Tác giả trong chương trình Ngữ văn 9

pdf 13 trang thaodu 4361
Bạn đang xem tài liệu "Tác giả trong chương trình Ngữ văn 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftac_gia_trong_chuong_trinh_ngu_van_9.pdf

Nội dung text: Tác giả trong chương trình Ngữ văn 9

  1. TÁC GIẢ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 9. 1/ Nguyễn Du ( 1765–1820) là một nhà thơ kiệt xuất của Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) đã đưa ông lên hàng Danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du tên tự là Tố Như ,tên hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ. * Cuộc đời Ông quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con). Anh khác mẹ (con bà chính) của ông là Toản Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong triều. Năm 1771, ông cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên Điền. Năm 1775, lúc 9 tuổi Nguyễn Du mồ côi cha. Năm 1778, lúc 12 tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Được vài năm, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ Nguyễn Hành. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ trần. Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Từ năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở Thái Bình- quê vợ. Năm 1796: Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba tháng. Có thể Nguyễn Du đã thai nghén Truyện Kiều vào thời gian này; năm đó Nguyễn Du đúng 30 tuổi ("Trải qua một cuộc bể dâu" - một bể dâu bằng khoảng 30 năm Nhưng theo Giáo sư Nguyễn Lộc ("Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984) trang 455 viết: "Đoạn trường tân thanh(đoạn trường: đứt ruột; tân thanh: tiếng mới). là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-20). Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-09). Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận". Chi tiết xem thêm bài Truyện Kiều Từ 1797 đến năm 1804: Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Điền. Khi Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông bắt đầu vào Huế làm quan với nhà Nguyễn và được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc chí. Theo Đại Nam Liệt Truyện: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì " Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua đời. Đại Nam Liệt Truyện viết: "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì." *Tác phẩm tiêu biểu Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lại Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm)
  2. -Ba tập thơ chữ Hán điển hình( 243 bài) Thanh Hiên Thi Tập ( 78 bàilàm ở Thái bình) Nam Trung Tạp Ngâm ( 40 bài) Bắc Hành Tạp Lục ( 125 bài) 2/ Nguyễn Dữ, tác giả truyện Truyền kỳ mạn lục nổi tiếng sống ở thế kỷ XVI, xuất thân trong gia đình cha đậu tiến sĩ cuối đời Hồng Đức, quê huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện- Hải Dương. Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có làm tri huyện một thới gian rồi thôi quan về nhà sống ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già và viết sách. Tác phẩm Nguyễn Dữ để lại có Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm được đánh giá là "thiên cổ kỳ bút". Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ hiện còn, là một bản trùng san, in năm 1763, có phần dịch ra Nôm và chú thích cẩn thận, với tên gọi Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, gồm 20 truyện. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn học nước nhà đương thời cũng như các thế kỷ tiếp sau. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đọc và sửa chữa cho tác phẩm này. Nhiều người có tiếng tăm đã bình luận, khen ngợi cái hay, cái lạ của bút lực Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục và nó từng mấy lần được khắc in. Sau Nguyễn Dữ, có Nguyễn Diễn Trai viết Truyền văn tân lục kể về những chuyện lạ của các nhân vật hiển đạt từ thời Lý đến thời Lê, Đoàn Thị Điểm soạn Tục truyền kỳ, tức Truyền ký tân phả, chép các chuyện kinh dị, ly kỳ. Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại. Phải chăng đấy chính là hình ảnh của xã hội Nguyễn Dữ đang sống, một xã hội phong kiến lúc suy yếu, mục nát. Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con người với con người Giá trị lớn của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dunh nhân văn đó. 3/ PHẠM ĐÌNH HỔ: (tự: Tùng Niên; hiệu: Đông Dã Tiều; 1768 - 1839), nhà văn, nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam. Quê: làng Đan Loan, huyện Đường An (nay là huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Đỗ Tú tài. Sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, đọc nhiều sách, đi dạy học nhiều nơi, hiểu biết rộng. Có nhiều công trình nghiên cứu lịch sử, địa lí, ngôn ngữ, triết học: “An Nam chí”, “Ô châu lục”, “Kiền khôn nhất lãm” Được truyền tụng nhất là tập “Vũ trung tuỳ bút” và “Tang thương ngẫu lục” (viết chung với Nguyễn Án) ( “Vũ trung tuỳ bút”). Phạm Đình Hổ có 2 tập thơ “Đông Dã học ngôn thi tập”, “Tùng cúc liên mai tứ hữu”, nói lên tâm sự của người bất đắc chí sống ở thời loạn. Gần 60 tuổi, Phạm Đình Hổ lại được Minh Mạng triệu vào Kinh làm thừa chỉ Viện Hàn lâm, rồi làm tế tửu Quốc Tử Giám. 4/ Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn hóa cận đại của Việt Nam sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và mất ngày 3 tháng 7 năm 1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Tiểu sử Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu sớm trải qua những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hãi hùng đã tác động đến nhận thức của ông. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Năm 1833, Nguyễn Đình Huy (cụ thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu) gửi Nguyễn Đình Chiểu cho một người bạn ở Huế để ăn học. Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vất vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Về quê, chịu tang mẹ xong, ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy ông vừa dạy học vừa làm thơ sống giữa tình thương của mọi người. Về sau có người học trò cảm
  3. nghĩa thầy đã gả em gái. Nhân dân thường gọi ông là Đồ Chiểu hay Tú Chiểu. Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kích động lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân. Biết ông là người có uy tín lớn, Pháp nhiều lần mua chuộc nhưng ông vẫn nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục. Người Việt Nam đánh giá ông không những là một nhà thơ lớn mà còn là một nhà yêu nước, một nhà văn hóa Việt Nam của thế kỉ 19. Quan điểm văn chương Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm "văn dĩ tải đạo" của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đạo trời được đề cao nhưng trong thực tế đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Quan điểm văn chương Đồ Chiểu tuy không được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm tiến bộ và gần gũi với văn chương dân tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái. Tác phẩm chính Lục Vân Tiên sáng tác trước khi Pháp xâm lược Nam Kỳ, có tính chất tự truyện. Dương Từ Hà Mậu (chưa xác định thời điểm sáng tác) Ngư Tiều y thuật vấn đáp (chưa xác định thời điểm sáng tác) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Định (1864) Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868) Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874) Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác) Hịch đánh chuột (chưa xác định thời điểm sáng tác). 5/ Chính Hữu: tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt hai (năm 2000). Tiểu sử hoạt động Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1926 tại huyện Can Lộc Hà Tỉnh. Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước cách mạng tháng tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Ông còn làm chính trị viên đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954). Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ . Tác phẩm • Đầu súng trăng treo (tập thơ, NXB Văn học, 1966) • Thơ Chính Hữu (tập thơ, NXB Hội nhà văn, 1997) • Tuyển tập Chính Hữu (NXB Văn học, 1998) 6/ Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) là một nhà thơ Việt Nam với nhiều tác phẩm tiêu biểu viết trong thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiện nay ông là Phó trưởng ban đối ngoại Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam. Tiểu sử Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và chữ Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ. Ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Trong thời gian này, ông sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn. Đây cũng là thời gian ông sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Chiến tranh kết thúc, ông trở lại với công tác của mình. Hiện nay, ông sống ở Hà Nội.
  4. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và hội viên Hội nhà Văn Việt Nam (gia nhập năm 1970). Ông đã được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969–1970. Đóng góp Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung nhưng cũng tinh nghịch và sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát để động viên tinh thần chống Mỹ. Những tập thơ chính của nhà thơ Phạm Tiến Duật: • Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" • Thơ một chặng đường (thơ, 1971) • Ở hai đầu núi (thơ, 1981) • Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983) • Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994) • Nhóm lửa (thơ, 1996) • Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997) Phạm Tiến Duật, tên thật mà cũng là bút danh, sinh ngày 14-1-1941. Quê gốc: thị xã Phú Thọ. Tốt nghiệp đại học sư phạm Vãn, chưa đi dạy ngày nào, ông nhập ngũ (1965). Mười bốn nãm trong quân đội thêm tám nãm ở Trường Sơn, đoàn vận tải Quang Trung 559. Có thể nói: Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ. Nói đến đề tài Trường Sơn đánh Mỹ, người ta không thể quên Phạm Tiến Duật và thơ Phạm Tiến Duật hay nhất cũng ở chặng Trường Sơn. Chiến tranh đã qua một phần tư thế kỷ, tâm hồn thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn. Những bài thơ anh viết hôm nay vẫn còn vang ngân lắm hình bóng của Trường Sơn. Phạm Tiến Duật thật sự là người đã mở rộng phạm vi cái nên thơ, giúp thơ trực tiếp với đời sống và giúp đời sống trực tiếp bước vào thơ. 7/ Huy Cận: là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất Việt Nam của phong trào Thơ Mới. Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Dương Sơn, Hà Tĩnh, mất ngày 19 tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội. Trước khi mất ông sống tại Hà Nội, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (Tú tài, Cao đẳng Nông Lâm ) và hoạt động Văn học. Từ đầu năm 1942, vừa học Nông Lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7- 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm Thời. Từ 5-11 năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông (12-1946 đến 7- 1947) rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế (1947-1949). Từ 1949 đến 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. Từ 1955 đến 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa; Từ tháng 9-1984: Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Hiện là Phó chủ tịch ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhà thơ còn là Đại biểu Quốc hội khóa 1, 2 và 7. Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt I-1996). Tác phẩm: THƠ: Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Trời mỗi ngày lại sáng (1958); Đất nở hoa (1960); Bài thơ của đời (1963); Hai bàn tay em (1967); Phù Đổng Thiên Vương (1968); Những năm 60 (1968); Cô gái Mèo (1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973); Chiến trường gần chiến trường xa (1973); Tuyển tập Huy Cận tập I (1986); Thơ tình Huy Cận (1994); Tuyển tập Huy Cận II (1995); VĂN: Tâm sự gái già (1940); Kinh cầu tự (1942); Suy nghĩ về nghệ thuật (1980 - 1982); Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993); Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (1994); Các vùng văn hóa Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khán, 1995) 8/ Bằng Việt (sinh ngày 15 tháng 6 năm 1941) là một nhà thơ Việt Nam. Ông đã từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và đang là Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Tiểu sử
  5. Bằng Việt tên thật là Nguyễn Việt Bằng, nguyên quán huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây nhưng ông sinh tại thành phố Huế và học trung học tại Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý, Đại học Tổng hợp Kiev vào năm 1965, Bằng Việt về Việt Nam, công tác tại Viện Luật học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Đến năm 1969, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1970, ông tham gia công tác ở chiến trường Bình Trị Thiên, với tư cách là một phóng viên chiến trường và làm tại Bảo tàng truyền thống cho đoàn Trường Sơn. Năm 1975, ông công tác ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Sau khi về Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (gọi tắt là Hội Văn nghệ Hà Nội) năm 1983, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1983-1989) và là một trong những người sáng lập tờ báo văn nghệ Người Hà Nội (xuất bản từ 1985). Sau đó được bầu làm Uỷ viên Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, làm tổng biên tập tờ tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (1989-1991). Năm 2001, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội và được bầu lại làm Chủ tịch Hội nhiệm kỳ 2006 - 2010. Sự nghiệp Bằng Việt làm thơ từ năm 13 tuổi nhưng bài thơ đầu tiên được công bố là bài Qua Trường Sa viết năm 1961. Ông đã thể nghiệm nhiều loại thơ không vần, xuống thang rồi bắc thang, tất cả những hình thức đã có trong thơ Việt Nam và thơ thế giới. Tập thơ đầu tay Hương cây - Bếp lửa của ông và Lưu Quang Vũ xuất bản lần đầu năm 1968 và mới được tái bản sau 37 năm. Tác phẩm • Hương cây - Bếp lửa, (Tập thơ; 1968, 2005), đồng tác giả với Lưu Quang Vũ. • Những gương mặt - Những khoảng trời (Some faces and pieces of sky; 1973) • Đất sau mưa (1977). • Khoảng cách giữa lời (1984). • Cát sáng (1985), in chung với Vũ Quần Phương. • Bếp lửa - Khoảng trời (Tập thơ) (1986). • Phía nửa mặt trăng chìm (1995). • Thơ Bằng Việt (Tập thơ), (2001). Giải thưởng • Giải nhất về thơ của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội (1968) • Giải thưởng Nhà nước về văn học (do Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trao tặng, 2001) • Giải thưởng thơ của Hội nhà văn Việt Nam (2002) 9/ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ Việt Nam, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 9, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam. Tiểu sử • Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại thôn U Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, con của nhà cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (Nguyễn Khoa Hải Triều), dòng dõi quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng, gốc An Dương (Hải Dương cũ). • Quê gốc: làng An Cựu, xã Thuỷ An, thành phố Huế. • Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. • Tốt nghiệp Đại học Sư phạm 1964, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1975). • Lúc nhỏ đi học ở quê, năm 1955 ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 1964, vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; tham gia quân đội, xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ cho đến năm 1975. • Sau giải phóng tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó bí thư thường trực tỉnh uỷ Thửa Thiên - Huế. Đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn khoá 3. Năm 1994 ra Hà Nội, làm thứ trưởng Bô Văn hoá - Thông tin. Năm 1995, được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa 5. • Năm 1996, được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá X), Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. • Ông đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm.
  6. 10/ Nguyễn Duy Tên thật Nguyễn Duy Nhuệ, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1948 tại xã Đông Vệ, thị xã Thanh Hóa. Năm 1965, anh từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của giặc Mỹ trong những năm chiến tranh. Năm 1966 anh nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Nguyễn Duy từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường Khe Sanh, Đường Chín, Nam Lào, rồi sau này là mặt trận phía Nam, mặt trận phía Bắc (1979). Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay của anh là bài thơ Trên sân trường, anh viết từ đầu những năm sáu mươi, khi đang còn là một học sinh phổ thông ở trường Lam Sơn, Thanh Hóa. Nhưng phải mãi đến năm 1973, anh mới thực sự nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam. 11/ Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 - mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, là một nhà văn Việt Nam. Tiểu sử Ông quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa, ) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim ). Các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám - những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Sinh thời ông sống tại Hà Nội. Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn, hưởng thọ 87 tuổi. Sự nghiệp văn học Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng Ông là cha của họa sĩ Thành Chương, nữ họa sĩ Nguyễn Thị Hiền và là bố chồng của diễn viên Thanh Quý. Trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy, ông đã tham gia đóng vai Lão Hạc, một nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao. Một số tác phẩm tiêu biểu Truyện ngắn • Đứa con người vợ lẽ • Nên vợ nên chồng • Làng • Vợ nhặt • Con chó xấu xí (1962) 12/ NGUYỄN THÀNH LONG Tiểu sử:Tên thật: Nguyễn Thành Long. Sinh năm: 1925 Mất năm: 1991 Nơi sinh: Duy Xuyên - Quảng Nam. Bút danh: Nguyễn Thành Long, Phan Minh Thảo, Lưu Quỳnh. Văn của NTL nhẹ nhàng,giàu chất thơ
  7. - Quan điểm sáng tác “lao động nghệ thuật là một con đường gian khổ đòi hỏi người cầm bút phải có cá tính sáng tạo”. Thể loại: ký, truyện ngắn. Các tác phẩm: Bát cơm cụ Hồ (tập bút ký, 1952) Gió bấc gió nồm (tập bút ký, 1956) Hướng điền (tập truyện ngắn, 1957) Chuyện nhà chuyện xưởng (tập truyện ngắn, 1962) Trong gió bão (truyện, 1963) Giữa trong xanh (tập truyện ngắn, 1972) Nửa đêm về sáng (tập truyện ngắn, 1978) Lý Sơn, mùa tỏi (tập truyện ngắn, 1981) Giải thưởng văn chương: Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội văn nghệ liên khu V trao tặng năm 1953 cho tập bút ký “Bát cơm cụ Hồ”. 13/ Nguyễn Quang Sáng (còn có bút danh Nguyễn Sáng) sinh ngày 12 tháng l năm 1932. Quê gốc: xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Hiện sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Từ tháng 4 năm 1946, vùng đất Nam Bộ đang trong cuộc chiến ác liệt chống thực dân Pháp, Nguyễn Quang Sáng xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2. Đến năm 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hoá ở trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo và Hoà Hảo). Năm 1955 theo (đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với cấp bậc chuẩn úy, về làm cán bộ phòng Văn nghệ Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác. Năm 1966 vào chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn. Sau ngày giải phóng (4-1975) trở lại thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh khóa l, khóa 2 và khóa 3 hiện nay. Nguyễn Quang Sáng là ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 2, khoá 3 và là Phó tổng thư ký Hội Nhà văn khoá 4. Tác phẩm chọn lọc * Văn xuôi: - Đất lửa (tiểu thuyết, 1963); - Chiếc lược ngà (truyện ngắn, 1968); - Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975); - Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); * Kịch bản phim: - Mùa gió chướng (1977); - Cánh đồng hoang (1978), - Mùa nước nổi (1986); * Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học: - Ông Năm Hạng - truyện ngắn giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959); - Tư Quắn - truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ quân đội (1959); - Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1985); - Con mèo của Pujita - tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994;
  8. - Cánh đồng hoang (kịch bản phiin) bộ phim được tặng Huy chương vàng liên hoan phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng liên hoan phim ở Matxcơva (1981); - Mùa gió chướng (kịch bản phim) Huy chương bạc liên hoan phim toàn quốc 14/ Lỗ Tấn Tiểu sử Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, hiệu Dự Tài, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút. Cha của ông là Chu Bá Nghi đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan, bị bệnh mất sớm. Mẹ của ông là Lỗ Thụy. Bà đã sớm có ảnh hưởng đến khả năng văn chương của Lỗ Tấn kể cho ông nghe nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ. Năm 1899, ông đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Hai năm sau, ông thi vào trường Khoáng lộ học đường (đào tạo kỹ sư mỏ địa chất). Năm 1902, Lỗ Tấn du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục hội, một tổ chức yêu nước của người Trung Quốc. Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ông chính thức vào học ngành y ở trường Đại học Tiên Đài. Năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ bằng việc dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Jules Vernes. Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về Trung Quốc. Ông dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng một thời gian. Từ 1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm việc tại các trường Đại học Bắc Kinh, Cao đẳng Sư phạm Bắc Kinh và Đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1926, ông tới Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và làm việc tại trường Đại học Hạ Môn. Đầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu, làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường Đại học Trung Sơn. Tháng 10 năm 1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải và ở lại đây đến lúc qua đời (1936). Sự nghiệp văn học Lỗ Tấn rất ưa thích các tác phẩm của Nikolai Gogol. Năm 1918, truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật kí người điên lần đầu tiên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5-1918, truyện được lấy tên dựa theo truyện ngắn Nhật ký của một người điên của Gogol. Từ 1918 đến 1927, Lỗ Tấn viết nhiều truyện ngắn và tạp văn. Về truyện ngắn có 2 tập: Gào thét (14 truyện) và Bàng hoàng (11 truyện). Về tạp văn có 7 tập. Giai đoạn từ 1928 đến khi mất, ông viết tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại (gồm 8 truyện) và 9 tập tạp văn. Ngoài ra, ông còn dịch nhiều tác phẩm văn học thế giới ra tiếng Trung. Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng thuyết tiến hoá của Đacuyn (C. R. Darwin), mượn lí thuyết sinh vật học này để nói rõ tiến hoá là cần thiết. Về sau, qua thực tế đấu tranh xã hội, Lỗ Tấn tiếp thu chủ nghĩa Mac - Lênin. Hơn 20 năm sử dụng ngòi bút như vũ khí, Lỗ Tấn tập trung mổ xẻ các căn bệnh tinh thần của đồng bào mình. Biểu hiện tập trung nhất là "phép thắng lợi tinh thần" được miêu tả sinh động trong thiên truyện vừa nổi tiếng "AQ chính truyện" (1921). Đó là tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất tư tưởng và phong cách nhà văn. Trong hàng loạt các tập "tạp văn", Lỗ Tấn còn lên án mạnh mẽ các loại kẻ thù của nhân dân, của cách mạng như bọn phong kiến, bọn quân phiệt tay sai đế quốc, chính quyền tư sản phản động cùng bọn bồi bút chó săn. Đó là những thế lực đang lợi dụng sự mê muội và sự tự thoả mãn của nhân dân để cản phá con đường giải phóng dân tộc. Lỗ Tấn còn là nhà nghiên cứu lịch sử văn học, để lại hai bộ sách có giá trị: "Đại cương lịch sử văn học Hán", "Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc". Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm dịch văn học Nga, Xô Viết, Đông Âu, Bắc Âu, vv. Lỗ Tấn phát huy đầy đủ thiên chức văn nghệ, hỗ trợ đắc lực cho công cuộc giải phóng dân tộc, trở thành ngọn cờ của nền văn học cách mạng Trung Quốc. 15/ NGUYỄN ĐÌNH THI( 1924 – 2003) Nguyễn Đình Thi quê ở Hà Nội. Nguyễn Đình Thi nổi tiếng thông minh, học rất giỏi tất cả các môn. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông học Luật ở Đại học Đông Dương và trở thành một trong những cán bộ chủ chốt của Hội Văn hoá Cứu quốc. Là trí thức yêu nước, Nguyễn Đình Thi đã sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng trung kiên. Ông đã từng là đại diện của Việt Minh trong Đảng Dân chủ. Hai lần bị kẻ thù bắt bớ, tra tấn, mua chuộc nhưng ông vẫn một lòng thuỷ chung với cách mạng. Tháng 7.1945, Nguyễn Đình Thi được đi dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào và được cử vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Từ đó cho đến cuối đời, Nguyễn Đình Thi liên tục đảm nhận những cương vị quan trọng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Tổng thư ký Hội Văn nghệ, Tổng thư ký Hội Nhà văn, Chủ tịch Uỷ ban
  9. Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam. TÁC PHẪM Truyện Xung kích (1951) Bên bờ sông Lô (tập truyện ngắn, 1957) Vào lửa (1966) Mặt trận trên cao (1967) Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970) Tiểu luận Mấy vấn đề văn học (1956) Công việc của người viết tiểu thuyết (1964) Thơ Người chiến sỹ (1958) Bài thơ Hắc Hải (1958) Dòng sông trong xanh (1974) Tia nắng (1985) Kịch Con nai đen Hoa và Ngần Giấc mơ Rừng trúc Nguyễn Trãi ở Đông Quan Tiếng sóng Nhạc Người Hà Nội Diệt phát xít 15/ Vũ Khoan (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1937) là Phó Thủ tướng Việt Nam từ tháng 8 năm 2002 đến cuối tháng 6 năm 2006. Ông được nhiều người cho là có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam. Phó thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại Ông tốt nghiệp Trường Sư phạm Leningrad (Liên Xô). Trình độ: cử nhân kinh tế. Năm 1956, ông vào công tác ở Bộ Ngoại giao và làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, lần lượt giữ các chức vụ : Tuỳ viên, Bí thư thứ ba, Bí thư thứ nhất, Tham tán, Tham tán công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cho đến năm 1982. Từ 1982, là Vụ phó, rồi trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế, rồi trợ lý Bộ trưởng, phụ trách về các vấn đề luật pháp, kinh tế và lãnh sự. Ông giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao từ 1990 đến 1999. Từ 1998 là Thứ trưởng thường trực phụ trách quan hệ với các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, quan hệ với ASEAN, ASEM, APEC, công tác nghiên cứu, hợp tác kinh tế, lãnh sự, pháp luật, báo chí, đào tạo. Từ năm 2000 đến năm 2002, ông là Bộ trưởng Bộ Thương mại trong Chính phủ Việt Nam. Từ năm 2002 đến năm 2006, ông là Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về APEC. Sau khi thôi chức Phó Thủ tướng, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cử làm đặc phái viên của Thủ tướng về đối ngoại, Tổng chỉ huy các hoạt động Tuần lễ cấp cao APEC 2006 Hà Nội cuối năm 2006. Ông còn là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, ủy viên Trung ương Đảng từ khóa VII đến khóa IX (1991-2006). Sự nghiệp của ông là bề dày với các cuộc thương thuyết đàm phán, khởi sự là hoà đàm Paris trong thời gian chiến tranh, sau đó vấn đề người di tản, việc Việt Nam gia nhập ASEAN và khu mậu dịch tự do của khối này, kế đến là Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và một chặng đường dài với cuộc thương thuyết gia nhập WTO. Ông là quan chức Nhà nước Việt Nam đầu tiên được vào Phòng Bầu Dục Nhà Trắng gặp gỡ tổng thống Bill Clinton lúc bấy giờ, trong dịp Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Ông lập gia đình với bà Hồ Thể Lan, con gái của Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di.
  10. 16/ THANH HẢI Tiểu sử - Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930. Quê ở Hương Điền, Thừa Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1878 ). Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông công tác tại đoàn Văn công tỉnh, rồi ở lại hoạt động, làm tuyên huấn ở cơ quan khu ủy Trị Thiên thời chống Mỹ cứu nước. Từ 1975 , ông là Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Bình Trị thiên. Ông từng là ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông mất năm 1980 tại Huế. Tác phẩm chọn lọc - Những đồng chí trung kiên (1962); - Huế mùa xuân (2 tập, 1970-1975), - Dấu võng Trường Sơn (1977); - Mưa xuân đất này (1982); - Thơ tuyển (1982). Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu 1965 . 17/ HỮU THỈNH Tiểu sử Hữu Thỉnh còn có bút danh Vũ Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương (nay là huyện Tam Đảo), tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1976). Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống nho học. Đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch .cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân. . . và bị đánh đập tàn nhẫn. Chỉ thực sự được đi học từ sau hoà bình lập lại ( 1954). Tốt nghiệp phổ thông năm 1963 . Vào bộ đội Tăng - Thiết giáp. Đơn vị nhập ngũ đầu tiên là Trung đoàn 202, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo, làm cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 9 - Nam Lào (1970-197 l), Quảng Trị ( 1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau 1975, học Đại học Văn hoá (Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I). Từ 1982: Cán bộ biên tập, Trưởng ban thơ, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội . Từ 1990 đến nay, chuyển ngành ra Hội Nhà văn Việt Nam, làm Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ. Đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5 , ủy viên Ban Thư ký khoá 3. Hiện nay là Phó Tổng thư ký thường trực Hội, ủy viên thường vụ Đảng uỷ khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng uỷ Đảng bộ cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá X). Tác phẩm chọn lọc Các tập thơ: - Âm vang chiến hào (in chung); - Đường tới thành phố (trường ca); - Từ chiến hào tới thành phố (trường ca, thơ ngắn); - Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung); - Thư mùa đông - Trường ca biển. Ngoài ra còn viết nhiều bút kí văn học, viết báo. Ông đã được Giải 3 cuộc thi báo Văn nghệ 1973 cho bài Mùa xuân đi đón ; Glải A cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1975- 1976, cho bài Chuyến đò đêm giáp ranh, trường ca Sức bền của đất. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 cho trường ca Đường Tới thành phố. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 cho tập thơ Thư mùa đông; Gỉải xuất sắc Bộ Quốc phòng 1994 cho
  11. Trường ca biển ; Giải nhất Bộ đại học - Trung học - Chuyên nghiệp và Trung ương Đoàn năm 1991 cho bài Thưa thầy. 18/ Viễn Phương, tên thật Phan Thanh Viễn (1 tháng 5 năm 1928 - 21 tháng 12 năm 2005), là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là nhà thơ Việt Nam. 1. Cuộc đời & sự nghiệp Viễn Phương, quê gốc Tân Châu, An Giang. Thuở nhỏ ông đi học, đến khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ (1945), ông đến đầu quân và được xếp vào Chi đội 23. Chi đội này hoạt động trên một địa bàn rộng lớn thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Từ cảm xúc có thật trên mỗi chặn đường chiến đấu gian khổ, những bài thơ của ông đã lần lượt ra đời, và được đăng trên báo Tiếng Súng Kháng Ðịch, là tờ báo duy nhất của Khu 9 Nam Bộ lúc bấy giờ. Năm 1952, Nam Bộ tổ chức giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật lấy tên Giải thưởng Cửu Long, thì trường ca Chiến thắng Hòa Bình của ông được xếp giải nhì về thơ. Không lâu sau, Chi hội Văn nghệ Nam Bộ tổ chức đại hội, ông được bầu vào Ban chấp hành. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông được phân công về Sài Gòn hoạt động. Về Sài Gòn, ông đi dạy học, làm thuê kiếm sống nhưng công việc chủ yếu vẫn là sáng tác văn thơ. Với bút hiệu Viễn Phương, ông làm thơ và viết truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn như Nhân loại, Hừng sáng, Công lý Do những bài viết có nội dung chống đối, năm 1960, ông bị nhà cầm quyền Sài Gòn bắt giam ở Chí Hòa. Trong tù, ông vẫn tiếp tục làm thơ. Sau khi ra tù (1962), ông rời Sài Gòn vào chiến trường Củ Chi tiếp tục chiến đấu và làm thơ. Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, ông liền được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh Phương Viễn và cũng sáng tác cả văn xuôi. Ông nổi tiếng với bài thơ Viếng lăng Bác (Kim Son phổ nhạc) đã được đưa vào giảng dạy ở trường phổ thông. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 1995. Nhà thơ Viễn Phương mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh .2. Tác phẩm chính Chiến thắng Hòa Bình (trường ca) Mắt sáng học trò (thơ, 1970) Nhớ lời di chúc (trường ca, 1972) Như mây mùa xuân (thơ, 1978) Phù sa quê mẹ (thơ, 1991). Thơ với tuổi thơ. (thơ thiếu nhi, 2002) Gió lay hương quỳnh (thơ, 2005). Anh hùng mìn gạt (truyện ký, 1968) Quê hương địa đạo (truyện v Sắc lụa Trữ La (truyện ngắn, 1988)
  12. Ngàn say mây trắng (truyện và ký, 1998). Lòng mẹ (truyện thiếu nhi, 1982). Miền sông nước (truyện và ký, 1999). Tháng bảy mưa ngâu (truyện và ký, 1999. Đã dịch sang tiếng Anh). Đá hoa cương (truyện và ký, 2000). Ngôi sao xanh (truyện thiếu nhi ). à ký ) 3. Nhận xét Thơ Viễn Phương đã được nhiều nhà thơ khen ngợi, trong số đó có Chế Lan Viên, Tô Hoài, Triệu Xuân, Nguyễn Xuân Nam, Mai Văn Tạo. Trích nhận xét của nhà văn Mai Văn Tạo: Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc, nhưng không bị lụy, cường điệu nỗi đau Thơ ông lung linh hình bóng người phụ nữ miền Nam và Mẹ. ấn tượng nhiều măt về người mẹ rất đậm đà, thắm thiết. Anh viết rất nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, những người phụ nữ trong các đề lao, người nữ chiến sĩ hy sinh trong ngọn lửa, những nữ học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn "xuống đường" trong những ngày "bão tố đô thành", người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng ở chiến khu, người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, bà mẹ đưa đường các anh bộ đội - bà mẹ ấy nói những lời rất thật, như dặn dò, như lời thề quyết tử: "Ðể má cầm đuốc đi trước, gặp giặc má chúc ngọn đuốc xuống, các con ở sau biết mà tránh. Nếu chúng bắn má chết, tức là chúng báo động các con" (Lời má Sáu). Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ. 19/ Y Phương Tên thật: Hứa Vĩnh Sước Sinh năm: 1948 Nơi sinh: Trùng Khánh, Cao Bằng Năm 1968 ông nhập ngũ đến năm 1981 về công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng. 1993, ông là Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thể loại: thơ, kịch Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ; tư duy giàu hình ảnh của người dân miền núi. Các tác phẩm: Người núi Hoa (1982) Tiếng hát tháng giêng (1986) Lửa hồng một góc (1987)
  13. Lời chúc (1991) Đàn then (1996). Thơ Y Phương (2002) 20/ TAGO R.: (Rabindranath Tagore; 1861 - 1941), nhà văn, nhà văn hoá lớn Ấn Độ. Xuất thân trong gia đình quý tộc Ba La Môn có nhiều người là nhân tài của đất nước. Cha là Đêbenđranat Tago (Debendranath Tagore), triết gia, nhà cải cách xã hội. Thủa nhỏ, Tago nổi tiếng thông minh, tự học, giỏi văn, biết ngoại ngữ; 8 tuổi đã làm thơ, 11 tuổi ahhyes dịch tác phẩm "Macbet" ("Macbeth") của Sêchxpia (W. Shakespeare) ra tiếng Bengali. Tago còn soạn nhạc, vẽ và viết kịch , mặt nào cũng đạt đỉnh cao của tài năng. Tago yêu nước, yêu hoà bình, có lòng nhân đạo sâu sắc. Năm 1901, lập Trường Xantinikêtan (Santiniketan) cho con em nông dân ăn học. Tago coi trọng truyền thống văn hoá Ấn Độ, kết hợp văn hoá Đông và Tây, mở Trường Đại học Vixva - Bharati (Visva - Bharati) (1921), thu hút thanh niên thế giới đến tìm hiểu văn hoá Ấn Độ. Từ 1916, Tago đi thăm nhiều nước để tìm hiểu văn hoá các nước đó. Tago để lại 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, tiêu biểu nhất là "Thơ dâng" (1912); thơ tình nổi tiếng: "Người làm vườn" (1914), "Tặng phẩm của người yêu" (1914); thơ trẻ em "Trăng non" (1915); kịch: "Lễ máu" (1890), "Phòng bưu điện" (1913); tiểu thuyết: "Đắm thuyền" (1906), "Gôra" (1910). Ngoài ra còn có hàng nghìn truyện ngắn, luận văn, bút kí, ca khúc và tranh vẽ, vv. Tago không phải là nhà văn hiện thực thuần tuý, mà theo phong cách lãng mạn trữ tình và được xem là "ngôi sao sáng của thời Ấn Độ Phục hưng". Giải thưởng Nôben (1913) về tập "Thơ dâng".