niệm, các công thức nên thường dẫn đến sai lầm khi làm bài tập. - Có những dạng bài tập, nếu học sinh không chú tâm để ý hay chủ quan xem nhẹ hoặc làm theo cảm nhận tương tự là có thể vấp phải sai lầm. - Đa số học sinh cảm thấy khó học phần định nghĩa, khái niệm và các công thức, mà đây lại là vấn đề quan trọng yêu cầu học sinh phải nắm và hiểu được trước khi làm bài tập, còn học sinh có tư tưởng chờ làm bài tập rồi mới hiểu kĩ hơn về các định nghĩa, khái niệm và các công thức đó, nên dễ dẫn đến sai lầm. - Đối với học sinh yếu, kém toán: Không nắm được kiến thức, kĩ năng cơ bản. Thậm chí không biết làm bài toán bắt đầu từ đâu? Làm như thế nào? . - Đối với học sinh có năng lực học tập môn toán từ trung bình trở lên thì thường chủ quan, ỷ lại, có xu hướng coi nhẹ việc học lí thuyết, bỏ qua các bài toán thông thường trong sách giáo khoa nên đã dẫn đến những sai lầm không đáng. Từ những nguyên nhân trên, trong suốt quá trình giảng dạy tôi luôn hình thành cho học sinh kĩ năng giải toán, tạo điều kiện giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động, sáng tạo và tránh sai sót. Cụ thể như sau: 4
- 2. Các biện pháp thực hiện để nâng cao cải tiến thực trạng: 1/ Trong bài: “Số phần tử của một tập hợp, tập hợp con”. - Học sinh thường sai lầm khi làm dạng bài tập: Điền kí hiệu , , vào chỗ trống: 2 . N ; {2} . N ; 1,5 . N Nhiều HS có thể điền sai là: {2} N - Nguyên nhân sai lầm: Do học sinh chưa hiểu rõ quan hệ giữa phần tử với tập hợp và tập hợp với tập hợp, chưa xác định được đâu là phần tử, đâu là tập hợp. Để dùng kí hiệu cho đúng của dạng bài tập này. - Biện pháp khắc phục: Ở đây giáo viên chỉ cần chỉ cho học sinh quan hệ giữa phần tử với tập hợp chỉ dùng kí hiệu , ; còn quan hệ giữa tập hợp với tập hợp là dùng kí hiệu và chỉ cho học sinh thấy các phần tử nằm trong hai dấu ngoặc nhọn là một tập hợp. 2/ Trong bài: “Phép cộng và phép nhân” - Sai lầm có thể xảy ra khi học sinh áp dụng tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng: Khi HS làm dạng bài tập 5.(2+3) HS thường thực hiện 5.(2+3) = 5 .2 =10 = 5 . 3 = 15 = 10 + 15 = 25 - Nguyên nhân và biện pháp khắc phục: Do học sinh chưa nắm vững tính chất, không thể hiểu được 5.(2+3) không thể bằng (5.2) mà học sinh chỉ lấy số 5 nhân với từng số hạng của tổng, rồi công các kết quả lại.Ở đây giáo viên chỉ cần đưa tình huống như ví dụ cho học sinh so sánh 5.(2+3) với tích 5.2 rồi từ đó xác định 5.(2+3) không thể bằng với (5.2) và khẳng định cách làm trên là sai và cách làm đúng sẽ là: 5.(2+3) = 5.2+5.3 = 10 + 15 = 25 3/ Trong bài: “Phép trừ và phép chia” 5
- - Học sinh thường mắc sai lầm khi giải bài tập tìm x sau: 5x – 36 : 18 = 13 5x – 36 = 13 . 18 5x – 36 = 234 5x = 234 + 36 x = 270 : 5 x = 54 - Nguyên nhân sai lầm: Do học sinh xác định số 18 trong biểu thức là số chia và xem (5x - 36) là số bị chia nên dẫn đến sai lầm. - Biện pháp khắc phục: Ở đây giáo viên nên đưa ra hai đề bài: 5x -36 : 18 = 13 và (5x - 36):18 = 13 Yêu cầu học sinh nêu sự khác nhau của hai đề bài . GV đưa ra cách giải đúng cho các bài tập trên để HS so sánh. 5x – 36 : 18 = 13 (5x - 36):18 = 13 5x – 2 = 13 5x – 36 = 13 . 18 5x = 13 + 2 5x – 36 = 234 x = 15 : 5 5x = 234 + 36 x = 3 x = 270 : 5 x = 54 Từ đó đi đến nhấn mạnh sự khác nhau giữa hai đề bài, giữa hai kết quả và kết hợp chỉ ra cho học sinh thấy sai lầm trên để học sinh rút kinh nghiệm. 4/ Trong bài: :”Luỹ thừa với số mũ tự nhiên, nhân hai luỹ thừa cùng cơ số” - HS thường sai lầm khi tính luỹ thừa: Nhiều HS có thể tính 23 = 2.3 = 6 - Nguyên nhân: Do học sinh chưa hiểu kĩ định nghĩa về luỹ thừa và làm theo cảm nhận nên đa số HS dễ mắc sai lầm này. 6
- - Biện pháp khắc phục: Giáo viên đưa ra hai cách làm sau: Cách 1: 23 = 2.2.2 = 8 Cách 2: 23 = 2 . 3 = 6 Yêu cầu HS xác định cách làm đúng, cách làm sai? Tại sao? Từ đó GV nhắc HS không nên tính 23 bằng cách lấy cơ số nhân với số mũ. 5/ Trong bài: “Thứ tự thực hiện các phép tính” - Sai lầm HS thường mắc phải là: Trường hợp 1: HS tính: 2 . 52 = 102 Trường hợp 2: HS tính: 62 : 4 . 3 = 62 : 12 - Nguyên nhân: Do HS chưa nắm kĩ quy ước về thứ tự thực hiện các phép tính. Nên cứ thấy thuận lợi là thực hiện. - Biện pháp khắc phục: Ở đây giáo viên nên đưa ra hai cách làm sau cho mỗi trường hợp: Trường hợp 1: Cách 1: 2 . 52 = 102 = 100 Cách 2: 2 . 52 = 2 . 25 = 50 Trường hợp 2: Cách 1: 62 : 4 . 3 = 62 : 12 = 36 : 12 = 3 Cách 2: 62 : 4 . 3 = 36 : 4 . 3 = 9 . 3 = 27 Yêu cầu HS xác định: Cách nào làm đúng, cách nào làm sai ? Vì sao đúng, vì sao sai ? (cho mỗi trường hợp) Rồi từ đó giáo viên chỉ cho HS thấy chỗ sai là không thực hiện đúng theo thứ tự thực hiện các phép tính. Để HS rút kinh nghiệm. 6/ Trong bài: “Số nguyên tố, hợp số, bảng số nguyên tố” - Dạng bài tập HS dễ sai lầm là: Xét xem hiệu 13.7.9.11 - 2.3.4.7 là số nguyên tố hay hợp số ? HS sẽ xác định hiệu chia hết cho 7 và đi đến kết luận hiệu là hợp số. 7
- - Nguyên nhân sai lầm: HS chứng minh hiệu chia hết cho 7 nhưng không biết rằng hiệu đó có bằng 7 hay không nên dẫn đến sai lầm là thiếu một điều kiện là hiệu phải lớn hơn 7. - Biện pháp khắc phục: Để khắc phục được trường hợp này giáo viên đưa ra một bài tập sau: Xét xem hiệu 2 . 6 . 5 – 29 . 2 là số nguyên tố hay hợp số ? Khi HS xác định được hiệu chia hết cho 2, giáo viên yêu cầu HS thử tính xem hiệu trên bằng bao nhiêu ? Rồi từ đó đi đến kết luận hiệu chia hết cho 2 nhưng hiệu đó bằng 2 nên hiệu là số nguyên tố. Từ đó giáo viên cho HS rút kinh nghiệm sai lầm như bài tập trên. 7/ Trong bài: “Phân tích một số ra thừa số nguyên tố” - HS dễ mắc sai lầm khi phân tích một số ra thừa số nguyên tố. Nhiều HS thực hiện khi phân tích số 120 ra thừa số nguyên tố: 120 = 2 . 3 . 4 . 5 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS chưa hiểu được định nghĩa thế nào là phân tích một số ra thừa số nguyên tố, nên không thể xác định tích (2 .3 .4. 5) trong đó có một thừa số là hợp số. - Biện pháp khắc phục: Ở đây giáo viên chỉ cần đưa ra hai cách làm khi phân tích số 120 ra thừa số nguyên tố Cách 1: 120 = 2.3.4.5 Cách 2: 120 = 2.2.2.3.5. Yêu cầu HS xác định: Xét các tích trên xem có còn thừa số nào là hợp số không ? Cách nào làm đúng? Vì sao đúng? Cách nào làm sai ? Vì sao sai ? 8
- Từ đó GV chỉ ra nguyên nhân của cách làm sai. Để HS rút kinh nghiệm. 8/ Trong bài: “Quy tắc dấu ngoặc” Quy tắc dấu ngoặc không khó đối với HS nhưng khi làm bài HS rất hay bị nhầm lẫn. Đặc biệt trong trường hợp khi có dấu trừ đứng trước dấu ngoặc. - HS thường mắc sai lầm khi làm dạng bài tập: Bỏ dấu ngoặc rồi tính : (27+65) - (84 +27 + 65) HS sẽ thực hiện (27+65) - ( 84 + 27 + 65) = 27 + 65 + 84 - 27 - 65 = (27 – 27) + (65 – 65) + 84 = 84 - Nguyên nhân sai lầm: HS không xác định được dấu của phép tính và dấu của các số hạng, rất lúng túng khi đổi dấu số hạng đầu tiên nằm trong dấu ngoặc (trong trường hợp dấu trừ đằng trước dấu ngoặc) - Biện pháp khắc phục: Giáo viên chỉ cần coi trọng việc rèn luyện cho HS tính cẩn thận khi thực hiện “bỏ dấu ngoặc” hoặc “đặt dấu ngoặc” khi đằng trước có dấu “ - ” Chỉ cho HS biết được đâu là dấu của phép tính và đâu là dấu của số hạng hoặc có thể đưa ra tình huống tổng quát sau: Thực hiện bỏ dấu ngoặc: -(a - b + c - d) Cách1: -(a - b + c - d)= - a + b - c + d Cách2: -(a - b + c - d) = a + b - c + d Yêu cầu HS xác định dấu của các số hạng trong ngoặc Hỏi cách làm nào đúng, cách làm nào sai ? vì sao ? Từ đó giáo viên cho HS rút kinh nghiệm khi thực hiện quy tắc dấu ngoặc. 9/ Trong bài: “Bội và ước của một số nguyên” - HS thường sai lầm khi tìm tất cả các ước của một số nguyên như: Khi tìm tất cả các ước của 6. 9
- Nhiều HS thực hiện: ước của 6 là 1; 2; 3; 6 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS có thói quen tìm các ước của một số tự nhiên, nên khi tìm các ước của một số nguyên, HS thường quên đi các ước là các số âm. - Biện pháp khắc phục: Trong bài học này giáo viên đưa ra hai cách làm tìm tất cả các ước của 6. Cách 1: ước của 6 là 1; 2; 3; 6 Cách 2: ước của 6 là 1; -1; 2; -2; 3; -3; 6; -6 Yêu cầu HS xác định kĩ yêu cầu đề bài. Trong các cách làm trên cách nào làm đúng, cách nào làm sai ? Tại sao? Từ đó rút ra kinh nghiệm cho loại bài tập này. 10/ Trong bài: “Rút gọn phân số” - HS dễ mắc sai lầm sau: 4 4 : 2 2 Khi rút gọn phân số 9 9 : 3 3 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS chưa nắm vững tính chất cơ bản của phân số và chỉ thấy rất thuận tiện khi đem 4:2 và 9:3 nên dẫn đến sai lầm. - Biện pháp khắc phục: 4 4 : 2 2 Giáo viên đưa ra tình huống 9 9 : 3 3 Yêu cầu HS xác định cách làm này đúng hay sai, nếu sai vì sao sai và sửa lại cho đúng? Từ đó giáo viên cho HS rút kinh nghiệm không nên chia cả tử và mẫu của phân số như cách làm trên. Trong bài học này HS còn dễ mắc sai lầm khi rút gọn một biểu thức 8.5 8.2 8.5 8.2 5 8 3 16 8.2 1 10
- - Nguyên nhân: HS chưa hiểu được biểu thức trên có thể coi là một phân số. Nên chỉ cần nhìn thấy các số giống nhau ở tử và mẫu là rút gọn, cho dù ở tử hay mẫu đang ở dạng tổng. - Biện pháp khắc phục: Giáo viên chỉ cần đưa ra hai cách làm sau khi rút gọn biểu thức : 8.5 8.2 16 8.5 8.2 8.5 8.2 5 8 Cách 1: 3 16 8.2 1 8.5 8.2 8.(5 2) 3 Cách 2: 16 8.2 2 GV yêu cầu HS xác định: Biểu thức trên có phải là phân số không? Cách nào làm đúng, cách nào làm sai? Vì sao? Từ đó GV nhấn mạnh: Rút gọn như cách 1 là sai vì các biểu thức trên có thể coi là một phân số, phải biến đổi tử và mẫu thành tích mới rút gọn được.Bài này sai vì đã rút gọn ở dạng tổng. Cách 2 mới là cách làm đúng và lưu ý HS rút kinh nghiệm. 11/ Trong bài: “So sánh phân số” 3 2 - HS dễ mắc sai lầm khi : So sánh 2 phân số: va 7 5 Nhiều HS sẽ thực hiện với cách suy luận sau: 3 2 Vì 3 > 2 và 7 > 5 nên 7 5 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS chưa nắm vững quy tắc so sánh hai phân số, nên dễ nhận thấy sự so sánh giữa tử với tử và mẫu với mẫu của hai phân số, nên cách lập luận này không phải là đúng. - Biện pháp khắc phục: Giáo viên đưa ra hai cách làm của hai HS như sau: khi so 3 2 sánh hai phân số va 7 5 3 2 3 15 2 14 15 14 3 2 HS1: vì va mà nên 7 5 7 35 5 35 35 35 7 5 11
- 3 2 HS2: vì 3 > 2 và 7 > 5 7 5 Theo em thì cách suy luận HS nào đúng ? vì sao ? Em có thể lấy một ví dụ khác để chứng minh cách suy luận của HS đó là sai không? 3 1 3 1 3 1 (ví dụ: so sánh hai phân số va Vì 3 > 1 và 7 > 2 nên là sai vì ) 7 2 7 2 7 2 Từ đó giáo viên lưu ý HS khi so sánh các phân số không được suy luận theo kiểu HS2. 12/ Trong bài: “Phép cộng phân số” - Sai lầm của HS khi: Cộng hai phân số không cùng mẫu: 2 3 2 3 5 HS sẽ thực hiện 5 2 5 2 7 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS không nắm vững được quy tắc cộng hai phân số cùng mẫu và không cùng mẫu và cảm thấy dễ dàng khi lấy tử cộng tử và mẫu cộng mẫu. - Biện pháp khắc phục: Ở trường hợp này giáo viên đưa ra hai cách cộng hai phân số 2 3 va như sau: 5 2 2 3 2 3 5 Cách 1: 5 2 5 2 7 2 3 4 15 19 Cách 2: 5 2 10 10 10 Hỏi cách nào làm đúng? Cách nào làm sai? Tại sao? Từ đó giáo viên cho HS nhắc lại quy tắc cộng hai phân số không cùng mẫu. 13/ Trong bài: “Tính chất cơ bản của phép nhân phân số” - HS dễ mắc sai lầm khi thực hiện dạng toán sau: 1 1 2 5 1 1 7 1 7 9 14 23 2 3 3 3 2 3 3 2 9 18 18 - Nguyên nhân: HS chưa nắm vững được tính chất phân phối của phép nhân đối với phép cộng, nên đã bỏ dấu ngoặc thứ nhất dẫn đến lời giải sai. 12
- - Biện pháp khắc phục: Giáo viên đưa ra tình huống 1 1 2 5 1 1 7 1 7 9 14 23 2 3 3 3 2 3 3 2 9 18 18 Yêu cầu HS tìm chỗ sai trong lời giải và sửa lại cho đúng. Từ đó rút kinh nghiệm không nên bỏ dấu ngoặc một cách tuỳ tiện trong trường hợp này. 14/ Trong bài: “Phép chia phân số” - HS thường mắc sai lầm ở chỗ khi làm bài tập sau: 1 1 4 1 1 1 4 : : : 2 3 3 2 3 2 3 - Nguyên nhân: HS nhầm tưởng là phép chia cũng có tính chất phân phối. - Biện pháp khắc phục: Giáo viên đưa ra tình huống: 1 1 4 1 1 1 4 1 3 1 3 3 3 12 3 15 : : : 2 3 3 2 3 2 3 2 1 2 4 2 8 8 8 Hỏi HS cách làm trên đúng hay sai? Nếu sai, tìm chỗ sai và sửa lại cho đúng? Sau đó giáo viên lưu ý HS không được làm như cách trên mà cách làm đúng sẽ là: 1 1 4 1 5 1 3 3 : : 2 3 3 2 3 2 5 10 15/ Trong bài: “Hỗn số-Số thập phân-Phần trăm” 1 1 - HS dễ sai lầm khi viết: 3 3 4 4 1 1 - Nguyên nhân sai lầm: Do HS có thói quen khi làm 3 3 và chưa hiểu 4 4 được hết bản chất của một hỗn số âm. - Biện pháp khắc phục: Giáo viên đưa ra hai cách làm sau: 13
- 1 1 1 1 Cách 1: 2 2 Cách 2: 2 2 5 5 5 5 Hỏi cách nào làm đúng? Cách nào làm sai? Vì sao? Từ đó GV nên nhấn mạnh lại cách làm 2 cho HS chú ý để rút kinh nghiệm. Tóm lại: Để khắc phục những sai lầm cho học sinh khi thực hiện phép toán ở một số bài học của Toán 6, tôi có một số biện pháp sau: * Biện pháp 1: Phát hiện sai lầm và giải quyết sai lầm đối với mỗi tiết dạy. - Đối với mỗi bài học, tiết học nếu có những sai lầm xảy ra thì giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh biết những lỗi sai đó. - Mỗi sai lầm đưa ra giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu nguyên nhân và có biện pháp khắc phục, giải quyết những sai lầm để học sinh rút kinh nghiệm và hiểu thêm bài học. * Biện pháp 2. Củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản. - Khi dạy bất kì một dạng toán (hoặc một bài tập) nào cho học sinh thì giáo viên cần phải yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức cơ bản như: Các khái niệm, các định nghĩa, các tính chất, các công thức - Trong quá trình đưa ra các khái niệm, các định nghĩa, các tính chất, các công thức giáo viên cần giải thích tỉ mỉ, kèm theo các ví dụ cụ thể và bài tập vận dụng để học sinh hiểu đầy đủ về kiến thức đó mà vận dụng vào giải toán. Ngoài ra giáo viên cần chú ý cho học sinh: trong các tính chất mà học sinh tiếp cận, cần chỉ ra cho học sinh những tính chất đặc thù khi áp dụng vào giải từng dạng toán, vận dụng phù hợp, có nắm vững các tính chất đặc thù thì mới giải toán chặt chẽ và lôgíc. * Biện pháp 3. Tìm hiểu nội dung bài toán. Trước khi giải toán giáo viên cần yêu cầu học sinh: Đọc kĩ đề bài, xem bài tập cho biết gì và yêu cầu làm gì? Chọn những kiến thức cơ bản nào có liên quan để phục vụ giải bài toán. Xác định rõ những nội dung trên sẽ giúp học sinh có kĩ năng phân tích 14
- bài toán và giải bài toán theo những quy trình cần thiết, tìm ra nhiều cách giải hay và tránh sai sót. * Biện pháp 4. Mỗi dạng toán cần giải nhiều bài để hình thành kĩ năng. Học sinh cần được giải nhiều dạng bài tập, nếu mỗi dạng toán học sinh được giải với số lượng lớn bài tập thuộc cùng một dạng thì kĩ năng giải dạng toán sẽ tốt hơn. Chính vì vậy giáo viên cần tìm nhiều bài tập thuộc một dạng để học sinh giải tại lớp, trong giờ luyện tập, bài tập về nhà nhưng giáo viên cần phải kiểm tra đánh giá. * Biện pháp 5. Giúp đỡ nhau cùng học tập. Giáo viên cần “xây dựng đôi bạn học tốt”. Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên cần phát hiện học sinh khá giỏi, từ đó phân công những em học sinh khá giỏi này kiểm tra và giảng bài cho các em còn lại. Vì học sinh khi giảng bài cho nhau thì các em cũng dễ tiếp thu kiến thức. 3. Kết quả đạt được: Từ việc phát hiện sai lầm của học sinh khi thực hiện phép toán ở một số bài học của Toán 6. Năm học 2012 – 2013 tôi được đảm nhận dạy môn Toán 6, nên tôi mạnh dạn áp dụng một số biện pháp sữa chữa sai lầm đã nêu trên trong suốt quá trình giảng dạy thì tôi nhận thấy kết quả trước tiên là “học sinh không bị mắc sai lầm”. Điều đó thể hiện rõ nét khi tôi cho học sinh làm bài kiểm tra học kì I. Kết quả đạt được như sau: Chất lượng làm bài Số lượng (bài) Tỉ lệ (%) Giỏi 8 20% Khá 11 27,5% Trung bình 19 47,5% Yếu 2 5% 15
- Phần ba. KẾT THÚC VẤN ĐỀ Khi áp dụng đề tài này trong giảng dạy, tôi nhận thấy HS đã hạn chế hoặc không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc trong khi làm bài tập ở nhà, ở lớp hoặc bài kiểm tra.Tuy nhiên vẫn còn một số trường hợp HS vẫn còn mắc phải sai lầm bởi tính chủ quan, xem nhẹ hay làm bài theo cảm nhận thói quen.Ví dụ như khi tính luỹ thừa: 2 3 = 2.3 = 6. Ngoài ra, học sinh còn được rèn luyện phương pháp suy nghĩ lựa chọn, tính linh hoạt sáng tạo và có định hướng rõ ràng khi giải một bài toán, từ đó giúp các em làm bài tập được dễ dàng hơn và khỏi bị mắc sai lầm. Qua việc áp dụng đề tài này trong giảng dạy, tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau đây: * Thuận lợi: - Dạy cho học sinh biết sự dễ mắc sai lầm, làm cho học sinh dễ nhớ và hiểu bài hơn. - Phương pháp chỉ ra cái sai để tìm ra cái đúng rất dễ dạy và dễ học. - Giáo viên tích luỹ được những sai lầm của học sinh trong quá trình giảng dạy, để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục sao cho hữu hiệu nhất. - Học sinh được củng cố kiến thức, khắc sâu kiến thức hơn. Đồng thời kĩ năng giải toán cũng được nâng cao hơn. - Đề tài này có thể được áp dụng ngay trong tiết dạy, tại một thời điểm phù hợp của bài học, để học sinh nắm nội dung bài học một cách dễ dàng hơn. * Khó khăn: Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, nhiều em nhận thức chậm và còn lười học, thậm chí nhiều em rỗng nhiều kiến thức cơ bản. Do đó, vẫn còn một số trường hợp học sinh mắc sai lầm. Qua cách làm có hiệu quả trên, tôi sẽ luôn vận dụng tốt cách thực hiện này trong mỗi tiết dạy. Tuy nhiên để học sinh học tập có kết quả cao và tránh khỏi sai lầm. Tôi có một số ý kiến sau: 16
- - Giáo viên cần tìm hiểu phân loại đối tượng học sinh để có kế hoạch giảng dạy thích hợp. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần nhấn mạnh, lưu ý những vấn đề học sinh thường nhầm lẫn nhất. - Đừng làm thay, giải thay cho học sinh mà cần chọn lựa hệ thống câu hỏi tạo ra tình huống có vấn đề để gây sự chú ý buộc học sinh phải tham gia vào bài học. - Tăng cường thời gian cho học sinh làm việc trong giờ học toán, giáo viên chúng ta chỉ hổ trợ giúp đỡ các em khi cần. - Nên kết hợp vừa giảng vừa luyện để học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng kiến thức. Trên đây là một vài biện pháp của tôi nhằm giúp học sinh khắc phục những sai lầm khi thực hiện phép toán ở một số bài học của Toán 6. Tuy nhiên, việc trình bày này chắc chắn không khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô để bản thân tôi được học tập, tích lũy thêm kinh nghiệm nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy. Lạc Hòa, ngày 10 tháng 01 năm 2013 Người thực hiện Trịnh Kim Ngân 17