Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lý Luận văn học (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lý Luận văn học (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_lieu_boi_duong_hoc_sinh_gioi_ly_luan_van_hoc_phan_1.docx
Nội dung text: Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Lý Luận văn học (Phần 1)
- BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÍ LUẬN VĂN HỌC PHẦN 1 I. VĂN HỌC - KHOA HỌC NGHIÊN CỨU VỀ VĂN CHƯƠNG 1. Văn chương là gì? Trong vòng mấy chục năm lại đây hai khái niệm "Văn chương" và "Văn học" bị dùng lẫn lộn. Cái gọi là Văn chương thì được dùng "Văn học" để thay thế. Còn cái gọi là "Văn học" thì được dùng "Khoa Văn học " hay khoa "Nghiên cứu văn học" để thay thế. Sự lẫn lộn này không đơn thuần là lẫn lộn và tên gọi mà, lắm khi, dẫn đến sự hiểu lầm về bản chất. Vậy, Văn chương là gì? Văn chương là khái niệm dùng để chỉ một ngành nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ (chứ không phải khoa học). Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. 2. Văn học là gì? Văn học là khoa học nghiên cứu về văn chương. Nó lấy các hiện tượng văn chương nghệ thuật làm đối tượng cho mình. Sơ đồ về mối quan hệ giữa văn chương và văn học như sau: Văn học ( Văn chương ( Ðời sống Quan hệ giữa văn chương và văn học là quan hệ giữa đối tượng và chủ thể, giữa nghệ thuật và khoa học; văn chương (nghệ thuật) là đối tượng của văn học (khoa học). Lấy văn chương làm đối tượng, khoa nghiên cứu văn chương có nhiệm vụ thông qua việc nghiên cứu những hiện tượng văn chương để tìm hiểu nguyên nhân, qúa trình phát sinh và phát triển của văn chương; tìm hiểu bản chất của văn chương, khám phá ra những qui luật nội tại của văn chương; tìm hiểu sự liên quan giữa văn chương và các hiện tượng khác của cuộc sống Khoa học nghiên cứu về văn chương hướng về nhiều lĩnh vực khác nhau của văn chương để nghiên cứu, do đó, nó bao hàm trong bản thân mình rất nhiều ngành, nhiều bộ môn khác nhau: - Lí luận văn học. - Lịch sử văn học. - Phê bình văn học. Ngoài 3 bộ môn chính trên, khoa nghiên cứu văn chương còn có một loạt các bộ môn khác: - Phương pháp luận nghiên cứu văn học. - Tâm lí học văn học. - Xã hội học văn học. - Thi pháp học. Phương pháp luận nghiên cứu văn học có nhiệm vụ xác lập một hệ thống lí luận về phương pháp nghiên cứu văn chương. Tâm lí học văn học có nhiệm vụ khảo sát những đặc điểm tâm lí trong hành động sáng tác của tác giả và trong hoạt động thưởng thức của độc giả. Xã hội học văn học xem xét hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương trong thực tiển, tìm hiểu dư luận công chúng về các hoạt động văn chương. Thi pháp học có nhiệm vụ nghiên cứu cấu trúc cùng các phương tiện và phương thức thể hiện nội
- dung trong tác phẩm văn chương. Ngoài những bộ môn trên, khoa nghiên cứu văn chương còn có hai bộ môn bổ trợ là văn bản học và thư mục học. Văn bản học có nhiệm vụ giám định tính chính xác của văn bản văn chương. Thư mục học là bộ môn chuyên về lập thư mục theo những yêu cầu và mục đích nhất định. II- LÍ LUẬN VĂN HỌC LÀ GÌ? 1. Khái niệm. Lí luận văn học là bộ môn có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của văn chương. Nó có nhiệm vụ thông qua việc nghiên cứu hàng loạt tác phẩm Ðông - Tây, Kim - Cổ, tìm ra các quy luật chung nhất, cái bản chất chung của văn chương - cái mà bất kỳ tác phẩm nào được gọi là văn chương đều có sự tồn tại của nó. Ví dụ: "Văn chương phản ánh đời sống bằng hình tượng", đó là đặc tính chung của văn chương. Như vậy, những tác phẩm ngôn từ nào không phản ánh đời sống thì không gọi là văn chương. Nhưng phản ánh cuộc sống mà không bằng xây dựng những hình tượng - tức là "những bức tranh về đời sống" - thì cũng không phải là văn chương. Chẳng hạn: những bài diễn ca như diễn ca điều lệ hợp tác xã nông nghiệp, hay những bài kiểu như: "Bài ca hóa trị" là không thuộc văn chương nghệ thuật. Vì chúng chỉ là những đoạn văn vần nhằm mục đích làm cho người ta dễ thuộc, dễ nhớ những điều khoản, những công thức. Chúng không có tính hình tượng. Trong lúc đó, Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi là bộ sử thi và là những bức tranh, là "tấm gương phản chiếu cách mạng Nga" những năm đầu thế kỷ XIX. Hoặc bộ Tấn trò đời của Balzac là bức tranh hiện thực sinh động về xã hội tư sản pháp cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Hoặc cuốn tiểu thuyết bằng thơ Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về xã hội Việt Nam, những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Chúng là những tác phẩm văn chương vì chúng phản ánh đời sống dưới dạng những bức tranh về đời sống. 2. Nhiệm vụ của lí luận văn học. Lí luận văn học có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Xác định bản chất xã hội của văn chương. Tức nó chỉ ra nguyên nhân hình thành và thúc đẩy văn chương phát triển; mục đích phục vụ của văn chương là gì; văn chương có tác dụng trong đời sống xã hội như thế nào - Xác định chức năng thẩm mĩ của văn chương. Trong quá trình cải tạo thế giới, đồng hóa thế giới, con người có nhiệm vụ đồng hóa thế giới về mặt thẩm mĩ. Tức là chiếm lĩnh các giá trị thẩm mĩ của thế giới và tạo ra cho thế giới các giá trị thẩm mĩ mới. Bất kỳ một hoạt động sáng tạo nào của con người cũng có thứơ đo thẩm mĩ. Marx nói: con người sáng tạo thế giới theo qui luật của cái đẹp. Vậy văn chương, cái đẹp mà nó biểu hiện và truyền thụ cho con người là gì? Và biểu hiện bằng cách nào? cách biểu hiện có gì khác với các hoạt động sáng tạo khác của con người? v.v - Xác định qui luật phản ánh hiện thực và đặc trưng của qui luật ấy. Giữa văn chương và đời sống xã hội có quan hệ gì? Quan hệ đó như thế nào? Ðặc trưng của quan hệ đó được biểu hiện ra làm sao? - Xác định nguyên tắc xây dựng hình tượng và điển hình. Là một bộ môn nghệ thuật, văn chương biểu hiện tính nghệ thuật của mình trước hết ở tính hình tượng. Tức là ở chỗ phản ánh đời sống không phải trực tiếp khái quát thành công thức, định lí mà gián tiếp qua hình tượng. Vậy hình tượng là gì? Giữa nó với công thức, định lí khoa học khác nhau ra sao. Giữa nó - những bức tranh về đời sống - và chính đời sống giống và khác nhau như thế nào? Tại sao? Bản chất, đặc trưng của hình tượng là gì? - Xác định phương pháp phân tích tác phẩm văn chương với những tiêu chuẩn về nội dung và hình thức. Phân tích tác phẩm là làm gì và làm như thế nào? Những tiêu chuẩn nào được dùng làm căn cứ để phân tích. - Xác định các loại và thể của văn chương. Thế giới văn chương rất phong phú, đa dạng. Từ trước tới nay, từ Ðông sang Tây, ta không thể tìm thấy 2 tác phẩm nào giống nhau hoàn toàn. Tuy vậy, sáng tạo nghệ thuật không phải là tùy tiện, tùy hứng, mà là một công việc được tiến hành một cách có nguyên tắc, có căn cứ, theo một phương thức nhất định. Những tác phẩm có cùng một phương thức phản ánh, một cách thức xây dựng tác phẩm sẽ được xếp vào một loại nhất định và trong từng loại sẽ có các thể.
- - Xác định qui luật phát sinh và phát triển các trào lưu và phương pháp sáng tác. Sáng tác văn chương cũng như nhiều hoạt động nhận thức và sáng tạo khác của con người là phải có phương pháp, có nguyên tắc. Lí luận văn học chỉ ra những nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật bao quát của mối quan hệ giữa nghệ sĩ và thực tại đời sống trong quá trình xây dựng hình tượng. 3. Lí luận văn học với một số ngành nghiên cứu văn học, nghệ thuật. 3.1. Lí luận văn học với Lịch sử văn học Lịch sử văn học là bộ môn nghiên cứu lịch sử của văn chương. Nó có nhiệm vụ nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển của các hiện tượng văn chương dân tộc để xác đặc điểm, vai trò vị trí, ý nghĩa, tác dụng của chúng; vạch ra sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn chương , các giai đoạn văn chương, các hiện tượng văn chương. Ví dụ: Quy luật phát sinh và phát triển của văn chương Việt Nam là gì? Sự giống nhau và khác nhau giữa nó với văn chương các dân tộc khác ra sao? Giữa lí luận văn học và lịch sử văn học có mối quan hệ mật thiết. Cả hai đều có cùng đối tượng là văn chương. Một bên sẽ nghiên cứu phương diện cấu trúc của văn chương, một bên khác nghiên cứu phương diện sinh thành của văn chương. Nhưng chúng quan hệ qua lại. Không có cái này thì sẽ không có cái kia và ngược lại. Cái này sẽ làm tiền đề cho cái kia và ngược lại. Nghĩa là nếu không có quá trình phát triển của văn chương thì cũng không thể có quy luật và đặc trưng chung của văn chương. Mặt khác, nếu không thấy được đặc trưng, quy luật chung thì cũng không chỉ ra được quá trình phát triển của văn chương. 3.2. Lí luận văn học với Phê bình văn học Phê bình văn học là bộ môn chuyên phát hiện, phân tích bình giá các hiện tượng văn chương cụ thể mới ra đời theo quan điểm hiện đại. Nó có nhiệm vụ cổ xúy những thành tựu văn chương theo một khuynh hướng nhất định; đồng thời, công kích những khuynh hướng trái ngược. Phê bình văn học còn có nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ, gợi ý cho người thưởng thức và vạch rõ ưu khuyết điểm cho người sáng tác. Ví dụ: Một tác phẩm văn chương nào đó mới xuất hiện, nhà phê bình có nhiệm vụ xem xét, định giá cho nó; giá trị nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật đối với đương đại và đối với truyền thống cũng như đối với thế giới Phê bình văn học và lịch sử văn học đều đề cập tới những hiện tượng văn chương cụ thể. Nhưng phê bình văn học đứng trên quan điểm hiện đại để bình giá một một hiện tượng văn chương mới ra đời. Cho nên, tính hiện đại và tính thời sự là đặc điểm quan trọng của phê bình văn học. Còn lịch sử văn học, tính lịch sử lại là đặc điểm quan trọng. Nghĩa là nó nghiên cứu những hiện tượng văn chương đã xảy ra và trở nên ổn định. Người ta không thể tìm thấy gương mặt toàn diện của một nền văn chương trong quá khứ hay trong hiện tại ở phê bình văn học, nhưng điều đó lại là yêu cầu bậc nhất của lịch sử văn học. Phê bình văn học, lịch sử văn học đề cập tới những hiện tượng cụ thể, lí luận văn học nghiên cứu những quy luật chung nhất. Cho nên, phê bình văn học và lịch sử văn học sẽ cung cấp những nhận định khái quát cho lí luận văn học. Ngược lại lí luận văn học được xem như là bộ môn triết học cụ thể của văn chương. Nghĩa là nó cung cấp quan điểm, kiến thức cho phê bình văn học. Cũng trên ý nghĩa ấy, về cơ bản, lí luận văn học được xem như là môn phương pháp của phê bình văn học và lịch sử văn học. 3.3. Lí luận văn học và Phương pháp luận nghiên cứu văn học Ngày nay, trong quá trình phát triển của mình. Khoa nghiên cứu văn học hình thành bộ môn mới: phương pháp luận nghiên cứu văn học. Phương pháp luận nghiên cứu văn học có nhiệm vụ xác lập hệ thống những lí luận về phương pháp nghiên cứu văn chương. Nó chỉ ra sự vận dụng những quan điểm Mác - xít, những tri thức khoa học và phương pháp nói chung vào nghiên cứu văn chương và chỉ ra và chỉ ra phương pháp có tính chất đặc thù nghiên cứu văn chương. Nghiên cứu văn học là một khoa học. Ðã là khoa học thì không thể có phương pháp. Nếu không có phương pháp thì không thể có khoa học. Vì, phương pháp là con đường dẫn đến kiến thức. Nhưng giữa nhà khoa học xã hội và nhà khoa học tự nhiên, con đường dẫn đến kiến thức ấy là không giống nhau, mà là, có tính đặc thù. Hệ thống lí luận những phương pháp nghiên cứu văn chương sẽ mở đường cho các nhà nghiên cứu văn học nhanh chóng tiếp cận với chân trời khoa học.
- So với lí luận văn học, phê bình văn học, lịch sử văn học thì phương pháp luận là khoa học của khoa học. Hay nói cách khác nó là loại siêu khoa học. Các khoa học: lí luận văn học, lịch sử văn học, phê bình văn học có phương pháp luận của mình. Ðó là, phương pháp luận lí văn học, phương pháp luận lịch sử văn học, phương pháp luận phê bình văn học Ðấy cũng là tất cả lí do vì sao lí luận văn học là một bộ môn khó, trừu tượng, rất mới đối với học sinh phổ thông nhưng lại được bố trí vào học ngay đầu năm thứ nhất. 3.4. Lí luận văn học với Mĩ học Theo Lukin, Mĩ học là khoa học về thẫm mĩ trong hiện thực, về bản chất và quy luật của nhận thức thẩm mĩ và hoạt động thẩm mĩ của con người, là khoa học về các quy luật chung của sự phát triển nghệ thuật [1] Ðối tượng của mĩ học là toàn bộ những quy luật cơ bản và phổ biến nhất của đời sống thẩm mĩ: tự nhiên, xã hội, nghệ thuật. So với mĩ học, lí luậân văn học chỉ là một ngành của khoa nghiên cứu một loại nghệ thuật. Mĩ học là khoa học phương pháp luận của lí luân văn học. Mĩ học sẽ trang bị cho người nghiên cứu văn chương nói chung và lí luận văn học nói riêng những cơ sở lí luận, những tiêu chí thẩm mĩ, sự định hướng cho lí luận văn học. Chẳng hạn, một trong những vấn đề của lí luận văn học là lí giải về hình tượng văn chương. Muốn lí giải được điều này, lí luân văn học phải xem mĩ học đã giải quyết vấn đề hình tượng nghệ thuật như thế nào, rồi dựa vào đó mà lí giải hình tượng văn chương. 3.5. Lí luận văn học với Ngôn ngữ học Ngôn ngữ học nghiên cứu mọi hoạt động ngôn từ của con người để xác định đặc điểm và quy luật của các ngôn ngữ dân tộc. Như vậy, đối tượng của ngôn ngữ học là ngôn ngữ của dân tộc nói chung. Trong lúc đó đối tượng của lí luân văn học là văn chương nghệ thuật. Lí luận văn học có đề cập đến vấn đề ngôn ngữ, nhưng là ngôn ngữ văn chương nghệ thuật, với tư cách là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật. Hơn nữa, ngôn ngữ đối với lí luận văn học chỉ là một trong các phương diện của hiònh thức nghệ thuật. III. LƯỢC SỬ LÍ LUẬN VĂN HỌC Quá trình phát triển của lí luận văn học thực chất là quá trình phát triển của nhận thức con người đối với văn chương. Quan hệ giữa lí luận văn học với sáng tác văn chương là quan hệ nhân quả biện chứng. Lí luận văn học, vì vậy, đã hình thành từ lâu. Lí luận văn học thực chất là vũ khí lí luận về văn chương, là vũ khí đấu tranh giai cấp. Có thể khẳng định rằng lịch sử lí luận văn học là lịch sử đấu tranh và phát triển để đi đến khẳng định của lí luận văn học duy vật cách mạng. Trên con đường đó, nó luôn luôn đấu tranh chống lại lí luận văn học duy tâm, phản động Lí luận văn học nhân loại đã hình thành từ lâu: phương Tây, chí ít. có từ thời Hilạp cổ đại vói hai nhà lí luận văn học đáng lưu ý là Platông và Aristốt; phương Ðông (Trung Quốc) có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, với người đại biểu là Khổng Tử. Tuy vậy, chỉ có từ khi chủ nghĩa Mác ra đời với thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng, lí luận văn học Mácxít ra đời mới khắc phục được tình trạng siêu hình, máy móc, không tưởng, thậm chí duy tâm, phản động trước đây và đã trở thành một khoa học thực sự chân chính. 1. Lí luận văn học trước C. Mác 1.1. Lí luận văn học phương Ðông (Trung Quốc, Việt Nam). Lí luận văn học phương Ðông sớm phát triển trong xã hội nô lệ ở Ai Cập, Ấn Ðộ, Trung Quốc a. Lí luận văn học cổ Việt Nam Cho đến nay, tư liệu về lí luận văn học cổ Việt Nam chưa sưu tập được đầy đủ. Nhưng, dựa trên những tư liệu đã có, chúng ta có thể hình dung được rằng nền lí luận văn học cổ Việt Nam đã có từ lâu (chí ít cũng từ thế kỷ thứ X, cùng thời với việc xuất hiện văn chương thành văn) và khá phong phú. Sau đây là điểm qua đôi nét về những vấn đề văn chương mà ông cha ta tập trung bàn đến: - Về đối tượng và nội dung của văn chương:
- Lê Quý Ðôn viết: " thơ có ba điều chính : một là tình, hai là cảnh, ba là sự "[1] Nguyễn Văn Siêu viết: "Văn và đạo tuy khác tên, nhưng kỳ thực văn do đạo mà ra." - Giữa văn chương và đời sống có mối quan hệ chặt chẽ: Phan Huy Chú: "Xem đến văn thì biết được đạo." Nhữ Bá Sĩ viết: "Văn chương là cái hiện trạng một thời đã làm nên nó." - Về tính chất và chức năng của văn chương: Tính chân thực là yêu cầu quan trọng nhất của văn chương. Lê Quí Ðôn: "Ba trăm bài thơ trong "Kinh thi" phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra, mà cũng có văn sĩ đời sau không theo kịp. Như thế là vì nó chân thực."[1] Ngô Thời Nhậm cho rằng thơ "Chỉ cốt ở thuần hậu, giản dị, thẳng thắn, không giả dối, xảo trá " - Chức năng nhận thức của thơ, văn được nhấn mạnh: Ngô Thì Sỹ viết: "Văn chương có quan hệ đến đời mà đạo khiến người tài phải coi việc giáo hóa là trước nhất." Ngô Thì Nhậm viết: " rốt cuộc chú trọng ngăn chặn đều xấu, bảo tồn điều hay mới là đặc sắc chính của thơ vậy". - Về tương quan giữa nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức phải hài hòa, nhưng nội dung chiếm vị trí ưu tiên. Nguyễn Ðức Ðạt viết: "Ngày xưa, quân tử lấy lí làm xương cốt, lấy văn làm da thịt, xương cốt nhiều quá thì cứng rắn, da thịt nhiều quá thì yếu ớt. Da thịt và xương cốt phải xứng nhau thì hơn, không được thế thà cứng rắn còn hơn yếu ớt". - Về kế thừa truyền thống và tiếp thu nước ngoài; chống tư tưởng nệ cổ: Nguyễn Trường Tộ viết: "Ðến ngày nay còn nhiều người không lĩnh hội được cái sự thể biến thiên qua đời xưa và đời nay mà lại cực lực ngợi khen thời thượng cổ, cho rằng đời sau không theo kịp, họ làm gì cũng muốn trở về xưa. Bọn Tống nho làm cho nước nhà lầm đường và trở thành ủy mĩ không thể chấn hưng được là vì thế. Thật rõ đời xưa mọi việc đều kém xa đời nay. Kẻ trí giả không ngoái cổ về dỉ vãng mà chỉ chăm lo việc tương lai."[1] - Chống nô lệ nước ngoài: Hoàng Ðức Lương viết: "Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, lẽ đâu không có quyển sách nào để làm gốc rễ, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Ðường, như thế chẳng đáng thương xót lắm sao!" Nguyễn Hành viết: " cầu ở nước ngoài sao bằng tìm ở nước nhà". - Về người sáng tác: Người sáng tác phải có tài năng, hiểu nhiều biết rộng. Lê Hữu Kiều viết: "Người làm thơ hay được như vậy tất phải là người tài hoa, tính tứ vượt bậc, bụng dạ chung đúc bao la mà lại là người có học vấn đầy đủ, kiến văn rộng rãi". Người sáng tác phải lịch lãm, từng trải. Phan Huy Vịnh: "Không ai là không nhờ du lịch muôn dặm mà sau đó mới tới được cỏi thần diệu". Còn rất nhiều vấn đề khác về văn chương mà cha ông ta bàn đến, nhưng không có điều kiện để trình bày hết ở đây. Trong điều kiện còn rất thiếu thốn về tư liệu nên chúng ta chưa thể đánh giá đúng mức về qui mô và tính chất của di sản lí luận văn nghệ cổ của cha ông ta. b. Lí luận văn học cổ Trung Quốc: Lí luận văn học Trung Quốc cổ đại được thành tựu trong thời kỳ phong kiến. Do phát triển trong khuôn khổ chế độ phong kiến, triết học Trung Quốc chưa đạt đến chủ nghĩa duy vật triệt để và phép biện chứng, lê luáûn vàn hoüc Trung Quốc cổ dựa trên cơ sở ấy không có một trình độ khoa học cao. Tuy vậy, trong mấy nghìn năm phong kiến, Trung Quốc xuất hiện nhiều nhà lí luận văn nghệ đáng lưu ý: Khổng Tử, Lưu Hiệp, Bạch Cư Dị, Viên Mai Khổng Tử (551 - 479 trước CN) là người đặt nền móng cho mĩ học và lí luận văn học Trung Quốc truyền thống trong suốt mấy nghìn năm. Với Luận ngữ của ông, khoa nghiên cứu văn chương Trung Quốc được bắt đầu.
- Ông có một quan niệm về văn chương khá toàn diện; văn chương gắn liền với xã hội, với chính trị, với đạo đức và có giá trị nhận thức. - "Thơ có thể làm phấn khởi ý chí, có thể giúp quan sát phong tục, hòa hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại được biết nhiều tiếng chim muông cây cỏ" (Luận ngữ). - "300 bài kinh thi, nói tóm lại một câu là không suy nghĩ bậy bạ" (Luận ngữ). - "Ðọc thuộc 300 bài kinh thi, giao nhiệm vụ không làm được, sai đi sứ nước ngoài không làm được, phỏng có ích gì". (Luận ngữ). Lưu Hiệp (465 - 520) Với tác phẩm Văn tâm điêu long - công trình lí luận văn học nổi tiếng, ảnh hưởng đến hàng nghìn năm sau, đã có một quan niệm toàn diện về văn chương : bản chất, chức năng, nội dung, hình thức của văn chương. Và đặc biệt là loại thể văn chương, ông bàn khá tỉ mỉ. - "Thơ giữ tính tình, mở đường cho cái đẹp cái tốt, ngăn giữ cái xấu". - "Thời thịnh văn thịnh, thời suy văn suy". - "Không nói đến văn chương có lẽ không phải là người lo việc lớn, văn thái phát ra ngoài làm cho ở ngoài rực rỡ, tô vẽ thêm cái bản chất tốt đẹp, văn phải là cái để cai quản quân nước; văn đâu phải là cái không làm cho chính mình rực rõ, nó còn làm cho cả nước sáng chói". Bạch Cư Dị (772 - 846), nhà lí luận xuất sắc đời Ðường. Có thể xem những bức thư của ông gởi Nguyên Chẩn là cương lĩnh thơ ca đời Ðường. Quan niệm văn chương của ông mang tính hiện thực và tính nhân dân sâu sắc: "Vị quân, vị thần, vị dân, vị sư, vị vật, nhi tác, bất vị văn nhi tác". Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức, nội dung phải thống nhất với hình thức, nội dung chiếm ưu tiên so với hình thức. Ông có một định nghĩa khá lí thú về thơ "Căn tình, miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa". Viên Mai (1716 - 1797) có nhiều kiến giải về thơ khá cụ thể và sâu sắc, ông đề cao tính hiện thực, tính kế thừa và sáng tạo, tính nhân dân của thơ ca. "Thơ khó ở chỗ chân thật, mắt chưa thấy, chân chưa tới mà cứ miễn cưỡng làm ra thì chẳng khác nào phơi nắng dưới mái hiên"; "Không học cổ nhân thì không có gì cả, hoàn toàn giống cổ nhân thì không tìm đâu ra mình cả" ; "Ðàn bà, con gái, kẻ dốt nát quê mùa, thỉnh thoảng làm một vài câu cho dù Lí Bạch, Ðỗ Phủ có sống lại cũng phải cúi đầu". Cần lưu ý rằng: Trong lịch sử lí luận văn học Trung Quốc cổ, bên cạnh những nhà lí luận với quan niệm văn nghệ mang tính nhân dân và tính hiện thực, luôn xuất hiện những người mang những quan niệm về văn nghệ bảo thủ, duy tâm, phản động. Chẳng hạn: - Trang Tử (369 - 286 trước CN) với thuyết "vô vi" và "tương đối" luận đã lí giải cái đẹp là tương đối, là "bất khả tri". - Hàn Dũ (786 - 824) chủ trương "văn dĩ minh đạo" và "đạo" theo ông là "Tiên vương chi đạo". - Chu Ðôn Di (1717 - 1073) thì cho rằng "văn dĩ tải đạo". "Văn là để chở đạo, cũng như xe để chở đồ vật vậy. Bánh xe và càng xe được trang hoàng mà không dùng đến, đó là trang hoàng phí công, huống chi là xe không?" Tóm lại: Tư tưởng mĩ học và lí luận văn nghệ Trung Quốc phong kiến phát triển trong một giai đoạn ngót 3000 năm. Tuy nhiều lúc đã vượt ra ngoài giới hạn của tư tưởng chính thống để đạt được những luận điểm khả thủ. Song, về cơ bản, sự phát triển ấy là ở trong khuôn khổ Khổng giáo và Lão giáo. 1.2 Lí luận văn học phương Tây Lí luận văn học phương Tây có một lịch sử phát triển khá lâu đời, phong phú và đạt được những thành tựu rực rõ, đặc biệt có những đỉnh cao tiếp cận văn chương Mác xít a. Lí luận văn học thời Hy Lạp - La Mã cổ đại. Tư tưởng mĩ học, lí lwnj văn học Hy - La cổ đại đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển cả về sau này. nhiều vấn đề quan trọng nhất về bản chất, vai trò xã hội của văn nghệ đã được đặt ra. Học thuyết về sự bắt chước nghệ thuật đã nhấn mạnh sự tuỳ thuộc của nghệ thuật đối với thế giới thực tại. Tư tưởng về ý nghĩa giáo dục của nghệ thuật được phát triển rộng rãi. những vấn đề về loại hình loại thể, về nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật cũng được giải quyết Aristote (384-322 TCN), ngả theo con đường triết học duy vật, tư tưởng mĩ học, lí luận văn học của Aristote là tư tưởng duy vật. Cuốn "Thi học" của ông có thể coi là công trình tông hợp tư tưởng mĩ học, lí luậ văn học phương Tây cổ đại. Ông quan niệm cái đẹp gắn liền với hiện thực khách quan. "Những hình thái
- chủ yếu của cái đẹp là trật tự trong không gian và thời gian, là tính tương ứng và tính chính xác." [1] Học thuyết về sự chắt chước của ông đã xem nghệ thuật như là một hành động sáng tạo, không quy nghệ thuật vào sự sao chép máy móc tự nhiên. giản đơn. Aristote nhấn mạnh vai trò nhận thức to lớn của sáng tạo nghệ thuật, do chỗ, nghệ thuật không phải bắt chước cái đơn giản nhất mà là cái có thể xảy ra, nghệ thuật chú ý tập trung vào cái chung, cái hợp qui luật chứ không phải cái đơn nhất, cái ngẫu nhiên. Aristote còn lí giải một cách sâu sắc việc phân chia nghệ thuật ra thành ba loại: tự sự, trữ tình và kịch. Cách phân chia này đến ngày nay vẫn còn ý nghĩa. b. Lí luận văn học thời Trung cổ Thời Trung cổ, triết học duy tâm chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị, mĩ học và lí luận nghệ thuật tiến bộ bị thần học duy tâm bóp nghẹt. Augustin (354 - 430) là cha đẻ của giáo hội, cho rằng Chúa là nguồn gốc mọi cái đẹp và Chúa là cái đẹp co quí nhất. ông cho rằng nghệ thuật không nên gợi lên một hứng thú gì khác mà phải tìm hứng thú trong ý niệm gắn với Chúa. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA VĂN NGHỆ I. NGUỒN GỐC CỦA VĂN NGHỆ 1. Những quan niệm duy tâm, sai lầm về nguồn gốc văn nghệ 2. Lao động là nguồn gốc của văn nghệ II. VĂN CHƯƠNG LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC 1. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng 2. Tương quan giữa cơ sở hạ tầng với văn nghệ III. VĂN NGHỆ VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI 1. Văn nghệ với chính trị 2. Văn nghệ với triết học 3. Văn nghệ với khoa học 4. Văn nghệ với đạo đức Văn chương, cũng như các loại hình nghệ thuật khác, không phải là của cải vật chất của xã hội, cũng không phải là một lực lượng trực tiếp trực tiếp sản sinh ra một giá trị vật chất nào cho đời sống xã hội. Nhưng chúng ta sẽ không hình dung nổi một xã hội mà ở đó không có sự tồn tại của văn chương nghệ thuật Chỉ bởi, văn chương nghệ thuật chiếm giữ một vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống tinh thần của con người. Ðể tồn tại và phát triển, con người không chỉ cần "ăn ở" mà còn cần cả "múa hát". Ý thức được vai trò, giá trị của văn nghệ trong đời sống của mình, con người từ xa xưa đã muốn tìm hiểu để nắm được bản chất, quy luật, đặc trưng đặc điểm của văn nghệ hầu làm chủ nó, thúc đẩy nó phát triển. Mối quan tâm trước nhất của con người đối với văn nghệ là nguồn gốc, bản chất của nó. I. NGUỒN GỐC CỦA VĂN NGHỆ Tìm hiểu nguồn gốc của văn nghệ là tìm hiểu tác nhân chủ yếu đầu tiên nào đã làm cho văn nghệ này sinh và phát triển. Tức là xác định khởi điểm những mâu chuẩn đối lập nội tại và ngoại tại nào làm cho văn nghệ này sinh và phát triển. Từ hàng nghìn năm nay, loài người đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc văn nghệ. Nhưng tựu trung, đều có thể quy về hai loại quan điểm: quan điểm duy tâm và quan điểm duy vật về nguồn gốc văn nghệ. 1. Những quan niệm duy tâm, sai lầm về nguồn gốc nghệ thuật.
- a. Quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật. Các quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật rất đa dạng nhưng đều thống nhất ở một điểm là cho rằng : cái đã làm cho văn nghệ nảy sinh là một lực lượng siêu nhiên, thần kỳ ngoài đời sống con người. - Quan niệm thần thoại Thần thoại Phương Ðông (Ấn Ðộ, Trung Quốc ) Thần thoại Phương Tây (Hy Lạp ) đều giải thích nguồn gốc thơ ca là do các vị thần nhà trời tạo ra. Từ quan niệm các thần trên thiên đình tạo ra nghệ thuật đã đưa đến quan niệm khá phổ biến trong sáng tác là "thần hứng" , được nhiều người tán đồng. Theo quan niệm này thì các nghệ sĩ bỗng dưng cảm xúc trào dâng đã sáng tác được những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời. Ấy chính là lúc "thần hứng" đã nhập vào người họ, "nàng thơ" đã đến với họ. Chứng cớ là có nhiều tác phẩm nghệ thuật tuyệt diệu ra đời trong những giấc mơ như các bản nhạc của Tác - ti - ni, của Sô - panh - Thuyết ma thuật Một quan niệm có tính chất tôn giáo nữa là thuyết ma thuật. Ma thuật là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy. Ma thuật là những nghi lễ nhằm tác động hư ảo vào tự nhiên khi con người bất lực trước tự nhiên. Người nguyên thủy gán cho các hiện tượng tự nhiên khó hiểu ma lực. Họ thường hay cầu nguyện, tế lễ, ca hát, nhảy múa để cầu mong sự phù hộ của lực lượng siêu phàm nào đó. Chẳng hạn, người nguyên thủy cho rằng nhật thực là điềm báo tai họa, vì vậy, phải nổi trống, chiêng lên để xua đuổi ác quỷ. Ðể cầu mong thần linh và tạ ơn thần linh giúp đỡ trước và sau lúc săn bắt, họ có lễ cầu nguyện tế các thần. Tục đeo móng vuốt, răng, da của các loài thú dữ là để làm bùa hộ mệnh. Một số học giả cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là Reinach ở Pháp và Nga, đã căn cứ vào nghi tiết phù chú của ma thuật nguyên thủy để cho rằng nghệ thuật ra đời từ ma thuật. Như đã nói, sai lầm cơ bản của quan niệm tôn giáo về nguồn gốc nghệ thuật là ở chỗ cho rằng nghệ thuật nảy sinh do yếu tố siêu nhiên cách xa đời sống con người. Việc các nhà nghệ thuật và khoa học sản sinh ra được những tác phẩm, những công trình xuất sắc từ giấc mơ là có thật. Nhưng đó không phải do ma lực mà chính là do năng lực của chính người sáng tác. Khoa học đã chứng minh rằng, trong khi ngủ một vùng nào đó của bộ óc các nhà nghệ sĩ và khoa học vẫn hoạt động. Ma thuật nguyên thủy là có thật. Người nguyên thủy do chưa làm chủ được tự nhiên và bản thân mình trên thực tế, nên đã phải làm chủ nó, chiến thắng nó bằng ảo tưởng. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa đã chi phối mạnh mẽ đời sống người nguyên thủy. Thế giới quan thần linh chủ nghĩa là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ, trong sự phản ánh đó những lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu phàm. Ðiều đó đã phản ánh tình trạng bất lực của con người trước các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên. Như vậy, tôn giáo ra đời là do con người khiếp nhược trước tự nhiên. Còn nghệ thuật, như mọi người đều biết là phương tiện khẳng định cuộc sống. Nghệ thuật đưa lại cho con người những cảm xúc trái ngược với tôn giáo. Hơn nữa, cần phải thấy rằng tôn giáo thời nguyên thủy khác xa với tôn giáo trong xã hội có giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị lợi dụng làm phương tiện ru ngủ và áp bức quần chúng. Thời nguyên thủy, đằng trong bộ áo duy tâm ấy là cả hạt nhân thực tiễn: vì cuộc sống thực sự của chính người nguyên thủy. Cầu nguyện tế lễ là mong cho các cuộc săn bắt đạt được kết quả hơn ; Ðeo móng vuốt hổ, gấu là để mong có sức mạnh như chúng, là chiến tích; xâm mình là để ngụy trang. b. Quan niệm bản năng về nguồn gốc nghệ thuật. - Thuyết bản năng du hí. Ðây là thuyết duy tâm về nguồn gốc nghệ thuật thịnh hành và có ảnh hưởng nhất ở Tây Âu. Kant (1724 - 1801), nhà triết học duy tâm chủ quan Ðức, cho rằng tác phẩm nghệ thuật là một cứu cánh nội tại, không có mục đích ý nghĩa nào ngoài bản thân nó, nghệ thuật là một trò chơi không vụ lợi. Schiller (1759 - 1805), nhà văn Ðức, cũng cho rằng đặc trưng của cảm thụ thẩm mĩ là xu hướng tự do vui vẻ. Yếu tố kích thích thứ nhứt và quyết định của sáng tác nghệ thuật là xu hướng du hí bẩm sinh của con người. Spencer (1820 - 1903), nhà triết học và xã hội học Anh, bổ sung vào học thuyết của Schiller lí luận về sự phát tiết của
- sinh lực thừa. Theo ông, ở động vật bậc cao và ở con người, sinh lực rất dồi dào, nó không thể tiêu hao hết cho nhu cầu sinh tồn, phần dư thừa phải phát tiết ra ngoài. Con hổ vồ mồi, con mèo chạy vờn theo cuộn len, con mèo vờn chuột là những hình thức của sự tiêu hao sinh lực thừa. Những cái đó là vô mục đích. Nghệ thuật ở mức độ cao hơn, nhưng xét nguồn gốc thì thực chất cũng là một thứ trò chơi vô mục đích, là sự phát tiết sinh lực thừa. Một số học giả duy vật dung tục lại dựa trên một số nhận xét của Darwin (1809 - 1882), nhà bác học sinh vật Anh về bản năng tự làm đẹp của động vật để đề ra thuyết bản năng mỉ cảm ở con người. Bản năng mỉ cảm ở con người vốn là bản năng bẩm sinh, bản năng sinh vật chứ không phải là ý thức xã hội. Như vậy, tóm lại là, các ý kiến của Kant, Schiller, Spencer là để sống, con người cần lao động. Nhưng lao động là ách đè nặng lên con người. Con người chỉ có niềm vui khi thoát khỏi lao động, sống trong vui chơi. Nghệ thuật là một loại hoạt động vui chơi. Nghệ thuật làm cho người ta thoát khỏi mọi ràng buộc của đời sống. Cách lí giải của những người theo thuyết bản năng du hí trên đây có những yếu tố khả dĩ chấp nhận được. Ví dụ: Yếu tố vui chơi là một đặc trưng quan trọng của văn nghệ. Nhưng nếu xem vui chơi là mục đích là "cứu cánh" thì lại không đúng. Ðiều đó sẽ tạo nên sự đối lập giữa văn nghệ và lao động. Cũng tức là đối lập văn nghệ với con người và xã hội loài người. Thuyết bản năng mĩ cảm đã vô hình trung hạ thấp con người xuống hàng con vật. Con người khác con vật ở chỗ là có ý thức. Theo cứ liệu của khảo cổ học, dân tộc học, thì ý kiến mĩ cảm là bản năng bẩm sinh của con người, lại càng không có chỗ đứng. Con người với công cụ bằng đã đã xuất hiện cách đây 2 triệu rưỡi năm. Nhưng các hiện tượng nghệ thuật nguyên thủy xuất hiện cách đây dưới 4 vạn năm, còn những hiện tượng nghệ thuật đích thực xuất hiện cách đây dưới 18.000 năm. Ðiều đó có nghĩa là nghệ thuật chẳng những không xuất hiện đồng thời với con người mà còn xuất hiện cách xa hàng triệu năm so với sự xuất hiện con người. Nếu là bản năng bẩm sinh thì con người và nghệ thuật đã xuất hiện cùng một lúc. - Thuyết bản năng bắt chước. Thuyết này do các nhà bác học cổ đại đề xướng. Démocrite (460 - 370 trước CN), nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp cho rằng con người bắt chước tiếng chim hót để làm ra tiếng hát, bắt chước ong xây tổ để làm ra nhà cửa. Aristote (384 - 322 trước CN) cũng là nhà triết học duy vật Hy Lạp, cho rằng bắt chước đem lại nhận thức và niềm vui. Ông cho rằng, có 2 nguyên nhân là nguồn gốc thơ ca. Một là thiên tính bắt chước của nhân loại, hai là thiên tính hiểu biết của nhân loại. Ông khẳng định : "nghệ thuật là sự bắt chước tự nhiên". Sau này, người ta xuyên tạc ý kiến của Aristote, chủ trương văn nghệ bắt chước máy móc, lệ thuộc vào bề mặt sự vật, rồi từ đó đi đến giải thích nguồn gốc nghệ thuật là sự bắt chước có tính chất bản năng của con người. Thuyết "bắt chước" của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã chỉ ra được nguyên nhân khách quan của nhận thức, sáng tạo nghệ thuật. Nhưng đã xem nhẹ tính tích cực sáng tạo của nghệ sĩ. Nghĩa là chưa thấy nguyên nhân chủ quan. Còn những người sau này xem văn nghệ là sự bắt chước giản đơn các hiện tượng tự nhiên thì họ đã hạ thấp nhận thức và sáng tạo nghệ thuật ở con người xuống hàng bản năng sinh vật. Mĩ học tư sản hiện đại cũng đề xướng nhiều học thuyết khác nhau về nguồn gốc nghệ thuật. Chẳng hạn, thuyết bản năng tính dục. Thuyết này do bác sĩ tâm thần người Ðức là Freud (1856 - 1939) đề xướng. Ông cho rằng sự ẩn ức về tính dục đến mức nào đó sẽ thăng hoa thành động lực sáng tạo nghệ thuật ở nghệ sĩ. 2. Lao động là nguồn gốc của văn nghệ. Ðiều hiển nhiên mọi người đều nhận thấy là con người trực tiếp làm ra nghệ thuật. Cho nên tìm hiểu nguồn gốc nghệ thuật sẽ là tìm hiểu nguyên nhân nào kích thích con người làm ra nghệ thuật. Do đó, việc truy tìm nguồn gốc nghệ thuật khiến chúng ta đi cùng đường với việc truy tìm nguồn gốc loài người. Truy tìm nguồn gốc nghệ thuật là một việc làm hết sức khó khăn. Bởi vì nguồn gốc nghệ thuật là chuyện đã lùi quá xa xăm vào dĩ vãng. Phương pháp của chúng ta là căn cứ vào cứ liệu của dân tộc học, khảo cổ học, kết hợp với phép phân tích biện chứng Mác - xít.
- a. Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể của thế giới. Con người trong thời kỳ mông muội xa xưa nhất chỉ là con vật, một bộ phận của tự nhiên. Nhưng để cạnh tranh sinh tồn với tự nhiên con người đã tác động vào tự nhiên để cải tạo nó. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo mình. Trong Tư bản, Mác viết: "Lao động trước tiên là hành động diễn ra giữa người với tự nhiên. Trong hành động đó, bản thân con người đóng vai trò một lực lượng tự nhiên đối với tự nhiên. Con người vận dụng những lực lượng sẵn có trong thân thể, cánh tay và chân, đầu và bàn tay để chiếm hữu vật chất, bằng cách sáng tạo cho những vật đó một hình thái có ích cho đời sống của mình. Do sự vận động đó, con người tác động vào tự nhiên bên ngoài và thay đổi tự nhiên , đồng thời cũng thay đổi bản tính của chính mình và phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Như thế, từ chỗ là một lực lượng của tự nhiên con người đã trở thành chủ thể của tự nhiên; từ chỗ phải cải tạo tự nhiên con người đã đi đến chỗ tự cải tạo mình. Chính lao động đã làm nên con người và xã hội loài người. b.Lao động sáng tạo ra con người như là chủ thể thẩm mĩ. Nhưng vậy thì, lao động có liên quan gì đến việc làm ra nghệ thuật của con người? Quá trình lao động sáng tạo ra con người là một quá trình diễn ra từ từ và rất lâu dài, hàng chục triệu năm: từ chỗ con vượn đến, vượn người, đến người vượn, đến con người bầy đàn, đến con người xã hội. Quá trình đó, con người phát triển và hoàn thiện, không chỉ kỉ năng lao động - khả năng to lớn tác động vào tự nhiên để kiếm sống mà còn khả năng đáng giá tự nhiên về cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp cho tự nhiên - tức là khả năng làm chủ thế giới về mặt thẩm mĩ. Chính lao động làm cho các "khí quan" của con người phát triển và hoàn thiện, tư duy và ngôn ngữ hình thành, từ đó, tạo tiền đề cho cho văn nghệ ra đời. Ðể làm ra văn nghệ con người còn có bàn tay kì diệu. - Lao động đã làm ra bàn tay nghệ sĩ của con ngườiù. Ăngghen viết: "Bàn tay không những là khí quan dùng để lao động mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng với động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các bắp thịt, của các gân cốt, sau những khoảng thời gian dài hơn, của cả xương nữa, và cuối cùng nhờ tinh luyện thừa hưởng được của các thế hệ trước mà áp dụng nhiều lần liên tục vào những động tác ngày càng mới, ngày càng phức tạp hơn, chỉ nhờ có thế, bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao đó, khiến nó có thể, như một sức mạnh thần kỳ, sáng tạo ra các bức tranh của Rafael, các pho tượng của Thorwaldsen, và các điệu nhạc của Paganini". Bàn tay nghệ sĩ thoát thai từ bàn tay lao động là như vậy. - Lao động sáng tạo ra bộ óc và các giác quan ngệ sĩ của con người. Ðể làm ra nghệ thuật, không chỉ có bàn tay mà cần phải có bộ óc và các giác quan. Chính lao động đã làm cho bộ óc con người phát triển, ngôn ngữ phát triển, các giác quan ngày một tinh tế. Aêngghen nói: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu, đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn người, làm cho bộ óc dần dần chuyển thành bộ óc người ( ) khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là các giác quan cũng song song phát triển theo ( ) Bộ óc và các giác quan phụ thuộc bộ óc càng phát triển lên, ý thức càng sáng suốt hơn, năng lực trừu tượng hóa và năng lực suy lí càng phát triển hơn, tất cả những cái đó tác động trở lại lao động và ngôn ngữ, đã không ngừng thúc đẩy lao động và ngôn ngữ không ngừng phát triển thêm ( ) Nhờ hoạt động phối hợp của bàn tay, của các khí quan phát âm và bộ óc, chẳng những ở mọi cá nhân mà ở cả trong xã hội nữa, loài người đã có đủ khả năng hoàn thành những công việc ngày càng phức tạp hơn". Rõ ràng là, cùng với việc sáng tạo ra bàn tay kì diệu, lao động đã sáng tạo ra bộ óc kì diệu cùng các giác quan, tức là sáng tạo ra năng lực cảm giác của con người và thế giới tâm hồn con người. Mác viết : "Chỉ nhờ sự phong phú của sinh thể người được mở ra trong thế giới vật chất thì mới phát triển , và phần nào, phần đầu tiên mới nảy sinh ra sự phong phú của con người về mặt cảm tính chủ quan: cái tai biết nghe nhạc, con mắt cảm thấy được vẻ đẹp của hình thức, nói tóm lại, làø những giác quan có khả năng hưởng thụ theo kiểu người và tự khẳng định mình như là những sức mạnh bản chất của con người. Bởi vì, không chỉ năm giác quan bên ngoài, mà cả giác quan được gọi là giác quan tinh thần, giác quan thực tiễn (ý chí, tình yêu ) tóm lại là giác quan con người, tính người của giác quan đã xuất hiện nhờ sự có mặt của một đối tượng phù hợp, có một tự nhiên đã được người hóa".
- Như vậy giác quan của con người đã không chỉ là giác quan người lao động mà còn là giác quan nghệ sĩ. c. Lao động sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ Lao động không chỉ sáng tạo ra chủ thể thẩm mĩ mà còn trực tiếp sáng tạo ra những giá trị thẩm mĩ, hiện tượng thẩm mĩ. Con người đầu tiên không phân biệt được cái đẹp và cái có ích. Chỉ dần dần về sau cái đẹp mới được tách ra. Plékhanov (1856 - 1918) đã nói: "Lao động có trước nghệ thuật, nói chung, con người trước hết xuất phát từ quan điểm cái có ích để quan sát sự vật và hiện tượng rồi sau mới đứng trên quan điểm thẩm mĩ để nhìn nhận chúng". Plékhanov đã đưa ra một ví dụ: "Những bộ lạc da đỏ miền Tây Bắc Mĩ ưa chuộng nhất là trang sức bằng vuốt gấu xám là kẻ thù hung dữ nhứt của họ","thoạt đầu những thứ ấy được đeo với nghĩa tượng trưng cho lòng dũng cảm, sự nhanh khéo và sức mạnh, Và chỉ sau đó, và chính chúng tượng trưng cho lòng dũng cảm sự nhanh khéo và sức mạnh mà chúng bắt đầu khêu gợi mĩ cảm và trở thành đồ trang sức". Lao động đã làm nảy sinh những yếu tố thiết yếu của nghệ thuật: - Lao động và hình tượng nghệ thuật. Giác quan là những khí quan của bộ óc. Khi chúng phát triển phong phú và tinh tế thì cũng có ý nghĩa là năng lực suy lí, trừu tượng hóa và hình tượng hóa của bộ óc phát triển tinh tế và phong phú. Trí tưởng tượng phong phú, bay bổng của bộ óc đã khiến cho những hình tượng nghệ thuật nguyên thủy ra đời. Gorky đã nói: "Ngay từ thời tối cổ, con người đã mơ ước có thể bay lên không trung như ta có thể thấy qua chuyện Phaêtôn, truyện Ðê - đan và con trai là Icaro, cũng như chuyện Tấm thảm biết bay. Họ mơ ước tìm cách di chuyển nhanh hơn trên mặt đất - truyện cổ tích về Ðôi hài vạn dặm- họ thuần phục giống ngựa, ý muốn di chuyển trên sông nhanh hơn nhờ dòng nước đã đưa đến sự phát minh ra mái chèo và buồm, ý muốn giết kẻ thù hay săn thú từ xa là nguyên do phát sinh ra cung nỏ. Họ mơ tưởng có thể dệt xong trong một đêm một số vải vóc thật lớn, xây xong một đêm một ngôi nhà thật tốt, hay thậm chí cả một tòa lâu đài, tức là một chỗ ở kiên cố có thể chống chọi với kẻ thù, họ sáng tạo ra xa quay sợi, một trong những công cụ cổ xưa nhất, sáng tạo ra khung cửi dệt bằng tay và sáng tạo ra chuyện cổ tích nàng Va xi li xa khôn ngoan tuyệt trần ". - Lao động và ngôn ngữ: Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu trao đổi tư tưởng, tình cảm trong quá trình lao động. Mác viết: "Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ". Do muốn tổ chức tốt lao động, con người cần có tín hiệu để trao đổi tư tưởng, để thông tin cho nhau. Maiakovsky đã hình dung: "Cứ một động tác tay hay chân của đoàn người lao động đều kèm theo những âm thanh không rõ ràng, do đoàn người nhất trí phát ra". Không có sự phối hợp âm thanh thì không thể tiến hành lao động chung được. Ngôn từ yếu tố thứ nhất của văn chương, đầu tiên như là một bộ phận của sản xuất thực tế, đã ra đời như thế. - Lao động và tiết tấu: Lao động cũng đã khám phá ra giá trị thẩm mĩ của tiết tấu. Lúc đầu cảm giác về tiết tấu mang tính chất sinh lí và tâm lí. Nghĩa là một hoạt động tự nhiên, nhưng lao động đã làm cho cảm giác tiết tấu mang tính chất xã hội. Bucher lập luận: "Lao động mà có tiết tấu thì đời mệt mỏi, nhất là khi lao động tập thể, động tác có tiết tấu càng có hiệu lực". Tiết tấu đã được con người sử dụng như là phương tiện để tổ chức động tác, thống nhất ý chí, hành động, tình cảm làm giảm cường độ lao động, tăng hiệu quả. Tiết tấu còn làm người ta say sưa lao động. Bước phát hiện ra cảm xúc tiết tấu là bước quan trọng để từ đó con người sáng tạo ra tiết tấu trong nghệ thuật. - Lao động và vũ thuật. Người nguyên thủy khống chế tự nhiên bằng 2 cách: hoặc bằng thực tế, hoặc bằng ảo tưởng. Vũ thuật là kỹ thuật ảo tưởng của người nguyên thủy - cách tác động vào tự nhiên một cách hư ảo. Kết quả là qua vũ thuật con người đã sáng tạo ra những điệu múa. Về sau, ý thức tôn giáo phai nhạt đi, nghệ thuật biểu diễn với tư cách là phương tiện biểu hiện tình cảm phát triển. d. Nghệ thuật khẳng định mình bằng tác động trở lại lao động. Nghệ thuật nảy sinh không phải một sớm một chiều và cũng không phải là sản phẩm thụ động của lao động. Quá trình nghệ thuật hình thành là quá trình nó tự khẳng định mình bằng tác động trở lại lao động và thông qua lao động mà tác động trực tiếp vào đời sống xã hội. Những cái đẹp như: hài hòa, cân đối, êm tai, đẹp mắt của các sự vật rõ ràng là có tác dụng tăng hiệu quả lao động. Con người lúc đầu còn sống đơn độc hoặc bầy đàn, chứ chưa thành xã hội. Nhưng để chống chọi với tự nhiên, để làm chủ tự nhiên con người
- cần tập hợp nhau thành xã hội. Chính nghệ thuật có vai trò không nhỏ trong việc thống nhất loài người lại với nhau thành xã hội (thống nhất hành động, thống nhất tư tưởng). Chẳng hạn: mỗi khi săn bắt được con thú, người ta tụ tập nhau lại, đốt lửa lên, nướng con thú, mổ thịt chia nhau rồi nhảy múa ca hát chung quanh đống lửa để ăn mừng thắng lợi. Ðồng thời, qua đó họ hiểu nhau hơn, qua đó mà truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, động viên nhau. Nghệ thuật đã tham gia vào nhu cầu thống nhất xã hội, giữ gìn lưu truền hoạt động đời sống xã hội, nhu cầu tự điều chỉnh xã hội. Ngược lại, những nhu cầu này lại thúc đẩy nghệ thuật phát triển. Tóm lại, không phải bản năng, không phải lực lượng siêu nhiên thần kỳ, cũng không phải là hoạt động cá nhân trực quan tự biểu hiện mà chính là quá trình lao động xã hội lâu dài đã sáng tạo ra khả năng nhu cầu sáng tạo nghệ thuật ở con người. Nhu cầu tất yếu của xã hội hình thành dưới tác dụng của lao động sáng tạo ra nghệ thuật. Ngay từ đầu, văn nghệ chưa bao giờ là sản phẩm tự nhiên của bản năng hay của hoạt động cá nhân riêng lẻ mà bao giờ cũng là hoạt động xã hội, có tính chất xã hội, luôn luôn gắn với lao động xã hội. II. VĂN CHƯƠNG LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC. Trong cơ cấu đời sống xã hội, văn chương có vị trí như thế nào? Cái gì đã quyết định chiều hướng phát sinh và phát triển của nó? Từ lâu, người ta đã có những kiến giải khác nhau về vấn đề này. Có người tìm nguyên nhân ở thượng đế, có người tìm trong "kết cấu chủ quan của trí tuệ" người sáng tác, có người tìm ngay trong bản thân văn chương. Chủ nghĩa Mác không giải thích văn chương bằng thượng đế, đã đành, mà cũng không giải thích nó bằng chính nó. Xem văn chương là một hiện tượng xã hội, chủ nghĩa Mác xuất phát từ những mối liên hệ thực tế giữa nó với toàn bộ các hiện tượng xã hội để giải thích văn chương: văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định, đồng thời, có tác dụng năng động với cơ sở hạ tầng. Xem văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc và lí giải nó trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, lần đầu tiên trong lịch sử mĩ học nhân loại, mĩ học Mác - Lênin đã đem đến cho nhân loại một kiến giải duy nhất đúng đắn về bản chất của văn chương nghệ thuật. Và cũng chính nhờ quan niệm đúng đắn và khoa học đó, mĩ học Mác - Lênin đã có khả năng thâm nhập sâu vảo bản chất, quy luật, đặc trưng của văn chương nghệ thuật. 1. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng Chủ nghĩa Mác - Lênin chia cơ cấu đời sống xã hội thành 2 bộ phận. Toàn bộ kết cấu kinh tế của xã hội là cơ sở hạ tầng. Tất cả những hiện tượng xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế bao gồm những tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng với những tư tưởng ấy là kiến trúc thượng tầng. Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở thực tại, trên đó dựng lên một kiến thức thượng tầng pháp lí và chính trị, và tương ứng với những cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định.[1] Những tư tưởng xã hội và những thiết chế tương ứng thuộc thượng tầng kiến trúc bao gồm: những tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức, khoa học, triết học, tôn giáo, nghệ thuật (trong đó có văn chương) và các thiết chế tương ứng: Nhà nước, chính đảng, giáo hội, các tổ chức văn hóa Như thế văn chương nghệ thuật là một hình thức ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc. 2. Tương quan giữa cơ sở hạ tầng với văn nghệ - Cơ sở kinh tế quyết định văn nghệ Tương quan giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng là tương quan giữa ý thức và tồn tại. Marx và Engels viết: "Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của con người; ngược lại, chính tồn tại xã hội của con người quyết định ý thức của con người".[1]
- Kiến trúc thượng tầng của xã hội do quan hệ kinh tế tức là cơ sở hạ tầng hạ tầng sinh ra và bị cơ sở hạ tầng quyết định. Cơ sở kinh tế nào sẽ có kiến trúc thượng tầng ấy. Khi cơ sở hạ tầng có sự biến đổi căn bản thì kéo theo sự biến đổi cơ bản trong kiến trúc thượng tầng. Mác chỉ rõ: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ ấy cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng."[1] Là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, như bất kỳ một hình thái ý thức xã hội nào khác, văn chương do cơ sở kinh tế sinh ra, bị cơ sở hạ tầng quyết định. Do đó, đi tìm hiểu văn chương không phải tìm ở thượng đế, cũng không phải tìm ngay trong bản thân nó, mà trước hết là tìm ngay ở cái đã sinh ra nó, đã quyết định nó. "Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, cho nên cần phải tìm nguyên nhân đầu tiên - tạo nên tất cả sự biến đổi của nghệ thuật - trong tồn tại của con người, trong cơ sở kinh tế của xã hội" (Mác). Trên bình diện tổng quát, ta thấy, cơ sở kinh tế quyết định sự nảy sinh và phát triển của văn chương. Cơ sở kinh tế là nền tảng của xã hội, nó quyết định nội dung và tính chất của xã hội, vì thế, nó quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng do nó tạo nên, trong đó có văn chương. Như thế, cơ sở kinh tế quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã quyết định nội dung và tính chất của nền văn chương xã hội chủ nghĩa. Ðó là nền văn chương có nội dung xã hội chủ nghĩa tức là cuộc sống mới, con người mới; có tính dân tộc đậm đà tính Ðảng và tính nhân dân sâu sắc. Nhân tố kinh tế là nhân tố khách quan quyết định tiền đề lịch sử về vật chất cũng như về tinh thần của đời sống xã hội trong đó có văn chương. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa với đại sản xuất công nghiệp đã tạo ra một "giai cấp công nhân", là người làm chủ lịch sử trong thời đại mới, thời đại xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Vậy là, chính nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã vô tình tạo ra yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa của văn chương xã hội chủ nghĩa nảy sinh từ trong giai cấp công nhân. Cơ sở kinh tế quyết định bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp trong đó có văn chương tham gia. Nền kinh tế Việt Nam thời Nguyễn Du vẫn là nền kinh tế phong kiến tự túc, tự cấp, mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ sản xuất là mâu thuẫn giữa nông dân và các tập đoàn phong kiến. Trong thời kỳ này, yếu tố kinh tế hàng hóa đã xuất hiện, vai trò đồng biến đã có tác dụng mạnh. Ðồng tiền, với sự tác oai, tái quái của nó đã bắt đầu bị lên án: "làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền". Nhưng hiện tượng trong Truyện Kiều vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của cuộc sống xã hội phong kiến, với chế độ người bóc lột người theo kiểu phong kiến. Vì vậy, tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp trong Truyện Kiều là tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp giữa một bên là các tập đoàn phong kiến và một bên là những người bất hạnh, quyền sống bị chà đạp. Cơ sở kinh tế quyết định trình độ tư duy, quyết định tính chất của thế giới quan, quyết định mọi phong tục, tập quán Cơ sở kinh tế cũng tạo điều kiện khách quan cho sự nảy nở các tài năng, tạo điều kiện cho sự tiếp thu các tư tưởng, kinh tế còn quyết định tính chất lịch sử và xã hội và do đó quyết định tính chất lịch sử và xã hội của văn chương. - Kinh tế là nguyên nhân quyết định suy tới cùng. Qua trên, ta thấy kinh tế quyết định mọi phương diện của văn chương nghệ thuật. Vì vậy, khi tìm hiểu nội dung và tính chất của bất kỳ một nền văn chương nào cũng phải chú ý đến cơ sở kinh tế đã sản sinh ra nó. Nhưng lại sẽ phạm sai lầm nếu quá say mê về thống kê kinh tế để cố tìm một sợi dây liên hệ trực tiếp giữa các hiện tượng kinh tế và hiện tượng nghệ thuật. Ở Liên Xô, trước đây, đã có thời kỳ sách giáo khoa văn chương xác định một mối quan hệ nhân quả giữa những con số xuất cảng và nhập cảng lúa mì ở Nga đầu thế kỷ XIX với thơ ca Puskin. Ðây là biểu hiện một cách hiểu dung tục quan điểm chủ nghĩa Mác - nghĩ là nghệ thuật lệ thuộc một cách trực tiếp, máy móc vào các hiện tượng kinh tế. Vì sao vậy? Ðiều này có gì mâu thuẫn với những luận điểm đã nêu trên không? Thực ra, cơ sở kinh tế chỉ quyết định một cách gián tiếp đối với văn chương nghệ thuật, bản thân nó không trực tiếp đẻ ra một giá trị văn chương nào. Về vấn đề này, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra một cách rõ ràng về các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của các loại hình thái ý thức xã hội với cơ sở kinh tế. Trong các hình thái ý thức xã hội, có loại liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như tư tưởng chính trị, Nhà nước, pháp quyền loại này cơ sở kinh tế trực tiếp sản sinh ra nó và khi cơ sở
- kinh tế thay đổi thì lập tức chúng thay đổi theo. Lại có loại hình thái ý thức liên hệ gián tiếp với cơ sở kinh tế, cách xa cơ sở kinh tế, bị cơ sở kinh tế quyết định gián tiếp như: triết học, khoa học, tôn giáo, văn chương nghệ thuật. Ăngghen đã vạch rõ "văn chương một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế" là "lĩnh vực ý thức bay cao hơn hết trong không trung" và Người giải thích: "Ở đây cơ sở kinh tế không sáng tạo ra một cái gì mới cả, nó chỉ quy định phương hướng cải biền phát triển thêm của các tài liệu thực tế hiện có, nhưng cả đến điều này cũng chỉ là tác động một cách gián tiếp.[1] Như thế, kinh tế không trực tiếp sáng tạo ra một cái gì mới cho nghệ thuật cả, nó chỉ là cơ sở để mở đường cho cái mới hình thành và phát triển. Giữa cơ sở kinh tế và văn chương là toàn bộ đời sống xã hội (vật chất và tinh thần) với tất cả những quan hệ nhân sinh vô cùng phức tạp và thiên hình vạn trạng, với tất cả những lĩnh vực khác nhau, tác động lẫn nhau. Văn chương chính là sản phẩm của toàn bộ đời sống xã hội. Bác Hồ đã khẳng định Xã hội nào, văn nghệ ấy. Ðiều đó thật là chí lí. Văn nghệ ra đời và phát triển trong những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định. Nó là con đẻ của một hình thái xã hội, một hình thái kinh tế xã hội tức lá chế độ kinh tế và toàn bộ kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Cho nên, cơ sở kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định đối với văn chương. Chúng ta không được vì xem trọng nhân tố kinh tế mà bỏ qua các nhân tố khác rất quan trọng như đấu tranh giai cấp, truyền thống văn hóa ảnh hưởng trực tiếp tới văn chương. Nhân tố kinh tế chỉ là nhân tố quyết định xét đến cùng. Ăngghen đã nhấn mạnh: "Theo quan niệm duy vật lịch sử, thì trong lịch sử, nhân tố quyết định cuối cùng là sức sản xuất và tái sản xuất đời sống kinh tế. Cả Mác và tôi, chúng tôi không khẳng định điều gì hơn cả. Nhưng nếu người nào muốn xuyên tác lời nói đó đến nỗi bảo rằng câu ấy có ý nói nhân tố kinh tế duy nhất quyết định , thì người đó biến câu ấy thành một câu trống rỗng, trừu tượng, phi lí."[1] Chính và vậy mà "Sự phồn vinh của nghệ thuật" thì không nhất thiết lúc nào cũng tương ứng với sự phồn vinh của cơ sở kinh tế. - Quy luật về sự phát triển không đều giữa văn nghệ với kinh tế Tuy là không trực tiếp, nhưng kinh tế là nguyên nhân quyết định tới văn chương. Vậy, có thể lập được chăng một biểu đồ về sự tương ứng song song giữa sự phát triển kinh tế và phát triển văn chương? Phải chăng một xã hội có cơ sở kinh tế phát triển cao thì đương nhiên sản sinh ngay ra một nền văn chương có chất lượng cao, và ngược lại? Thực sự thì, giữa cơ sở kinh tế và văn chương nghệ thuật, phải lúc nào cùng có sự phát triển tương ứng. Trái lại, trong lịch sử, thường có sự không ăn khớp giữa sự phát triển của văn chương nghệ thuật của thời đại với sự phát triển của cơ sở hạ tầng - tức chế độ kinh tế. Khi nghiên cứu nghệ thuật của quá khứ, Mác đã chỉ ra: "Ðối với nghệ thuật thì có những thời kỳ phồn vinh lại tuyệt nhiên không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội, và do đó, cũng tuyệt nhiên không tương ứng với cơ sở vật chất tức là xương cốt của tổ chức xã hội, nếu có thể nói được như thế. Vì, người Hy Lạp so với người thời nay hay như Shakespeare chẳng hạn."[1] Về phương diện kinh tế thì thời Hy Lạp cổ đại thấp kém thời kỳ tư bản chủ nnghĩa và thời kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa thế kỷ XVI cũng thấp kém hơn thời kỳ phát triển cao của chủ nghĩa tư bản về sau này. Nhưng tình hình này không nhất thiết dẫn tới chỗ văn chương nghệ thuật thời Home và Shakespeare phải thấp kém hơn thời chủ nghĩa tư bản phát triển. Sự thực thì ngược lại, chẳng hạn, những tác phẩm của Home ra đời trong điều kiện kinh tế thấp kém nhưng vẫn là những tác phẩm "mẫu mực" của nghệ thuật của lịch sử văn hóa nhân loại. Chính Mác đã khẳng định điều này: " nghệ thuật Hy Lạp, thể anh hùng ca, vẫn cho ta một sự thỏa Mácn về thẩm mĩ, và về một phương diện nào đó, chúng vẫn còn được dùng làm tiêu chuẩn, làm cái mẫu mực mà chúng ta chưa đạt tới."[1] Sự phát triển không tương ứng của nghệ thuật đối với kinh tế đã được xem như là một trong những quy luật cơ bản của sự phát triển văn nghệ. Chúng ta giải thích thế nào về quy luật này. Trước hết, đứng về phía kinh tế mà xét thì, văn chương là một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế, do đó cơ sở kinh tế quyết định một cách gián tiếp. Cơ sở kinh tế không trực tiếp sản sinh ra một giá trị văn chương nào. Về phía văn chương, là một hình thái ý thức xã hội, nó có tính chủ thể, tính độc lập tương đối có quy luật phát sinh và phát triển riêng. Ý thức xã hội có thể lạc hậu so với tồn tại xã hội, và trong những điều kiện nào đó có thể vượt lên trước tồn tại xã hội. (đặc biệt là trong khoa học - sự phát hiện những quy luật khách quan của sự phát triển của sự vật). Văn chương nghệ thuật có thể đi sau hoặc đi trước ít nhiều so
- với cơ sở kinh tế. Văn chương có thể dự báo một thời đại mới sắp ra đời. Ví dụ hiện tượng Gorky (Bài ca con chim ưng, Bài ca con chim báo bão) chẳng hạn. Mặt khác, ý thức xã hội có quy luật kế thừa và phát triển. Ý thức xã hội tuy là phản ánh tồn tại xã hội nhưng nó vẫn có giá trị tư thân Nó kế thừa mạnh mẽ những giá trị tinh thần của thời đại trước, tiếp thu tinh hoa tinh thần của mọi dân tộc. Lại nữa, giữa các hình thái ý thức xã hội bao giờ cũng có sự tác động lẫn nhau, trong khi kinh tế là yếu tố quyết định gián tiếp tới văn chương thì văn chương lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của hàng loạt yếu tố khác như chính trị, triết học, đạo đức, khoa học, nghệ thuật Văn chương nghệ thuật chịu ảnh hưởng trực tiếp và dữ dội nhất của chính trị và đấu tranh giai cấp. Có thể khẳng định rằng đấu tranh giai cấp là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định to lớn và quan trọng đối với văn chương nghệ thuật. Trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp, nội dung chủ yếu của tời đại được biểu hiện trong đấu tranh giai cấp. Văn chương, sản phẩm của thời đại, dĩ nhiên mang trong mình nó nội dung giai cấp đó của thời đại. Ðây cũng là một lí do quan trọng để giải thích vì sao để nghiên cứ văn chương đạt kết quả tốt người ta cần thiết phải phân tích mối tương quan giai cấp trong xã hội ở thời kỳ văn chương đó ra đời. Nền văn chương Việt Nam đạt được thành tựu xuất sắc lại rơi vào thế kỷ XVIII đầu XIX lúc kinh tế suy bại. Lôgic của vấn đề là ở chỗ xã hội có thối nát, kinh tế suy vong dẫn đến đấu tranh giai cấp bùng lên. Thế kỷ XVIII - Nửa đầu XIX là thời kỳ bão táp của dân tộc. Cuộc đấu tranh giai cấp biến động dữ dội - một bên là sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi - và một bên là sự vùng dậy mạnh mẽ không thể gì dập tắt của phong trào quần chúng mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Chính bão táp đó của cuộc sống đã dội vào nghệ thuật, tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới tư tưởng , tình cảm của người sáng tác để rồi có những kiệt tác như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn phái Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là bản chất tự do sáng tạo của nghệ thuật. Nghệ thuật không chỉ là hành động nhận thức, phản ánh đơn thuần mà là một hoạt động có tính chất thực tiễn vật chất, hoạt động sáng tạo. Mà, sự phát triển tài năng sáng tạo của con người không phải bất kỳ thời nào cũng giống nhau. Có chế độ xã hội trong đó tài năng của con người được phát triển tự do, có chế độ xã hội thì ngược lại, tài năng bị kìm hãm, bị mai một. Chế độ tư bản chủ nghĩa mặc dù sức sản xuất phát triển cao nhưng nhân cách con người bị què quặt, tự do và sáng tạo của nghệ sĩ bị đèn nén, con người trở thành hàng hóa nên không thể có nghệ thuật tốt đẹp. Chính Marx đã khẳng định: " Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thù địch với một số ngành nhất định trong sản xuất tinh thần, như nghệ thuật và thi ca chẳng hạn." [1] Nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là nền sản xuất hàng hóa đã biến con người thành hàng hóa. "Nền sản xuất sản sinh ra con người không những với tính cách là hàng hóa, không những với tính cách là con người hàng hóa, con người với sự quy định của hàng hóa; nó sản xuất ra con người theo sự quy định ấy, như một thực thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể xác ( ) sản phẩm của nền sản xuất đó là hàng hóa có một ý thức và có một hoạt động độc lập, là con người hàng hóa."[1] Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa sẽ đưa cơ sở kinh tế phát triển đến mức thỏa mãn mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội, con người sẽ được giải phóng khỏi mọi sự ràng buộc và "Người nào mang trong mình một Rapphael thì đều có điều kiện tự do phát triển."[1] Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng. Nếu như hạ tầng cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng, thì đến lượt mình, kiến trúc thượng tầng lại tác động tích cực đến hạ tầng cơ sở. Nó có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển hạ tầng cơ sở. - Sự tác động trở lại kinh tế của văn nghệ Do hạ tầng cơ sở sinh ra nhưng văn chương không phụ thuộc một cách máy móc thụ động, đơn giản một chiều. Nó có tính độc lập tương đối, tính chủ thể, nó cũng tác động trở lại hạ tầng cơ sở. Nó có thể góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp củng cố hoặc cản trở sự phát triển đời sống xã hội. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ tính năng động của ý thức xã hội, trong đó có văn chương: "Sự phát triển về chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn chương và nghệ thuật đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả các lĩnh vực đó ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế."[1]
- Vậy tác động trở lại của văn chương nghệ thuật đối với cơ sở kinh tế là như thế nào? Nói văn chương nghệ thuật tác động trở lại kinh tế thì không có nghĩa là xem văn chương như một thứ lịch sử có thể trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, hay một yếu tố có khả năng tạo tiền đề cho đời sống xã hội loài người. Văn chương là một hình thái ý thức, có nghĩa là nó là một hoạt động của ý thức, tinh thần (chứ không phải hoạt động thực tiễn vật chất). Cho nên, tác động của nó là tác động về mặt ý thức tư tưởng , thông qua ý thức, tư tưởng. Nếu hạ tầng cơ sở quyết định sự ra đời của văn chương và sự phát triển của nó thông qua chính trị, thông qua đấu tranh giai cấp đấu tranh xã hội, thì đến lượt mình, văn chương có thể ảnh hưởng trở lại cơ sở cũng thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội với tư cách là một thứ vũ khí đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh xã hội. Văn chương phản động phục vụ cho chính trị của giai cấp thống trị thì có tác dụng củng cố quan hệ bóc lột và trật tự xã hội của giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản phản động. Ngược lại, văn chương cách mạng, phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng cách mạng, phục vụ cho lợi ích nhân dân, cho trật tự xã hội mới. Quần chúng là người làm nên lịch sử, là lực lượng trực tiếp, làm ra của cải vật chất cho xã hội. Văn chương tác động đến cơ sở kinh tế qua con đường đấu tranh tư tưởng, cải tạo tư tưởng của họ bằng phương tiện nghệ thuật. Bản thân ý thức, tư tưởng không trực tiếp cải tạo được thế giới vật chất, nhưng khi nó được con người nhận thức và biến thành hoạt động thực tiễn thì lại có sức mạnh cải tạo to lớn như một sức mạnh vật chất. Mác khẳng định: "Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất phải do lực lượng vật chất đánh đổ, nhưng ngay cả lí luận nữa cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập sâu vào quần chúng."[1] Văn chương cũng nằm trong quy luật ấy. Nó có thể tác động mạnh mẽ đến kinh tế như một lực lượng vật chất khi nó xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động sâu sắc, dội mạnh vào tư tưởng, tình cảm, đạo đức, trí tuệ và nhận thức của quần chúng, mà nói như Hugo là "làm cho tư tưởng biến thành những cơn lốc". Ý thức xã hội có tác động hai chiều, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vai trò của ý thức tư tưởng được xác định cụ thể ở chỗ chúng thuộc giai cấp nào, đáp ứng nhu cầu của ai. Văn chương cách mạng thì có tác dụng thúc đẩy xã hội tiến lên, văn chương phản độngthì kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nó tác oai, tác quái, đầu độc tư tưởng con người. Nó trói tay, bịt mắt, bưng tai con người. Thứ văn chương dâm ô, đồi trụy, kiếm hiệp cùng với đường lối văn hóa giáo dục phản động, tồi bại sẽ tạo ra một lớp người lấy hưởng lạc làm mục đích, lấy bóc lột, tiền tài, lợi nhuận, giành giật cướp đoạt làm đối tượng. Cần thiết phải thấy tác dụng ngược lại, kìm hãm của văn chương để ngăn ngừa loại nghệ thuật đồi bại, đến nay, vẫn còn được lén lút lưu truyền. III. VĂN NGHỆ VỚI CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI THUỘC THƯỢNG TẦNG KIẾN TRÚC. Trong cơ cấu đời sống xã hội, chúng ta đã xem xét văn chương trong mối quan hệ với cơ sở kinh tế. Nhưng sẽ phiến diện, sai lầm, nếu chúng ta chỉ dừng tại đây mà không xem xét thấu đáo mối quan hệ giữa văn chương với kiến trúc thượng tầng. Bởi, tuy cơ sở hạ tầng quyết định tới văn chương nhưng là nguyên nhân gián tiếp và suy tới cùng, trong lúc đó, nhiều hình thái ý thức khác thuộc tầng - tuy là tinh thần - nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp và nhiều khi là nguyên nhân rất quan trọng. Văn chương, chính trị, triết học, khoa học, luân lí, tôn giáo đều nằm trên thượng tầng kiến trúc và do cơ sở kinh tế sinh ra. Tuy vậy, chúng có quy luật phát sinh, phát triển riêng, có quan hệ không giống nhau với cơ sở kinh tế, sự tác động qua lại và quan hệ không như nhau đối với văn chương. 1. Văn nghệ với chính trị. Xác định mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, đồng chí Trường Chinh nói: "Quan hệ giữa chính trị và văn nghệ là chính trị lãnh đạo văn nghệ, văn nghệ phục vụ chính trị."[1] Ý kiến này đã xác định một
- cách đầy đủ đặc điểm và tính chất của mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Quan hệ giữa chúng, trước hết, là quan hệ nội tại, quan hệ bên trong, bản chất, chứ không phải quan hệ bên ngoài, hình thức, gán ghép "từ trên đưa xuống, từ ngoài đưa vào". Mặt khác, quan hệ đó là sự quan hệ phụ thuộc của văn nghệ và chính trị chứ không phải quan hệ độc lập, càng không phải là quan hệ đối lập kiểu "hai bên vỗ tay nhau cùng đi lên, hai bên cùng có lợi". Tại sao có quan hệ đặc biệt này? "Văn chương là một hình thái ý thức xã hội cách xa cơ sở kinh tế" Cơ sở kinh tế không quyết định trực tiếp mà nó phục vụ trở lại cơ sở bằng con đường gián tiếp. Vậy khâu trung gian đó là gì? Ðó là chính trị. Cơ sở kinh tế muốn ảnh hưởng đến văn chương phải thông qua chính trị và ngược lại văn chương muốn tác động vào kinh tế thì phải tác động vào chính trị. Bởi vì, tuy thuộc kiến trúc thượng tầng, do cơ sở kinh tế sinh ra, nhưng chính trị là sự thể hiện trực tiếp và tập trung nhất của yêu cầu kinh tế. Lênin đã chỉ rõ "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Vì thế, khi nói văn chương phục vụ kinh tế thì có nghĩa là văn chương phục vụ chính trị, phục vụ cho một hình thái ý thức mà ở đó là biểu hiện tập trung của kinh tế. Ngược lại, nói văn nghệ phục vụ chính trị thì tức là nó đã phục vụ kinh tế. Như thế, đã thừa nhận kinh tế quyết định văn chương thì đương nhiên phải thừa nhận chính trị quyết định tới văn chương - chính trị lãnh đạo văn nghệ. Theo Lênin, chính trị là "tham gia công việc nhà nước, là chỉ đạo nhà nước, là xác định những hình thức, những nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước". Hiểu rộng ra, chính trị là biểu hiện những lợi ích căn bản của các giai cấp và quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp, các dân tộc, chính trị là sự thể hiện tập trung những đòi hỏi, những nhu cầu nguyện vọng của giai cấp nhân dân. nói khác đi, chính trị là tổng hóa những quan hệ và tư tưởng và tình cảm, tâm lí, tổ chức, thể hiện tập trung trong những quan hệ kinh tế, chính quye quốc gia dân tộc. Như thế, chính trị bao trùm và chi phối toàn bộ đời sống của xã hội. Không có thành viên nào có thể đứng ngoài sự chi phối đó, không có lĩnh vực nào của đời sống lại không liên quan đến chính trị. Văn chương là một trong những hình thức của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, đương nhiên văn chương chịu sự chi phối của chính trị. Mặt khác, bản thân văn chương là một hình thức nhận thức, phản ánh xã hội, là sự thể hiện những tư tưởng tình cảm, ước mơ, nguyện vọng của con người xã hội nên tất yếu nó gắn liền với chính trị. Trong thực tế, văn chương nghệ thuật phục vụ chính trị dưới hai hình thái: hình thái tự phát vô ý thức và hình thái tự giác, có ý thức. Nghĩa là có loại văn nghệ phục vụ chính trị, đi theo một xu hướng chính trị nào đó một cách vô ý thức. Lại có loại văn nghệ phục vụ cho chính trị một cách tự giác có ý thức, "dùng cán bút làm đòn xoay chế độ". Hình thái này trong văn chương là phổ biến và ngày càng trở nên sâu sắc. Trung thành với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx - lénine về văn nghệ và chính trị, Ðảng ta luôn luôn coi văn nghệ là một bộ phận không thể thiếu được, không thể tách rời của sự nghiệp cách mạng, và luôn luôn có chủ trương và chính sách đối với văn nghệ. Năm 1943, Ðề cương văn hóa của Ðảng ghi "mặt trận văn hóa là một trong 3 mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động". Năm 1951, trong thư gởi các họa sĩ, Hồ Chủ tịch khẳng định: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em (văn nghệ sĩ) là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Năm 1957, trong bài nói chuyện tại Ðại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, thay mặt trung ương Ðảng, Trường Chinh xác định "Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị là chính trị lãnh đạo văn nghệ và văn nghệ phục vụ chính trị" và đồng chí giải thích: "Chính trị lãnh đạo văn nghệ là lãnh đạo về đường lối (bao gồm cả đường lối nghệ thuật) về phương châm, chính sách, tổ chức Chứ không can thiệp vào những vấn đề cụ thể có tính chất quá chuyên môn. Chính trị lãnh đạo văn nghệ không phải bằng mệnh lệnh hành chính gò ép tình cảm và sự suy nghĩ tìm tòi của văn nghệ sĩ cũng không phải bằng rập khuôn, san bằng sự sáng tác, mà phải thông qua sáng tác chủ quan của văn nghệ sĩ, tôn trọng tính chủ động và óc sáng tạo của văn nghệ sĩ: càng không phải ép văn nghệ sĩ nhai lại những khẩu hiệu chính trị một cách máy móc khô khan, gượng gạo, vụng về". Về phương diện văn nghệ phục vụ chính trị , đồng chí Trường Chinh chỉ rõ : "Văn nghệ phục vụ chính trị là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất tổ quốc, và phục vụ sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội".
- 2. Văn nghệ với triết học. Từ xa xưa, khi trình độ tư duy của con người còn đang thấp kém thì đời sống tinh thần của con người có hiện tượng "văn chiết bất phân". Ở phương Tây, trước đây, triết học được xem là khoa học của mọi khoa học. Nghĩa là nó bao gồm toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới, nó thay thế cho toàn bộ các khoa học. Nhưng dần dần nó nhờ sự tiến bộ của tri thức cụ thể của con người dẫn tới có sự phân ngành khoa học thì triết học không còn là khoa học của mọi khoa học. Nó trở thành khoa học độc lập. Tuy vậy, ngay cả khi triết học trở thành một khoa học độc lập và văn chương trở thành một loại hình nghệ thuật độc lập thì giữa chúng vẫn tồn tại một quan hệ khăng khít. Triết học và văn chương là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở kinh tế quyết định. Marx : "Triết học không đứng ngoài thế giới" Bởi vì "các nhà triết học không phải mọc từ dưới đất lên như nấm, họ là con đẻ của thời đại họ, cả nhân dân nước họ, và những tinh hoa tốt đẹp nhất, quý báu nhất và khó trông thấy nhất của thời đại và của nhân dân nước họ, đều thể hiện trong tư tưởng triết học. Cái tinh thần đã xây dựng nên các hệ thống triết học trong bộ óc những nhà triết học, cũng là cái tinh thần đã xây dựng đường sắt với những bàn tay công nhân". Cũng như văn chương, triết học là hình thái ý thức xã hội nhằm mục đích nhận thức thế giới, nhận thức, khám phá chân lí cuộc sống để cải tạo thế giới, cải tạo cuộc sống. Triết học chẳng qua là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới. Mặt khác, tác phẩm văn chương xuất sắc, đạt được tầm nhận thức và phản ảnh sâu sắc, có ý nghĩa khái quát cao về những vấn đề lớn, vấn đề chung của xã hội thì cũng có nghĩa đạt được những kết luận mang tính triết học, là những tư tưởng triết học. Tác phẩm văn chương chẳng qua là sự thể hiện qua một cơ cấu hình tượng nghệ thuật những quan điểm, quan niệm của nghệ sĩ về cuộc sống. Những quan điểm, quan niệm của nhà văn đó là những kết luận triết học. Nói đến triết học là nói đến thế giới quan và nhân sinh quan, tức là nói đến ý thức tư tưởng. Nói đến văn chương là nói đến nghệ thuật miêu tả, phản ánh. Quan hệ giữa triết học và văn chương nghệ thuật là quan hệ giữa ý thức tư tưởng với nghệ thuật miêu tả, phản ánh. Nói đến triết học là nói đến vấn đề lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến vấn đề tình cảm. Tình cảm và lí trí là nhất trí. Lê Duẩn nói: "thường thường triết học giải quyết vấn đề lí trí, nghệ thuật xây dựng tình cảm, cả hai đều phải nhất trí với nhau". Triết học cung cấp cho văn chương lối nhìn cách nghĩ, cách rút ra những kết luận về hiện tượng và sự vật. Văn chương bằng tình cảm nêu lên được những vấn đề cuộc sống, con người, những mối quan hệ giữa người và người, giữa người với tự nhiên và văn chương đạt được tầm triết học. Những tư tưởng triết học thường có ý nghĩa chỉ đường cho văn chương, làm cơ sở tư tưởng cho văn chương, làm chỗ dựa tinh thần cho văn chương. Triết học Mác - Lênin là một khoa học chân chính đã thực sự soi đườngcho văn chương nghệ thuật. Các nghệ sĩ hiện thức xã hội chủ nghĩa được chủ nghĩa Mác - Lênin vũ trang cho nhận thức khách quan, chính xác các quy luật phát triển của thế giới. Những quy luật này giúp họ chẳng những đường hướng đi mà còn giúp họ vạch ra đúng đắn những gì quan trọng nhất, chủ yếu nhất trong quá trình phát triển của thế giới, và chỉ giúp họ xử lí một cách đúng đắn những sự kiện những hiện tượng phức tạp trong đời sống. Triết học Mác - Lênin được các nghệ sĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa coi như là một vũ khí tư duy và tư tưởng. Với triết học Mác - Lênin, phương pháp nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu một bước ngoặc, một sự thay đổi về chất trong phương pháp nghệ thuật. Triết học và văn chương gần gũi và ảnh hưởng lẫn nhau như vậy. Nhưng triết học là một khoa học, còn văn chương là một nghệ thuật. Những tác phẩm văn chương dù có tầm khái quát cao về cuộc sống đến đâu cũng chỉ đạt đến tầm nhận thức có tính chất triết học, chứ bản thân nó không phải và không thể trở thành tác phẩm triết họcvới tư cách là một khoa học. Ngược lại, các tác phẩm triết học dù viết có sinh động đến đâu cũng không trở thành một tác phẩm văn chương với tư cách là một nghệ thuật được. Sự khác nhau giữa triết học văn chương nghệ thuật là ở phương pháp khái quát chân lí cuộc sống và ở phương thức nhận thức và biểu hiện cuộc sống. Triết học dùng tư duy logic để nhận thức, nghiên cứu các hiện tượng đời sống và khái quát lại thành những quy luật, khái niệm. Văn chương nghiên cứu cuộc sống cũng đạt tới những nhận thức khái quát về hiện tượng cuộc sống, nhưng văn chương thể hiện nó dưới những hình tượng sinh động. Phương pháp biểu hiện của văn chương là phương pháp hình tượng hóa, điển hình hóa. Hình thức của nghệ
- thuật là "hình thức hình tượng" , ở nghệ thuật điển hình tồn tại trong cái cá biệt. Phương pháp biểu hiện trong triết học là phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa. Mọi hiện tượng ngẩu nhiên, cá biệt đều bị loại bỏ. Có thể nói, quan hệ giữa triết học và văn chương là quan hệ giữa ý thức tư tưởng (đã được quy lại thành thế giới quan, nhân sinh quan) với nghệ thuật miêu tả, phản ánh. 3. Văn nghệ với khoa học Khoa học và nghệ thuật là hai hình thức nhận thức cơ bản của con người. hai hình thức đó không hề có mâu thuẫn, không hề đối lập, trái lại ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy vậy, những người chủ trương nghệ thuật thuần túy hoàn toàn bác bỏ ý kiến này, phủ nhận vai trò nhận thức của nghệ thuật. Chúng cho rằng thà gán nghệ thuật với bất cứ cái gì cũng được , trò chơi vô mục đích, không tư tưởng, biểu hiện cảm tính chứ không thể gán nghệ thuật với chân lí. Cái đẹp của nghệ thuật và chân lí khoa học là hoàn toàn thù địch nhau. Trái hẳn với lí luận đó, Phạm Văn Ðồng khẳng định : "Văn chương nghệ thuật là công cụ hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo lại thực tại xã hội. Nó là một khoa học. Người làm văn học nghệ thuật phải hiểu biết nhiều lắm. Nghệ thuật là một sự hiểu biết, khoa học là một sự hiểu biết, văn học là một sự hiểu biết, hiểu biết cao sâu lắm. Và đồng thời khám phá, sáng tạo. Hiểu biết sâu đến chừng nào, thì khám phá, sáng tạo, cao đến chừng ấy. Bởi vì, nó là một nghệ thuật, nó là khoa học". Khẳng định văn học là một khoa học là không hề đánh đồng khoa học với văn chương nghệ thuật, mà trái lại, đó là sự đánh giá hết sức đúng đắn bản chất nhận thức của văn chương nghệ thuật, là sự nhận chân khả năng to lớn của văn chương trong việc nhận thức và phản ánh đời sống, là sự khẳng định tính chất khoa học của văn chương trong quá trình nhận thức và phản ánh đời sống. Nghệ thuật và khoa học không hế đối lập nhau. Trước hết là ở chỗ: chúng đều là những công cụ nhận thức hiện thực khách quan. Khoa học là hệ thống tri thức của con người về tự nhiên và xã hội. Mục đích của khoa học là phát hiện những quy luật khách quan của các hiện tượng và giải thích các hiện tượng đó. Như thế, khoa học và nghệ thuật thống nhất với nhau ở chỗ là phát hiện, nhận thức thế giới. Con người không chỉ sử dụng một hình thức nhận thức đơn nhất nào. Vì bản chất thế giới là vô cùng phức tạp, vô cùng vô tận. Nhưng có thể nói nghệ thuật là khoa học là 2 hình thức nhận thức cơ bản của con người. Với mục đích nhận thức bản chất thế giới, con người sử dụng công cụ nhận thức khoa học để hiểu biết nó, nắm bắt nó dưới dạng những công thức định lí, định luật, khái niệm trừu tượng. Nhưng , cũng với mục đích nhận thức thế giới, con người sử dụng công cụ nhận thức nghệ thuật thì kết quả đạt được lại là những hình tượng nghệ thuật. Ở đây bản chất, quy luật của đời sống được phát hiện, tồn tại dưới dạng thức đời sống. Nghệ thuật và khoa học không đối lập nhau còn là ở chỗ mục đích và tác dụng nhận thức của chúng. Cả khoa học và nghệ thuật đếu có mục đích là phát hiện ra những quy luật của thế giới, vũ trang cho con người những hiểu biết về thế giới để con người tiến hành cải tạo thế giới. Những người chủ trương nghệ thuật thuần tú, phủ nhận giá trị nhận thức của văn chương nghệ thuật, cho rằng: "Nếu nghệ thuật là một phương tiện để nhận thức thì nó thấp hơn nhiều so với hình học" (G. Maritin). Hoặc cho rằng: "Tác phẩm nghệ thuật sống và phát sinh không phải là hồi quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc ngôn ngữ khép kín trong bản thân nó". Nhưng thực tiễn nghệ thuật đã chứng tỏ rằng nó có thể cung cấp và thực sự cung cấp cho con người một nhận thức to lớn. Biélinski đã đánh giá: "Chỗ khác nhau giữa khoa học và nghệ thuật không phải là ở nội dung mà ở phương pháp sáng tạo ra nội dung". Nghệ thuật, mà đặc biệt là nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa, nó không phải là sự tái hiện giản đơn những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống mà sự phát hiện chân lí cuộc sống, sự khái quát, bộc lộ ý nghĩa bản chất cuộc sống. Cũng như khoa học, nghệ thuật không được phép dừng lại ở việc đúc kết, thống kê, hệ thống hóa máy móc vật liệu sống, cũng không chỉ nhằm mức độ chính xác có tính chất tài liệu mà chủ yếu ở chỗ nghệ sĩ sáng tạo tác phẩm bằng cách lựa chọn có ý thức những nét bản chất nhất, những mặt điển hình của cuộc sống là khái quát hóa. Không có sự lựa chọn đó, thì tác phẩm nghệ thuật giỏi lắm chỉ tạo ra sự tương tự bên ngoài của chân lí chứ chưa đạt tới tính chân thực, trung thực. Nghệ thuật, vì vậy, không chỉ hiểu biết mà còn khám phá, phát hiện. Trong quá trình khái quát hóa cuộc sống, nghệ sĩ phải phát hiện một cách trung thực ý nghĩa chân chính của cuộc sống, làm cho những gì là tính chất, bản chất quy luật của đời sống đang bị che phủ trong
- sự rối bời, ngổn ngang của cái ngẩu nhiên, cá biệt, không bản chất được sáng tỏ. Nghệ thuật và khoa học còn thống nhất với nhau ở tính cộng đồng về nhận thức luận, phản ánh luận và phương pháp của nó. Nghệ thuật không phải là một cuộc phiêu lưu của tâm hồn. Cũng như khoa học, nghệ thuật có phương pháp của nó. Ðó là phương pháp nghệ thuật - những nguyên tắc tư tưởng - thẩm mĩ bao quát các mối quan hệ giữa nghệ sĩ và hiện thực trong quá trình nhận thức, phản ánh cuộc sống. Nghệ thuật và khoa học có tính cộng đồng về nhận thức luận và phản ánh luận duy vật biện chứng. Biện chứng của quá trình nhận thức là từ trực quan sinh động, đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình đó đúng với cả nhận thức nghệ thuật. Khoa học và nghệ thuật liên hệ với nhau còn ở chỗ chân lí khoa học thâm nhập sâu vào nội dung nghệ thuật một cách hữu cơ. Với tư cách là công cụ nhận thức cuộc sống, lúc này khoa học cũng nằm trong đối tượng của văn chương. Vì, khoa học cũng là cuộc sống. Những chân lí mà khoa học đã đạt được sẽ tạo điều kiện cho nhà văn phản ánh cuộc sống đúng đắn hơn, chính xác hơn. Những thành tựu và hiểu biết về tâm lí học , xã hội học sẽ làm cho nhà văn phản ánh con người và cuộc sống đúng đắn hơn, sâu sắc hơn, và có dựa trên những chân lí khoa học đó, quá trình quan sát thế giới nội tâm của nhà văn mới chính xác và "phép biện chứng tâm hồn" sự phân tích, thể hiện tâm lí con người mới được phong phú đúng đắn và có tính thuye phục cao. Hiện thực của thời đại ngày nay là hiện thực của thời đại khoa học kỹ thuật, văn chương phải lấy hiện thực đó làm trung tâm. Thi sĩ ngày nay không chỉ là thi sĩ của "cô hàng xóm" "dậu mùng tơi xanh rờn" của nông thôn cổ xưa. Nghệ sĩ ngày nay là nghệ sĩ của những người làm chủ nhà máy, công trường, bầu trời, mặt đất và biển cả. Hơn nữa, ngày nay có xu hướng xâm nhập của khoa học kỹ thuật vào các lĩnh vực khác của con người trong đó có nghệ thuật. Dỉ nhiên, tất cả những điều trên không hề chứng tỏ sự đồng nhất của khoa học và nghệ thuật. Ngày nay có người lo ngại sự bành trướng của khoa học đối với nghệ thuật, làm cho nghệ thuật có nguy cơ tiêu diệt. Thực ra, khoa học phát triển chỉ có thể làm cho nghệ thuật phát triển mà thôi. Vì nói đến khoa học là nói đến lí trí, nói đến nghệ thuật là nói đến tình cảm, thẩm mĩ. Con người càng văn minh thì tình cảm phát triển càng cao đẹp, ý thức thẩm mĩ càng phong phú, thời gian để thưởng thức cái đẹp càng dồi dào, vì vậy, nghệ thuật càng cần thiết cho cuộc sống. 4. Văn nghệ với đạo đức. Nghệ thuật gắn bó với đạo đức tới mức được Gorky cho rằng: "luân lí là mĩ học của tương lai". Sự gắn bó này trước hết thể hiện ở chỗ: đạo đức là nội dung quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Con người được thể hiện, xác định trong các mối quan hệ mà chủ yếu là quan hệ xã hội - quan hệ giữa người này với người khác và giữa với xã hội. Trong quan hệ giữa người và người có quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là điều không thể thiếu được, thậm chí rất quan trọng và chủ yếu để tạo nên các tính cách. Phong thái đạo đức, cảm nghỉ đạo đức của nhân vật thường khi là một nguồn sức mạnh của nghệ thuật. Ðạo đức là quy tắc sinh hoạt chung của xã hội và của hành vi con người, quy định nghĩa vụ của người này đối với người kia và đối với xã hội nói chung. Như thế, đạo đức là việc không thể thiếu được ở con người. Văn chương nghệ thuật miêu tả con người không thể không miêu tả nó trong quan hệ đạo đức, trong hành động đạo đức, trong lí tưởng đạo đức. Con người xã hội khác với con người phi xã hội và loài vật là ở chỗ đạo đức. Ðạo đức là biểu hiện của lí tưởng thẩm mĩ. Nói đến nghệ thuật là nói đến ý nghĩa thẩm mĩ. Nhưng cái đẹp ở trong nghệ thuật trước hết là con người đẹp - những nhân vật lí tưởng - lí tưởng thẩm mĩ. Sẽ không phải là con người đẹp nếu người đó không bao giờ có đạo đức. Một tính cách mà về đạo đức là ác quỷ thì không thể đẹp được. Do đó, khi xây dựng các nhân vật lí tưởng, nhà văn không lấy việc miêu tả cái đẹp hình dáng làm mục đích mà lấy cái đẹp trong hành động , suy nghĩ mang phẩm chất đạo đức làm chính. Ðạo đức là nội dung trọng yếu của văn chương xưa nay. Có thể khẳng định rằng lịch sử văn chương là lịch sử phong thái đạo đức của các tính cách. Từ xưa tới nay, nghệ thuật tường thuật về tính cách đạo đức
- của con người. Nội dung đạo đức của tác phẩm là một phẩm chất của nghệ thuật. Người đọc đồng tình hay phản đối không chỉ với hành động đạo đức của nhân vật mà còn với cách thể hiện hành động đạo đức của nhân vật bởi nhà văn. Tác phẩm nghệ thuật không chỉ tái hiện phạm vi đạo đức mà còn giải quyết những vấn đề đạo đức bằng cách khẳng định lí tưởng đạo đức. Người nghệ sĩ chân chính luôn luôn có khát vọng không chỉ tái hiện cuộc sống mà còn chỉ cho con người biết cuộc sống nào đáng sống. Ðạo đức không chỉ là nhân tố thiết yếu của cái đẹp, mà bản thân cái đẹp cũng là một phương tiện giáo dục đạo đức cho con người. QUAN HỆ GIỮA VĂN NGHỆ VÀ HIỆN THỰC I. PHẢN ÁNH HIỆN THỰC LÀ THUỘC TÍNH CỦA VĂN NGHỆ. Ðứng ở góc độ nhận thức luận, phản ánh hiện thực là quy luật khách quan của văn nghệ. Cách giải quyết vấn đề cơ bản trong triết học - quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có ý nghĩa phương pháp luận cho việc tìm hiểucơ sở khách quan của vấn đề quan hệ giữa hiện thực và văn nghệ, trong mĩ học, trong lí luận văn nghệ. Phản ánh luận Marx - Lénine khẳng định rằng: bản chất thế giới là vật chất, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào đầu óc con người. Lénine viết: "Kết luận duy nhất của mọi người nhất định phải rút ra trong đời sống thực tiễn, kết luận mà chủ nghĩa duy vật lấy làm cơ sở cho nhận thức luận của mình một cách tự giác là: có những đối tượng, vật, vật thể tồn tại ở ngoài chúng ta, và cảm giác của chúng ta là hình ảnh thế giới ở ngoài chúng ta, và cảm giác của chúng ta là hình ảnh thế giới bên ngoài". Triết học Marx - Lénine đã giải thích một cách đúng đắn, sâu sắc thuộc tính phản ánh của ý thức. ta biết rằng mọi vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Bộ óc con người là tổ chức cao nhất của vật chất, nó chẳng những mang thuộc tính phản ánh chung của vật chất mà nó còn là sự biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của đặc tính phản ánh. Ý thức con người chính là sản phẩm của bộ óc, tức ý thức con người là sự phản ánh thế giới vật chất của bộ óc. Tiếp xúc với thế giới vật chất bên ngoài, con người dùng các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác các giác quan - những "khí quan" của bộ óc trực tiếp tiếp xúc với thế giới bên ngoài làm nảy sinh ra kinh nghiệm cảm giác. Không có vật thể bên ngoài thì không thể có cảm giác nảy sinh trong cơ thể con người. Chính nhờ có hiện thực khách quan và hiện thực đó phản ánh vào óc con người thông qua các giác quan nên người ta mới có kinh nghiệm cảm giác. Kinh nghiệm cảm giác là tài liệu để hình thành ý thức con người. Quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại là quan hệ giữa cái được phản ánh và cái phản ánh. Lénine viết : "cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chẳng qua là hình ảnh của thế giới bên ngoài, vả chăng, rõ ràng là không có cái được phản ánh thì không có sự phản ánh. Nhưng cái được phản ánh tồn tại độc lập với cái phản ánh". Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, bên cạnh các hình thái ý thức khác như triết học, khoa học, chính trị Là một hình thái ý thức xã hội, văn chương, như mọi hình thái ý thức khác, phản ánh tồn tại xã hội. Quan hệ giữa văn chương và hiện thực là một biểu hiện của quan hệ giữatư duy và tồn tại, giữa cái phản ánh và cái được phản ánh.
- Như thế, hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, văn chương là một hình thái ý thức; một hình thức nhận thức; do đó, hiện thực đời sống là nguồn gốc của văn chương, là mảnh đất nuôi dưỡng văn chương, là chìa khóa để giải thích mọi hiện tượng , dù là phức tạp nhất của văn chương. Cũng chính từ cơ sở lí luận này mà chúng ta đã hiểu vì sao đối tượng của văn chương là hiện thực khách quan, là con người và đời sống xã hội. Như thế, bất kỳ một nền văn chương nào cũng hình thành trên cơ sở một hiện thực xã hội nhất định; bất kỳ một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ của những vấn đề cuộc sống, bất kỳ một nhà văn nào cũng thoát thai từ một môi trường sống nhất định. Phản ánh hiện thực là thuộc tính tất yếu của văn chương. Khẳng định văn nghệ phản ánh hiện thực, nhưng không được hiểu một cách hạn hẹp khái niệm "hiện thực" để rồi hiểu sự phản ánh hiện thực của văn chương như là sự tái hiện một cách giản đơn các hiện tượng, các sự kiện lịch sử - xã hội cụ thể nào đó. Cần hiểu "hiện thực" là bao gồm cả tự nhiên bao quanh con người, con người, cả môi trường xã hội, cả các quan điểm và học thuyết chính trị, xã hội, cả tư tưởng, tâm trạng Trung tâm hiện thực là con người, nhưng nội dung hiện thực của tác phẩmchủ yếu không phải là ở các chi tiết xã hội, ở việc ghi chép mô tả cho nhiều các sự kiện, hoạt động bên ngoài con người. Hiện thực độc đáo của văn nghệ là thế giới tinh thần, tình cảm, tâm lí của con người xã hội. Con người trung tâm của hiện thực là con người kết tinh của những quan hệ xã hội - "tổng hòa của những quan hệ xã hội" nhưng không phải là con người được trừu tượng hóa với những phẩm chất người nói chung mà là con người cá nhân, con người số phận. Việc yêu cầu sáng tác hay phân tích văn nghệ theo nguyên tắc nghề nghiệp kiểu "hình tượng người lính", "hình tượng người nông dân", "Hình tượng người phụ nữ", truyện nông nghiệp, tiểu thuyết sản xuất, truyện lâm nghiệp là một cách lãng quên nhiệm vụ của nghệ thuật - Văn nghệ hướng mục đích chủ yếu vào việc thể hiện tâm trạng, tình cảm, quan điểm, tâm lí của những số phận. II. NHẬN THỨC VÀ BIỂU HIỆN TƯ TƯỞNG, TÌNH CẢM TRƯỚC HIỆN THỰC LÀ PHẨM CHẤT CỦA VĂN NGHỆ. Nói nghệ thuật phản ánh hiện thực là xác định cơ sở khách quan của nhận thực nghệ thuật. Nhưng sẽ sai lầm nếu xem phản ánh hiện thực như là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá văn nghệ. Ðứng ở góc độ mĩ học và lí luận nghệ thuật, văn nghệ không nhằm mục đích phản ánh cuộc sống mà là sự nhận thức, nghiền ngẫm về cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật là cả thế giới chủ quan của nghệ sĩ : tình cảm, tâm lí, tư tưởng, ước mơ, lí tưởng, cá tính, tài năng Tác phẩm nghệ thuật là cách nhìn , cách đánh giá của nhà văn về cuộc sống, là sự khao khát công lí xã hội, là tiếng nói tâm tình, là lẽ ưu tư trước cuộc đời. Biélinski đã từng khẳng định: Tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống để mà miêu tả, không có sự thôi thúc chủ quan mạnh mẽ nào đó có cội nguồn từ trong tư tưởng bao trùm thời đại, nếu nó không phải là tiếng kêu đau khổ, một lời ca sung sướng, một câu hỏi đặt ra hay câu trả lời". Giá trị nội dung của tác phẩm văn chương, trước hết, không phải ở sự chân thực các chi tiết, ở những sự kiện lịch sử - xã hội được mô tả chính xác, ở sự tái hiện máy móc các hiện tượng, tình huống cuộc sống hay sự chuyển dịch giản đơn những tư tưởng nào đấy sang ngôn ngữ nghệ thuật. Lénine lưu ý chúng ta câu nói sau đây của Feuerbach: "Nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực". Lénine thấy rõ sự vĩ đại của L.Tolstoi không phải chủ yếu ở chỗ nhà văn đã đưa ra được "những bức tranh vô song về đời sống Nga" mà trước hết là ở chỗ L.Tolstoi đã thể hiện được các tư tưởng tâm trạng, sự thay đổi quan điểm của quần chúng nhân dân Nga. Cũng cần hiểu trên tinh thần ấy ý kiến sau đây của Lénine về L.Tolstoi: "L.Tolstoi, tấm gương phản chiếu cách mạng Nga" và "nếu trước mắt chúng ta là một nghệ sĩ thật sự vĩ đại thì thế nào trong tác phẩm của anh ta cũng phản ánh cho được vài ba khía cạnh của cuộc cách mạng". Lénine không nhằm đòi hỏi văn chương phải là những tấm gương phản chiếu đời sống. Bởi chính Lénine đã khẳng định rằng Tolstoi "không muốn nhìn ông ta nhắm mắt lại" trước hiện thực. Và như mọi người đều biết, trong các sáng tác nghệ thuật của L. Tolstoi không có sự phản ánh trực tiếp sự kiện cách mạng 1905 - 1907 ; nhà văn không xây dựng trên tài liệu này một tác phẩm đáng kể nào. Nhà văn thông qua việc phản ánh thế giới khách quan để biểu hiện thế giới chủ quan của mình. Tác phẩm nghệ thuật là khát vọng thể hiện một quan niệm về chân lí đời sống, về cái "chân" "thiện" "mĩ" trong
- tự nhiên, xã hội, trong quan hệ giữa người với người và trong mỗi con người. Ðó là chân lí tác giả đã thể nghiệm, tác giả muốn bày tỏ, muốn trang trải, muốn thuyết phục mọi người. Thạch Sanh và Lí Thông là mặt phải và mặt trái của chân lí đạo đức : "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" mà tác giả của truyện nôm khuyết danh này muốn răn dạy chúng ta. Chân lí của tính cách Chí Phèo không phải ở chỗ Chí là con ác thú mà là ở chỗ con ác thú trong con người Chí Phèo đã chịu thất bại trước bản năng nhân tính tiềm tàng của chính Chí. Hiện thực đời sống trong tác phẩm nghệ thuật chan chứa cảm hứng Mácnh của nghệ sĩ. Nếu thơ là cây xanh thì, theo Bạch Cư Dị, gốc của thơ là tình cảm, (căn: tình, miêu: ngôn, hoa: thanh, thựa: nghĩa). Lê Quý Ðôn cũng xem tình là điều đầu tiên trong 3 điều chính: "Thơ có 3 điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự " Tình cảm trong nghệ thuật phải là sự nồng cháy, sục sôi khẳng định điều thiện, phủ nhận điều ác, thiết tha với lẽ phải. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là viết về "Những điều trông thấy" với một tình cảm nhức nhối "đau đớn lòng". Ðiều đau đớn nhất đối với Nguyễn Du là thân phận của người phụ nữ trong xã hội vạn ác. Nguyễn Du phải thét lên : Ðau đớn thay phận đàn bà. Hồ Xuân Hương cũng đã nguyền rủa: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung. Hiện thực trong tác phẩm bao giờ cũng được thể hiện theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định do những xung đột, mâu thuẫn trong đời sống gợi nên. Không phải ngẩu nhiên mà trong mĩ học có những phạm trù : đẹp và xấu, cao cả và thấp hèn, bi và hài sự tồn tại những phạm trù đó trong mĩ học và nghệ thuật, chứng tỏ rằng nghệ sĩ bao giờ cũng có thiên hướng trong sáng tác. Kết thúc bài thơ "Ðời trước làm quan" Nguyễn Khuyến viết: Có tiền việc ấy mà xong nhỉ Ðời trước làm quan cũng thế a? Dưới hình thức "ngâm vịnh" về chuyện ngày xửa ngày xưa ("đời trước"), Nguyễn Khuyến đã tỏ thái độ hết sức bất bình với bọn tham quan ô lại đồng thời. III. TÍNH HIỆN THỰC VÀ TÍNH CHÂN THỰC CỦA VĂN NGHỆ
- 1. Tính hiện thực. Phản ánh hiện thực là thuộc tính, còn biểu hiện trước hiện thực là phẩm chất của văn nghệ. Tương ứng với đặc tính đó của văn nghệ là tính hiện thực và tính chân thực của nó. tính hiện thực là khái niệm xác định cơ sở khách quan của nhận thức nghệ thuật, tính chân thực lại xác định cơ sở chủ quan của nhận thức nghệ thuật. Một bên (tính hiện thực) chỉ thuộc tính tất yếu, một bên (tính chân thực) chỉ phẩm chất, giá trị. Tác phẩm nào cũng có tính hiện thực vì bất kỳ tác phẩm nào cũng phản ánh hiện thực. Nhưng, không phải tác phẩm nào cũng có tính chân thực. Văn nghệ có chân thực hay không, không phải tùy thuộc vào đối tượng mà tùy thuộc vào chủ thể. 2. Tính chân thực. Vậy tính chân thực là gì? Tính chân thực của văn nghệ không hề đồng nghĩa với việc phản ánh lập lại hiện thực, giống với tự nhiên, với "tính sự thực". Bởi vì, không phải mọi sự thực trong đời sống đều chân thực. Có những sự thực ngẫu nhiên, có những sự thực tất nhiên. Chỉ có sự thực trong sự vận động tất nhiên mới là cái chân thực của đời sống. Cho nên, tính chân thực của văn nghệ, trước hết, hàm nghĩa là sự phản ánh đúng đắn bản chất và quy luật đời sống. Nhưng đó mới là một phương diện của tính chân thực. Tính chân thực lịch sử (Tính chân thực lịch sử là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự phản ánh của văn chương với hiện thực đời sống). Tính chân thực của văn nghệ còn bao hàm một phương diện khác - Tính chân thực nghệ thuật. Tính chân thực nghệ thuật là thước đo giá trị chân thực của cảm xúc, sự đánh giá, bày tỏ thái độ của nghệ sĩ trước hiện thực, sự thể hiện bản lỉnh, nhân cách, cá tính độc đáo, tài năng sáng tạo của nghệ sĩ (Tính chân thực nghệ thuật là khái niệm chỉ sự phù hợp giữa sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn với yêu cầu tiếp thu của người thưởng thức). Như vậy, từ 2 phương diện trên,ta có thể xác định một cách đầy đủ khái niệm Tính chân thực của văn nghệ như sau: sự thống nhất giữa tính tất yếu và tự do sáng tạo của nghệ sĩ. Tóm lại, cần phân biết tính hiện thực và tính chân thực trong văn nghệ để tránh thái độ dung tục hóa văn nghệ, coi thường cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, lãng quên nhiệm vụ, đặc trưng của văn nghệ. TÍNH GIAI CẤP VÀ TÍNH NHÂN DÂN CỦA VĂN NGHỆ I. TÍNH GIAI CẤP CỦA VĂN NGHỆ Trong xã hội có giai cấp, bất kỳ một hiện tượng văn chương nghệ thuật nào cũng đều đề cập tới mặt này hay mặt khác, khía cạnh này hay khía cạnh khác, nông hay sâu, trực tiếp hay gián tiếp cuộc đấu tranh giai cấp của xã hội trên cơ sở lợi ích của một giai tầng nhất định mà người cầm bút đại diện. Ðặc điểm này của văn nghệ được gọi là tính giai cấp. 1. Tính giai cấp là thuộc tính tất yếu của văn nghệ trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh gai cấp. a. Tính giai cấp của văn chương là gì? Tổng hòa tất cả những đặc điểm về đề tài, chủ đề, tư tưởng, tình cảm cùng các biện pháp nghệ thuật thể hiện ý thức của một tầng lớp, một giai cấp xã hội nhất định trong văn nghệ là tính giai cấp của nó. Dù người nghệ sĩ cố ý hay không cố ý, muốn hay không muốn, bao giờ cũng sáng tạo nghệ thuật theo quan điểm của một giai tầng nhất định. Ta có thể thấy rõ điều đó khi đem đối chiếu tác phẩm của các tác giả thuộc các giai tầng khác nhau nhưng cùng viết về một đề tài. Chẳng hạn, cùng đề tài về chùa Trấn Bắc, nhưng thơ của bà Huyện Thanh Quan khác với thơ Ngô Ngọc Du về tư tưởng (bài chơi chùa Trấn Bắc và bài Ðàm ni thân thế khẩu thuật). Một bên là sự nuối tiếc, chua xót, một bên là hoan hỉ, vui mừng. Khi đi qua chùa Trấn Bắc, bà Huyện Thanh Quan nhìn thấy cảnh điêu tàn do Nguyễn Hữu Chỉnh phá phách, bà chạnh lòng nhớ tiếc nơi đã từng diễn ra những cuộc hoan lạc dưới thời Lê - Trịnh. Bà viết : Trấn Bắc hành cung có dãi dầu Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau. Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
- Chuông hồi kim cổ lắng càng mau Người xưa cảnh cũ, nào đau tả Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu Trong khi đó, Ngô Ngọc Du lại vui mừng trước sự sụp đỗ của triều Lê - Trịnh, tác giả reo vui trước sự đổi dời mà không một chút nuối tiếc thời đã qua. Ðây là tiếng nói của một con người bị chà đạp đè nén, được đổi đời, được giải phóng: Một sớm cửa tung, bừng ánh sáng Mọi người ùa tới dắt tay nhau Họ bảo: ngày nay đã đổi đời Trịnh bị diệt vong, Lê cũng tàn rồi Ðoạn trường rày hết kiếp oan trái. Tính giai cấp của văn nghệ được biểu hiện trong tác phẩm rất đa dạng, nhiều màu sắc, cung bậc, đậm nhạt khác nhau. Ðó có thể là nói một cách xa xôi bóng gió thân phận quẩn quanh của kiếp người dân xưa: Con kiến mà đeo cành đa Leo phải cành cụt leo ra, leo vào Con kiến mà leo cành đào Leo phải cành cụt leo vào leo ra. Hoặc thân phận người phụ nữ bị ràng buộc trong lễ giáo phong kiến khắc khe: Em như con hạc đầu đình Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay Hoặc đề cập trực tiếp tới vấn đề áp bức bóc lột giai cấp: Ðịa chủ và nông dân như trong truyện Tấm Cám, tiểu thuyết Tắt đèn, Bước đường cùng Hoặc đề cập đến một cách gay gắt, trực tiếp cuộc đấu tranh một mất một còn đối với kẻ thù giai cấp, dân tộc: Người mẹ cầm súng, Sống như Anh Văn nghệ nhân loại đã có thời kỳ, người sáng tác ra nó đã không có sự chế ước của hệ tư tưởng giai cấp này hay giai cấp khác và tác phẩm của họ cũng không nói tiếng nói của giai cấp nào cả. Ðó là thời kỳ xã hội chưa có giai cấp. Sau này, khi chủ nghĩa cộng sản đã trở thành hiện thực bao trùm lên toàn bộ trái đất thì văn nghệ cũng sẽ không còn biết đến tính giai cấp là gì. Nhưng trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã trở thành động lực của sự phát triển xã hội thì văn nghệ mang bản chất giai cấp là điều không tránh khỏi, dù sáng tác là của một em bé, dù nhân vật của một sáng tác nào đó là một em bé. Trần Ðăng Khoa có những bài thơ nổi tiếng , tuyệt hay về tư tưởng cũng như nghệ thuật từ lúc 7,8 tuổi. Những bài thơ thật ngây thơ nhưng thật già dặn: Thằng Mĩ nó đến nước tôi Búp bê nó giết, mạng người nó tra Nó bắn các cụ mù lòa Nó giết cả bé chưa và được cơm. Nhân vật đứa bé đi ở phải bóp cổ giết chết đứa bé con nhà chủ để được ngủ trong chuyện Buồn ngủ của Chekhov phải chăng là phản ứng của bản năng giai cấp. b. Vì sao trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp văn nghệ lại mang tính giai cấp? Văn chương là một hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, chịu sự qui định của hạ tầng cơ sở, khi bản chất cơ sở là bản chất giai cấp thì văn chương nảy sinh trên cơ sở ấy tất yếu mang tính giai cấp. Trong cơ cấu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác khẳng định văn chương là một hình thái ý thức xã hội, do cơ sở sinh ra và chịu sự qui định của nó. Trên một cơ sở kinh tế nhất định, nảy sinh một nền văn chương
- nhất định. Cơ sở kinh tế chẳng những quyết định sử nảy sinh mà phát triển của văn chương mà còn quyết định nội dung và tính chất của văn chương. Trong xã hội có giai cấp cơ sở hạ tầng - toàn bộ những quan hệ sản xuất - là quan hệ giữa các giai cấp về địa vị đối với hệ thống sản xuất xã hội đối với hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, về phương thức phân phối của cải. Nói cách khác, là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Văn chương nảy sinh trên cơ sở hạ tầng mang bản chất giai cấp đó tất yếu mang bản chất giai cấp - bản chất của cái đã sinh ra nó. Ví dụ: khi xã hội mà mâu thuẫn giai cấp cơ bản là mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân thì văn chương cũng xoay quanh mâu thuẫn đó (Tấm cám, Vợ chồng A Phủ, Tắt đèn). Khi xã hội chuyển sang chế độ tư bản - bản chất kinh tế là kinh tế hàng hóa, mâu thuẫn giai cấp cơ bản là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản thì văn chương xoay quanh vấn đề hàng hóa sức lao động, vấn đề nhân phẩm con người và tiền tài (Eugénie-Grandet, Người mẹ v.v ) Mặt khác, văn chương là một hình thái ý thức xã hội, như các hình thái ý thức xã hội khác, có tác dụng phục vụ, duy trì, bảo vệ hạ tầng cơ sở; khi cơ sở mà nội dung trọng yếu của nó là đấu tranh giai cấp thì văn chương có nhiệm vụ phục vụ cho cuộc đấu tranh giai cấp đó. Các giai cấp cầm quyền luôn luôn có ý thức sử dụng thượng tầng kiến trúc để duy trì lợi ích giai cấp mình. Văn chương là một trong những vũ khí lợi hại của giai cấp. Các giai cấp tận dụng triệt để sức mạnh của văn chương dùng nó làm vũ khí đấu tranh cho lợi ích giai cấp mình. Vì vậy mà văn chuơng là vũ khí đấu tranh giai cấp. Từ ngày xưa, Chu Ðôn Dy đã xem văn chương như là công cụ đằc lực truyền bá tư tưởng: văn dĩ tải đạo. Ngày nay, Bác Hồ khẳng định trực diện vũ khí đấu tranh giai cấp - văn chương rất đặc biệt này:Văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Ðứng ở góc độ nhận thức luận, phản ánh luận, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, văn chương là một hình thái ý thức nên nó phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội chủ yếu là quan hệ giữa các giai cấp và đấu tranh giai cấp thì văn chương - hình ảnh của tồn tại đó - tất yếu phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp. Phản ánh hiện thực là thuộc tính cơ bản của văn chương. Dù muốn hay không khi sáng tạo nghệ thuật, nghệ sĩ bao giờ cũng phàn ánh vào trong tác phẩm của mình thế này hay thế khác tồn tại xã hội, đời sống xã hội. Khi tồn tại xã hội là tồn tại mang bản chất giai cấp, văn chương phản ánh nó, tất yếu phản ánh các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. - Ðiều đặc biệt quan trọng là: tác phẩm văn chương là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, khi chủ thể nhận thức mang bản chất giai cấp thì sản phẩm ý thức của nó- tác phẩm văn chương tất yếu mang bản chất giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, nhà văn là con đẻ của một giai cấp nhất định. Lênin đã từng nói:không một người nào đang sồng mà lại có thể không đứng về một giai cấp này hay một giai cấp khác. Tác phẩm văn chương là ý thức, là tư tưởng, là hiện thực được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nghệ sỹ mang bản chất giai cấp, tất yếu mang tính giai cấp. Hơn thế, nhà văn là công dân giai cấp, đồng thời còn là người phát ngôn, đại biểu cho lợi ích giai cấp. Gorki đã từng khẳng định : Nhà văn là con mắt, là lỗ tai, là tiếng nói của một giai cấp". Vì thế, khi phản ánh hiện thực, sáng tạo nghệ thuật, nhà văn không thể không xất phát từ lập trường, từ quan điểm, từ nguyện vọng, từ lợi ích của giai cấp mình. Tóm lại, Tính giai cấp là một tất yếu lịch sử. 2. Tính giai cấp của văn chương là một hiện tượng lịch sử phức tạp. a. Tính giai cấp của văn chương không thuần nhất, đơn nhất. Con người là tổng hòa của những mối quan hệ xã hội. Các thành viên thuộc các giai cấp trong xã hội luôn luôn đấu tranh, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau, các thành viên của từng giai cấp không ngừng thay đổi và chuyển hóa từ giai cấp này sang giai cấp khác. Vì vậy, tính giai cấp của con người là không thuần nhất. Văn chương là tinh thần, tư tưởng của con người, do đó, tính giai cấp của nó không thuần nhất, đơn nhất. Chẳng hạn, Nguyễn Du và Truyện Kiều của ông, những mâu thuẫn gay gắt trong thế giới quan của Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều. Mỗi thời đại, giai cấp nào nắm quyền thống trị về vật chất thì đồng thời nắm quyền thống trị về tinh thần. Tư tưởng thống trị thời đại là tư tưởng giai cấp thống trị. Tư tưởng giai cấp bị trị không thể không bị