Tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn Phần 3: Văn học Việt Nam

docx 219 trang xuanha23 09/01/2023 3966
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn Phần 3: Văn học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtai_lieu_on_thi_thpt_quoc_gia_mon_ngu_van_phan_3_van_hoc_vie.docx

Nội dung text: Tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn Ngữ văn Phần 3: Văn học Việt Nam

  1. NGUYỄN ÁI QUỐC – HỒ CHÍ MINH I. Trình bày quan điểm sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, lí tưởng lớn lao duy nhất của Hồ Chí Minh là cứu nước, cứu dân. Người đã tâm sự: “ Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Vì ham muốn ấy mà Người đã ra đi tìm đường cứu nước và cống hiến cả đời mình cho sự nghiêp Cách Mạng giải phóng dân tộc. Trên con đường hoạt động Cách Mạng, Người đã thấy rõ văn học là vũ khí sắc bén, lợi hại, phục vụ đắc lực cho chính trị, cho sự nghiệp đấu tranh Cách Mạng. Người đã mài giũa ngòi bút của mình. Sáng tác văn chương để làm Cách Mạng. Mục đích chính trị đã chi phối quan niệm sáng tác nghệ thuật của Người. Quan điểm sáng tác nghệ thuật của Hồ Chí Minh gồm 3 nội dung chính. 1.Trước hết Hồ Chí Minh coi văn học là một vũ khí chiến đấu lợi hại, phụng sự cho sự nghiệp Cách Mạng, nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ ngoài mặt trận. Tinh thần ấy đã được Người thể hiện trong bài “ Cảm tưởng đọc thiên gia thi” “ Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” “ Chất thép” ở đây là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng, là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của hội họa toàn quốc năm 1931. Người khẳng định: “ Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, anh/chị/em phải là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Quan điểm đó vừa phát huy truyền thống thơ văn đuổi giặc của ông cha ta từ Lí Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đến Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, vừa được nâng cao trong thời đại Cách Mạng vô sản. 2. Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính “chân thật” và tính dân tộc của văn học. Tính chân thật: Người quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung: nội dung tác phẩm phải miêu tả cho chân thực đời sống Cách Mạng có tính khuynh hướng rõ ràng. Trong buổi khai mạc phòng triển lãm văn hóa, Người nhận xét một số tác phẩm hội họa, “ chất mơ mộng nhiều quá mà cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít”. Người căn dặn các nhà văn phải miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn hiện thực phong phú của cuộc sống và phải “ giữ tình cảm chân thật” Về hình thức nghệ thuật nhà văn không nên viết cầu kì xa lạ, nặng nề, khó hiểu mà hình thức tác phẩm phải trong sáng hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc, phải thể hiện được tinh thần của nhân dân và được nhân dân yêu thích. Tính dân tộc: Hồ Chí Minh rất coi trọng tính “ dân tộc” của văn học, Người căn dặn các nghệ sĩ “ nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc” đồng thời Hồ Chí Minh cũng đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Người nhắc nhở “ Chớ gò bó họ vào khuôn khổ làm mất vẻ sáng tạo”
  2. Như vậy tác phẩm văn chương phải đậm tính dân tộc và tính nhân dân. 3. Khi cầm bút Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đính đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt câu hỏi: “ Viết cho ai ( đối tượng), viết để làm gì ( hình thức), viết cái gì ( nội dung) và viết như thế nào ( hình thức). Tùy từng trường hợp cụ thể. Người đã vận dụng phương châm đó theo những cách khác nhau. Vì thế tác phẩm của Người chẳng những có tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực mà còn có hình thức nghệ thuật sinh động và đa dạng. Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh rất rõ ràng cụ thể, sâu sắc, toàn diện. Quan điểm đó đã được thể hiện một cách nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp văn học của Người. II. Trình bày sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Văn chương không phải là sự nghiệp chính của Hồ Chí Minh, tuy nhiên bên cạnh sự nghiệp Cách Mạng vĩ đại, Người còn để lại một di sản văn học lớn lao về tầm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách nghệ thuật. Do nhiều năm hoạt động ở nước ngoài nên tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chi Minh được viết bằng tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Việt và được tập trung thể hiện ở 3 thể loại chính: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca. 1. Văn chính luận: Từ những thập niên đầu thế kỉ XX các bài văn chính luận mang bút danh Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp đăng trên các tờ báo. Người cùng khổ, Nhân đạo, đời sống thơ thuyền đã thể hiện tính chiến đấu hết sức mạnh mẽ. Các tác phẩm này lên án những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa, kêu gọi những người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại, đoàn kết đấu tranh. Tiêu biểu nhất cho văn chính luận của Người ở giai đoạn này là “ Bản án chế độ thực dân Pháp”. Tác phẩm được xuất bản lần đầu ở Pa-ri năm 1925. Về nội dung bản án đã tố cáo một cách đanh thép tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa, ép buộc hàng vạn dân “ bản xứ” phải đổ máu vì “ mẫu quốc” trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Bóc lột và đầu độc họ bằng sưu thuế, rượu và thuốc phiện. Tổ chức một bộ máy cai trị bất chấp công lí và nhân quyền. Vì vậy, bản án chết độ thực dân Pháp đã tạo nên một tiếng vang lớn ở nước Pháp lúc bấy giờ. Đọc bản án chế độ thực dân Pháp, nhiều người Pháp đã phải thốt lên: “ Ồ, thật là ghê tởm”. Nếu so sánh những tên thực dân Pháp với những tên cướp đường thì những tên cướp đường còn là người lương thiện”. Về nghệ thuật: tác phẩm lôi cuốn người đọc không chỉ bằng những sự việc được miêu tả rất chân thực, cứ liệu phong phú, chính xác mà còn ở thái độ, tình cảm sâu sắc mãnh liệt của tác giả và nghệ thuật châm biếm đả kích sắc sảo, giàu chất trí tuệ. Người viết còn rất thành công khi kể lại những câu chuyện nhỏ nhưng có tác dụng sâu sắc trong việc tố cáo tội ác của bọn chủ nghĩa thực dân. Nói đến văn chính luận của Hồ Chí Minh không thể không nói tới bản Tuyên Ngôn Độc Lập – văn kiện chính trị này không chỉ mang ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là một áng văn chính luận tiêu biểu mẫu mực. Về giá trị lịch sử. Về giá trị văn học: Nội dung
  3. Nghệ thuật. Tiếp sau Tuyên Ngôn Độc Lập là những áng văn chính luận nổi tiếng như “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (1946) và “ không có gì là qúy hơn độc lập tự do” (1966). Những văn kiện quan trọng này được viết trong những giờ phút thử thách đặc biệt quan trọng: văn phong vừa hào sáng, tha thiết làm rung động trái tim hàng triệu người Việt Nam yêu nước. Trong những năm cuối cùng của cuộc đời Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta bản di chúc (1969). Tác phẩm vừa là lời căn dặn tha thiết, ân tình đối với đồng bào cả nước, đồng thời bày tỏ tình cảm của Người với bè bạn quốc tế. Đồng thời bản di chúc của Hồ Chí Minh còn đề ra phương hướng phát triển đất nước sau khi đất nước giành được độc lập, Nam Bắc sum họp một nhà. Những áng văn chính luận tiêu biểu của Hồ Chí Minh được viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo mà còn bằng tấm lòng yêu nước nồng nàn sâu sắc của một trái tim vĩ đại được biểu đạt bằng lời văn chặt chẽ súc tích. 2. Truyện và kí: Trong thời gian hoạt động ở Pháp, ngoài những tác phẩm chính luận Nguyễn Ái Quốc còn sáng tác một số truyện ngắn, kí, tiểu phẩm sau này được tập hợp lại trong tập truyên và kí. Truyện: Nguyễn Ái Quốc đã để lại một số truyện ngắn viết bằng tiếng Pháp được đăng báo ở Pa-ri, tiêu biểu là các tác phẩm : Pari (1922) Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922) Đồng tâm nhất chí (1922) Con người biết mùi hun khói (1922) Vi hành (1923) Những trò lố hay La–va–ren và Phan Bội Châu (1922) Nội dung: Những truyện ngắn này nói chung đều nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo xảo trá của bọn thực dân và bọn phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa. Đồng thời đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng. Nghệ thuật: bằng một bút pháp hiện đại và nghệ thuật trần thuật linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên được những tình huống truyện độc đáo, hiện trượng sinh động, sắc sảo. Qua những thiên truyện này, người đọc có thể nhận ra một cây bút văn xuôi tài năng với trí tưởng tượng phong phú, con mắt quan sát sắc sảo, lời văn linh hoạt hóm hỉnh, sắc cạnh, một vốn văn háo sâu rộng, một trí tuệ sắc sảo và một trái tim tràn đầy nhiệt tình yêu nước và Cách Mạng. Kí: Người để lại một số tác phẩm tiêu biểu như: Nhật kí chìm tàu (1933) và vừa đi đường vừa kể chuyện (1963). Đọc những bài kí này người đọc thấy hiển hiện một cái tôi Hồ Chí Minh rất đỗi trẻ trung hồn nhiên và giản dị, say mê hoạt động, ham học hỏi, có năng khiếu quan sát sắc sảo mau lẹ của một kí giả có tài ở đâu làm gì cũng sống hết mình với công việc, với người cảnh. Tinh thần dân chủ thấm sâu trong tác phong sinh hoạt hàng ngày, trong thái độ, chân tình, yêu qúy với những con người thường vô danh, nhưng họ là nền tảng của dân tộc là độc lực vĩ đại của lịch sử. 3. Thơ ca:
  4. Nhật kí trong tù: tên tuổi của Hồ Chí Minh gắn liền với tập thơ chữ Hán “ Ngục trung nhật kí” Hoàn cảnh sáng tác: đây là một tập nhật kí bằng thơ được viết trong thời gian Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Nội dung: Tác phẩm ghi lại những điều tai nghe mắt thấy trong nhà tù và trên đường đi đày từ nhà lao này đến nhà lao khác tại Quang Tây Trung Quốc. Tập thơ đã tái hiện một cách chân thực chi tiết bộ mặt tàn bạo của chế độ nhà tù quốc dân Đảng và một phần hình ảnh xã hội Trung Quốc những năm 1942 – 1943 với ý nghĩa phê phán sâu sa. Tuy nhiên “ Nhật kí trong tù” chủ yếu ghi lại tâm trạng cảm xúc suy nghĩ của tác giả, phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ Cách Mạng trong hoàn cảnh thử thách nặng nề của chốn lao tù. Nhờ vậy, qua tập thơ ta có thể nhận ra bức chân dung tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh. Đó là một con người có nghị lực phi thường, tâm hồn luôn khao khát tự do, hướng về tổ quốc, vừa nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, dễ động lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của con người, vừa có con mắt sắc sảo, nhìn thấy những nghịch lí của một xã hội thối nát để tạo ra những tiếng cười đầy trí tuệ. Nói như Đặng Thai Mai: “ Đọc nhật kí trong tù thực sự cảm thấy đúng tác một thi sĩ và một con người cao cả vĩ đại” và nhà văn Viên Ưng – Trung Quốc đã khẳng định tìm thấy ở tập thơ “ một tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng”. Nghệ thuật: Nhật kí trong tù là một tập thơ đặc sắc đa dạng và linh hoạt. về bút pháp, kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại. Tập thơ kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật thơ ca. Ngoài nhật kí trong tù phải kể đến một số chùm thơ Người làm ở chiến khu Việt Bắc 1941 – 1945 và trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh những bài được viết nhằm mục đích tuyên truyền như: Dân cày, Ca công nhân, ca binh lính, ca sợi chỉ, là những bài thơ nghệ thuật vừa có màu sắc cổ điển, vừa mang tinh thần hiện đại như: Pác bó hùng vĩ, Tức cảnh Pác bó, cảnh rừng Việt Bắc, Nguyên tiêu thượng sơn, cảnh khuya. Nổi bật trong thơ Người là nhân vật trữ tình luôn mang nặng nỗi nước nhà mà phong thái vẫn ung dung, tâm hồn luôn hòa hợp với thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của một nhà Cách Mạng vĩ đại luôn luôn làm chủ tình thế, tin tưởng vào tương lai tất thắng của Cách Mạng, tuy trước mắt còn nhiều gian nan, thử thách. Nội dung sáng tác văn học của Hồ Chí Minh rất phong phú về thể loại, lớn lao về tầm vóc tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật. Đó mãi mãi là những di sản văn học vô giá của dân tộc ta. III. Trình bày những nét chính về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh. Văn chương không phải là sự nghiệp chính của Hồ Chí Minh tuy nhiên bên cạnh sự nghiệp Cách Mạng, Người còn để lại cho dân tộc ta một di sản van học lớn lao về tầm vóc tư tưởng phóng phú về thể loại, đa dạng và độc đáo về phong cách nghệ thuật.
  5. 1.Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh vừa độc đáo đa dạng lại vừa có tính thống nhất. 1.1. Tính đa dạng và độc đáo. Nhìn chung ở mỗi thể loại văn học từ văn chính luận, truyện và kí cho đến thơ ca, Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng độc đáo và hấp dẫn. Văn chính luận: Văn chính luận của Người ngắn gọn, súc tích, bằng chứng đầy thuyết phục giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh, giọng tình đạt lí, như đưa lẽ phải vào lòng người, khi lại rất mạnh mẽ và hùng hồn. Truyện và kí: những tác phẩm truyện và kí của người rất hiện đại thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén, tiếng cười trào phúng của Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Phạm Huy Thông đã nhận xét: “ Văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc có đặc điểm nổi bật là dí dỏm, hài hước điều đó không ngăn người viết nên những lời thắm thiết trữ tình khi xúc động”. Thơ ca: thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh, thơ của Người có thể chia làm 2 loại, mỗi loại có những nét phong cách riêng. Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền Cách Mạng thường được viết bằng hình thức bài ca, bài vè, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ mang hình thức dân gian hiện đại. Những bài thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mĩ hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển bằng chữ Hán mang đặc điểm của thơ cổ phương Đông với sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại. Loại thơ nghệ thuật này là tiếng nói tinh tế và sâu sắc nhất của tâm hồn Hồ Chí Minh vừa hồn nhiên, tự nhiên, vừa trẻ trung, hiện đại, vừa đậm đà phong vị cổ điển, vừa đầy chất thép kiên cường, vừa chan chứa tinh thần nhân đạo vừa dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Nhà phê bình người Pháp Rô-giê Đơ-nuy đã nhận xét: “ Thơ người nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lặng, không phô diễn mà như cố khép lại trong đường nết để người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ở ngoài lời”. 1.2 Phong cách của Hồ Chí Minh là hình tượng vừa đa dạng lại vừa thống nhất. Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh là một hình tượng vừa đa dạng vừa thống nhất. Tính thống nhất đa dạng của Hồ Chí Minh thể hiện trong toàn bộ sáng tác thơ văn của Người. Đó là sự nhất quán trên quan điểm sáng tác. Khi cầm bút bao giờ Người cũng xác định viết cho ai, viết để làm gì, viết cái gì và viết như thế nào? Nhất quán ở cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị với sự sáng tạo linh hoạt, hoàn toàn chủ động trong sử dụng hình thức thể loại và ngôn ngữ. Các bút pháp và thủ pháp nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích thiết thực của mỗi tác phẩm. Đồng thời từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật luôn luôn vận động một cách tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
  6. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP _ Hồ Chí Minh _ I. Hoàn cảnh sáng tác của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ Cách Mạng vĩ đại, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với cuộc đời hoạt động Cách Mạng của Người. “Tuyên Ngôn Độc Lập” là áng văn chính luận mẫu mực của Hồ Chí Minh. Tác phẩm được sáng tác trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của tác giả và dân tộc. Trên thế giới cuộc đại chiến lần thứ hai đang ở giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô đã tấn công vào tận sào huyệt cuối cùng của bọn phát xít ở thủ đô Béc-lin. Ở phương Đông, phát xít Nhật – kẻ xâm lược nước ta đã đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện.
  7. Đối với nước ta, đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền. Hồ Chí Minh đã gọi đây là thời cơ “ nghìn năm có một”. + Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân ta. + Ngày 23/8/1945 nhân dân ta giành được chính quyền ở Huế. + Ngày 25/8/1945 nhân dân ta giành được chính quyền ở Sài Gòn. + Ngày 26/8/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà nhỏ 48 phố Hàng Ngang ( đây là căn nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô) chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập. + Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Người đã thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng vạn đồng bào. - Trong khi đó bọn đế quốc thực dân câu kết với bọn phản động trong nước tìm cách phá hoại chính quyền Cách Mạng còn non trẻ của ta. + Ở phía Bắc là 22 vạn quân Tưởng – tay sai của đế quốc Mĩ. + Phía Nam là 18 vạn quân Anh nấp sau là lính viễn chinh Pháp. + Lúc này Anh, Pháp, Mĩ mâu thuẫn với Liên Xô. Anh, Mĩ sẵn sàng nhân nhượng cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài bao vây, nhòm ngó. Đặc biệt lúc này Pháp tung ra dư luận trên thế giới: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm. Nay Nhật đầu hàng Đồng minh, Đông Dương đương nhiên phải trở lại tay Pháp. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã bác bỏ dứt khoát luận điệu này. Nói chung bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh được sáng tác trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt của thế giới. Vì vậy, nó đòi hỏi Người lãnh tụ phải có chiến lược phù hợp, phải huy động được sức mạnh của toàn dân mới có thể đưa con thuyền Cách Mạng đến thắng lợi cuối cùng. II. Đối tượng sáng tác và mục đích sáng tác của bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt bản thân xuống dưới, nhân dân lên làm đầu. Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Bác đã mở đầu bằng “ Hỡi đồng bào cả nước”. Bên cạnh đó bản Tuyên Ngôn Độc Lập còn hướng tới cả nhân dân thế giới, nhưng không phải là nhân dân thế giới nói chung mà chủ yếu là phe đồng minh, trong đó có Anh, Mĩ, đặc biệt là thực dân Pháp. Bởi vì Anh, Mĩ, Pháp đang muốn xâm lược Việt Nam và muốn hợp thức hóa cuộc chiến tranh này trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tuyên bố rất trịnh trọng “ vì những lẽ trên, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới.” Bản Tuyên Ngôn Độc Lập không chỉ hướng tới đối tượng cụ thể mà còn có mục đích xác định. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nhằm tuyên bố với đồng bào cả nước và nhân dân thế giới về quyền độc lập tự do của dân tộc ta. Sau gần 1000 năm dưới sự thống trị của phong kiến, 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, 5 năm dưới sự thống trị tàn bạo của phát xít, nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên
  8. nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện cho Cách Mạng vô sản khai sinh ra nước Việt Nam mới. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập thể hiện lập trường nhân đạo, chính nghĩa, nguyện vọng hòa bình cũng như tinh thần quyết tâm bảo về độc lập tự do của dân tộc Việt Nam: “ Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh nhần, lực lượng, tính mạng, của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” Bản Tuyên Ngôn Độc Lập thực sự là một cuộc đấu lí, cuộc tranh luận ngầm với thực dân Pháp. Bởi vì lúc này, Pháp tung ra dư luận trên thế giới, Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Đây là luận điệu xảo trá của kẻ thù nhằm hợp thức hóa cuộc chiến tranh trở lại Đông Dương. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã bác bỏ dứt khoát luận điệu này, đồng thời tuyên bố xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước ta, tuyên bố xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Với đối tượng cụ thể, mục đích xác định, bản Tuyên Ngôn Độc Lập xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực, là “ thành công thứ ba” khiến Người cảm thấy sung sướng trong suốt cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn, làm báo của mình. III.Giá trị của bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ Cách Mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời Người cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với cuộc đời hoạt động Cách Mạng của Người. Tuyên Ngôn Độc Lập là áng văn chính luận mẫu mực của Hồ Chí Minh. Đây là một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học rất to lớn. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta. Tác phẩm đánh giá một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Đất nước ta chấm dứt hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, chuyển sang một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên độc lập tự do. Người dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước, làm chủ cuộc đời mình. Trước bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh, lịch sử Việt Nam có 2 tác phẩm được xem như hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập dân tộc là Nam quốc sơn hà ( tương truyền là của Lí Thường Kiệt thế kỉ XI) và Bình Ngô đại cáo ( Nguyễn Trãi thế kỉ XV). Hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập thời phong kiến tuy mang hào khí anh hùng của dân tộc nhưng mới chỉ giải quyết được nhiệm vụ độc lập cho dân tộc, chứ chưa giải quyết được nhiệm vụ dân chủ cho người dân. Nghĩa là nước nhà được độc lập chính quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương. Đó là do hạn chế của lịch sử. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh đã giải quyết được nhiệm vụ độc lập cho dân tộc, lại giải quyết được nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân: “ Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ Cộng Hòa.” Tức là bên cạnh quyền độc lập dân ta lại có thêm quyền tự do. Đó là tư tưởng lớn, là chân lí của thời đại mà sau này Hồ Chí Minh đã đúc kết trong một câu nói nổi tiếng: “ Không có gì qúy hơn độc lập tự do” ( lời kêu gọi toàn quốc chống Mĩ 17/7/1966). Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã khẳng định mạnh
  9. mẽ chủ quyền độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm bảo vệ quyền độc lập tự do của nhân dân ta. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập còn khẳng định vị trí của Việt Nam trường quốc tế, vạch trần âm mưu xâm lược và đập tan luận điệu của kẻ thù. Đồng thời bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Mặt khác tác phẩm còn là bản cáo trạng đanh thép vạch trần tội ác tày trời của kẻ thù đối với nhân dân ta. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn chính luận ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục; lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng tiêu biểu không ai có thể chối cãi, văn phong sắc sảo, giàu tính thẩm mĩ. Từ ngữ chính xác gợi cảm và hùng hồn, xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực, là một bản thiên cơ hùng văn sánh ngang với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Với giá trị lịch sử và giá trị văn học vô giá, bản Tuyên Ngôn Độc Lập xứng đáng trở thành bức tượng đài văn chương vĩnh cửu trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại, là “ thành công thứ ba” khiến Người cảm thấy sung sướng trong suốt cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn và làm báo của mình. IV. Phân tích “ Tuyên Ngôn Độc Lập” của Hồ Chí Minh Những tư tưởng lớn của các bậc vĩ nhân phản ánh chân lí của lịch sử và ý nguyện của nhân loại thường giản dị thường có sức sống lâu dài. Dù nhiều lúc được phát biểu rất giản dị. Thời gian càng lùi xa, lịch sử càng tiến lên, các tư tưởng đó ngày càng được thực tiễn kiểm nhiệm và tỏa sáng trong ý thức của mọi con người và các cộng đồng người như “ ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, như suối trở thành sông, càng đi ra biển càng trở thành rộng lớn. Đó cũng là trường hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong Tuyên Ngôn Độc Lập. Văn kiện này do chính Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên đọc cách đây hơn 60 năm. Phản ánh quy luật cơ bản của lịch sử dân tộc và nguyện vọng sâu xa của nhân dân ta. Có thể nói Tuyên Ngôn Độc Lập đã và sẽ trở thành tượng đài văn chương vĩnh hằng trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại. 1. Giới thiệu chung: Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh được ra đời vào một thời điểm đặc biệt của lịch sử dân tộc và nhân loại. Chiến tranh thế giới thứ 2 đang ở giai đoạn kết thúc. Phát xít Nhật – kẻ đang xâm lược nước ta đã bị quân Đồng Minh đánh bại trên toàn thế giới. Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân, ngày 26/8/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945 Người đã thay mặt chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đọc Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng vạn đồng bào tại quảng trường Ba Đình Hà Nội. Trong khi đó bọn đế quốc thực dân câu kết với bọn phản động trong nước tìm cách phá hoại chính quyền còn non trẻ của ta. Phía Bắc là quân Tưởng, tay sai đế quốc Mĩ. Phía Nam là thực dân Anh, lấp sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này Pháp tung ra dư luận: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm nay Nhật đầu hàng Đồng Minh đương nhiên phải trở lại với người Pháp.
  10. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được viết ra nhằm hướng tới đồng bào cả nước với nhân dân thế giới, đặc biệt là phe đồng minh. Để tuyên bố về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Khẳng định lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Tuyên Ngôn Độc Lập còn là cuộc đấu lí, tranh luận ngầm với thực dân Pháp nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lược của kẻ thù. Để đạt được mục đích trên, Tuyên Ngôn Độc Lập có kết cấu rất chặt chẽ. Tác phẩm được cấu thành 3 phần: Phần mở đầu: Hồ Chí Minh nêu lên cơ sở pháp lí, chính nghĩa của bản tuyên ngôn. Phần 2: Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Khẳng định lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Kết thúc bản Tuyên Ngôn Độc Lập: Hồ Chí Minh đưa ra lời tuyên bố đồng thời khẳng định một lần nữa ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của nhân dân ta. 2. Phân tích: 2.1 Phần mở đầu Hồ Chí Minh đã nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn bằng cách trích dẫn 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của 2 nước lớn: Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ( 1776 của Mĩ và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791) Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của Mĩ đã ghi: “ tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “ Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Cả 2 bản tuyên ngôn đều khẳng định quyền con người, đặc biệt nhấn mạnh quyền tự do và bình đẳng của con người. Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây là luận điểm nền tảng coi độc lập tự do bình đẳng, bác ái là những thành tựu lớn của tư tưởng nhân loại, là lí tưởng theo đuổi hết sức cao đẹp của nhiều dân tộc. Việc trích dẫn 2 bản Tuyên Ngôn Độc Lập trên có ý nghĩa rất to lớn. Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên lí chung quyền được tự, bình đẳng của con người để khẳng định lập trường chính nghĩa của dân tộc đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Mà đã là lẽ phải thì dù là người Mĩ, người Pháp hay người Việt Nam đều phải được hưởng quyền tự do, bình đẳng như một chân lí hiển nhiên của lịch sử. Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam – lí lẽ của tổ tiên người Mĩ và người Pháp. Cách nói và viết như thế tỏ ra vừa khéo léo lại vừa rất kiên quyết. Khéo léo ở chỗ người tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp từng ghi trong bản tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn học của dân tộc họ. Nhưng kiên quyết ở chỗ Người nhắc nhở người Mĩ, người Pháp đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo và chính nghĩa của các cuộc Cách Mạng vĩ đại của nước Mĩ và nước Pháp. Nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. Bởi họ chống lại Việt
  11. Nam là họ chống lại chính họ, chống lại truyền thống vẻ vang nhất, giá trị ưu tú nhất của dân tộc, quốc gia tổ tiên họ và rút cục họ sẽ bị thất bại. Đúng như một câu nói nổi tiếng “ kẻ nào bắn vào quá khứ một phát súng lục sẽ bị tương bắn trả bằng một loạt đại bác”. Nhắc đến 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của 2 nước lớn, Hồ Chí Minh đã đặt 3 bản tuyên ngôn ngang hàng nhau và 3 nền độc lập ngang hàng nhau. Cuộc Cách Mạng của nước Mĩ do Oa-sinh-tơn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ lật đổ ách thống trị của thực dân Anh và khi cuộc Cách Mạng thành công, nước Mĩ tuyên bố độc lập tự do và được nhân dân cả nước trên thế giới thừa nhận. Cuộc Cách Mạng tư sản của nước Pháp năm 1789 thực hiện nhiệm vụ lật đổ sự thống trị của bọn phong kiến, giai cấp tư sản Pháp lên nắm chính quyền. Nước Pháp đã được độc lập tự do và đương nhiên cũng được các nước trên thế giới thừa nhận. Cuộc Cách Mạng của dân tộc Việt Nam đã thực hiện đồng thời cùng một lúc hai nhiệm vụ của cuộc Cách Mạng tư sản Pháp và cuộc Cách Mạng của nước Mĩ, lật đổ ngai vàng thống trị của bọn phong kiến, ách thống trị tàn bạo của bọn phát xít thực dân. Vì thế Việt Nam có vị thế bình đẳng với các nước trên thế giới. Các nước đã họp ở hội nghị. Tê hê răng và Cưu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Kín đáo hơn bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của dân tộc của tác giả bài Bình Ngô đại cáo xưa khi ở đầu tác phẩm bằng 2 vế cân xứng như đã đặt các triều đại của Nam quốc sánh ngang với triệu đại Bắc quốc: “ Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nên độc lập Cùng Hán, Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương” Trong tranh luận để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy không gì thú vị, đích đáng hơn bằng việc dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Hồ Chí Minh đã sử dụng thành công thư pháp lấy “gậy ông đập lưng ông”, để ngăn chặn âm mưu xâm lược của kẻ thù. Như vậy, với việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục để chuẩn bị tiền đề cho lập luận ở những phần tiếp theo, làm cơ sở cho hệ thống lập luận của bản tuyên ngôn. Tư duy của Hồ Chí Minh thông minh, sắc bén, linh hoạt và biến hóa khôn lường. Cùng với việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh còn có một câu, suy rộng ra câu ấy có y nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sướng sướng và quyền tự do. Với ba chữ “ suy rộng ra” đó Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng nhân quyền và dân quyền từ thế kỉ XVIII trở thành tư tưởng của thế kỉ XX. Từ phạm trù Cách Mạng tư sản sang phạm trù Cách Mạng vô sản, từ phạm trù giải phóng cá nhân sang phạm trù giải phóng dân tộc và nhân loại. Với Hồ Chí Minh nhân quyền và dân quyền không chỉ là quyền bất khả xâm phạm của mọi cá nhân ( thực chất thời đại tư sản là của một số cá nhân có tiền nên có quyền với đa số cá nhân khác) mà còn là quyền bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc. Bởi vì làm sao có được quyền tự do bình đẳng, bác ái giữa người với người. Nếu còn dân tộc này xâm lược, áp bức, thống trị dân tộc khác. Làm sao có nhân quyền và dân quyền thực sự nếu đại đa số
  12. các dân tộc trên địa cầu không có quyền tự quyết định lấy số phận của mình, phải nương thân gửi mạng vào tay 1 thế lực cậy súng cậy tiền tha hồ làm mưa làm gió trên vũ đài quốc tế. Các – Mác đã nói một câu rất hay: “ Một dân tộc áp bức dân tộc khác không phải là một dân tộc tự do” Như vậy cái tự do bình đẳng bác ái mà Mĩ và Pháp rêu rao trên vũ đài cai trị quốc tế thực chất chỉ là hình thức bên ngoài nhằm che đậy âm mưu xâm lược các quốc gia. Sự suy rộng ra của Hồ Chí Minh đã làm cho khái niệm nhân quyền và dân quyền từ nội dung cũ thêm nội dung mới. Nội dung mới không những bổ sung mà còn làm thoái hóa cả nội dung cũ theo thực tiễn và tinh thần của thời đại mới. Ý kiến suy rộng ra của Hồ Chí Minh quả là đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã nói: “ cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Có thể xem luận điểm suy rộng ra là phát súng kệnh khởi đầu cho bão táp Cách Mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ hệ thống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. Trong phần mở đầu bản tuyên ngôn, cùng với câu suy rộng ra, Hồ Chí Minh còn có một câu khẳng định: “ Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Câu khẳng định này nhằm nhấn mạnh lại một lần nữa cơ sở pháp lí chính nghĩa của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng là tiền đề quan trọng để Người tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp trong hơn 80 năm thống trị nước ta về tất cả mọi mặt. Như vậy phần mở đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập rất ngắn gọn và súc tích, những lập luận vô cùng chặt chẽ , lí lẽ đanh thép, bằng chứng tiêu biểu, toàn diện không ai có thể chối cãi. Tất cả đã thể hiện một tầm văn hóa và tư tưởng vô cùng vĩ đại của Hồ Chí Minh. Người đã đứng trên lập trường nhân đạo chính nghĩa đòi quyền độc lập tự do cho dân tộc mình và quyền tự quyết định lấy vận mệnh của tất cả các dân tộc trên thế giới. Như vậy chỉ phần mở đầu có thể khẳng định Hồ Chí Minh là con người của nhân loại. 2.2 Bản Tuyên Ngôn Độc Lập tố cáo tội ác của thực dân Pháp, khẳng định lập trường nhân đạo chính nghĩa của ta và đưa ra lời tuyên bố. 2.2.1 Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Để hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược trở lại Việt Nam, thực dân Pháp đã tung ra dư luận quốc tế Pháp có công lao mở mang, khai hóa được Đông Dương. Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp và Pháp thuộc phe Đồng Minh chống phát xít. Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm nay Nhật đã đầu hàng Đồng Minh, Dông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Đứng trên lập trường nhân đạo và chính nghĩa, bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tố cáo tội ác của Pháp trên tất cả các mặt nhằm vạch trần âm mưu xâm lược và đập tan mọi luận điệu xảo trá của kẻ thù. Trước hết Pháp tung ra dư luận Pháp có công lao mở mang, khai hóa với Đông Dương. Mở mang khai hóa nghĩa là người Pháp sẽ mang ánh sáng văn minh từ mẫu quốc sang các nước thuộc địa làm cho các nước thuộc địa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, mông muội, ngày một trở nên văn minh và tiến bộ hơn. Đây thực
  13. chất là những chiêu bài chính trị của bọn chủ nghĩa thực dân, hòng hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu của chúng ở Đông Dương. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã vạch trần những hoạt động trái hẳn nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về nhiều mặt. Về chính trị chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập 3 chế độ khác nhau ơ Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Về văn hóa – xã hội chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng còn đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện. Về kinh tế chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, chúng cướp không ruộng đất hầm mỏ và nguyên liệu của chúng ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Về ngoại giao, chúng giữ độc quyền với giấy bạc, xuất cảng, nhập cảng. Từ những dẫn chứng cụ thể Hồ Chí Minh đã chỉ ra kết quả của quá trình mở mang khai hóa mà bọn thực dân Pháp đã thực hiện ở nước ta. Đó là nòi giống ta bị suy nhược, dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều, dân cày và dân buôn trở nên bần cùng, đặc biệt bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp trong lịch sử “ cuối năm ngoái sang đầu năm nay, QT đến BK hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói”. Đó là bằng chứng không thể chối cãi, đã lật tẩy bộ mặt tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp, chúng đã đi ngược lại truyền thống văn hóa của nước Pháp và nhân loại. Nhà văn Rôđaighết đã diễn tả nỗi đau xót của Hồ Chí Minh trước hiện thực lịch sử này: “ Người đã đói với mọi cơn đói ngày xưa Người đã chết hơn 2 triệu lần năm đói 45 khủng khiếp” Để làm nổi bật tội ác của Pháp, Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp liệt kê nêu tội ác của Pháp trên tất cả các mặt từ chính trị, văn hóa – xã hội đến kinh tế, ngoại giao để cho thấy đây là những tội ác trời không rung đất không tha. Lí lẽ của Hồ Chí Minh rất sát đáng, bằng chứng xác thực không thể chối cãi, ngôn ngữ sắc xảo, gợi cảm hùng hồn, đặc biệt văn chính luận nhưng Người viết văn rất có hình ảnh. Đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ta không thể quên được những câu văn vừa giàu hình ảnh, vừa có sức gợi cảm tác động mạnh mẽ đến hình ảnh của con người như “ chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu, nước ta xơ xác tiêu điều, chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên”. Vì thế đoạn văn không chỉ đập tan chiêu bài mở mang “ khai hóa” văn minh của thực dân Pháp với những tội ác vô cùng dã man, tàn bạo mà còn gây xúc động hàng triệu con tim, khơi dậy lòng phẫn nộ của nhân dân ta với bọn thực dân Pháp. Thực dân Pháp còn muốn kể công lao “ bảo hộ” đói với Đông Dương. “ Bảo hộ” có nghĩa là bảo vệ, hỗ trợ Đông Dương giúp cho Đông Dương không bị các nước bên ngoài xâm chiếm. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã vạch trần chân tướng hèn hạ phản bội nhục nhã của thực dân Pháp.
  14. Mùa thu năm 1940 khi quân Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh thì bọn thực dân Pháp qùy gối đầu hàng, mở cửa nước ta cho nước Nhật, từ đó dân ta chịu 2 tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Ngày 9/3/1945 Khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy hoặc là đầu hàng. Từ những sự thực lịch sử trên Hồ Chí Minh đã đi đến những kết luận. Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta mà trái lại trong 5 năm chúng đã bán nước ta 2 lần cho Nhật. Như vậy bọn thực dân Pháp không có công lao bảo hộ với nước ta mà chúng còn có tội với các nước Đông Dương, thậm chí đó là một trọng tội. Nghệ thuật: Hồ Chí Minh đã sử dụng lí lẽ hùng hồn, bằng chứng không thể chối cái cùng với lập luận sắc sảo và chặt chẽ từ đó người đã đập tan chiêu bài bảo hộ, khai hóa rất bịp bợm của chủ nghĩa thực dân. Để hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược trở lại Đông Dương bọn thực dân Pháp còn tung ra dư luận quốc tế, Pháp thuộc phe Đồng Minh chống phát xít, Đông Dương là thuộc địa của chúng đã bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã bị Đồng Minh đánh bại phải đầu hàng. Vậy Đông Dương đương nhiên phải trở về tay người Pháp. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã chỉ rõ Đông Dương không còn là thuộc địa của Pháp: “ Sự thật là từ mùa thu 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Hồ Chí Minh đã sử dụng hàng loạt câu được viết theo hình thức lặp cú pháp để nhấn mạnh sự thật. Lí lẽ của Hồ Chí Minh được xây dựng trên hiện thực cuộc sống và chân lí lịch sử của Việt Nam 1940 đến 1975. Với lí lẽ đanh thép sắc bén và hùng hồn, bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân Pháp muốn hợp thức hóa cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế. 2.2.2. Lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Trên cơ sở vạch trần những hành động tàn ác trái hẳn nhân đạo và chính nghĩa của bọn thực dân Pháp và âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nêu cao lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Nếu thực dân pháp có tội phản bội Đồng Minh, bán rẻ Đông Dương 2 lần cho Nhật thì dân tộc Việt Nam mà đại diện là Việt Minh đã đứng lên đánh Nhật giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp phản động tàn bạo thẳng tay khủng bố Việt Minh, nhẫn tâm giết nốt số đông tù nhân ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng , nhân đạo với kẻ thù thất thế. Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tài sản và tính mạng cho họ. Đặc biệt dân tộc ta đã chịu bao đau đớn dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái. Dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập. 2.3 Lời tuyên bố: Dân tộc Việt Nam đã kiên cường bền bỉ anh dũng đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân phong kiến: “ Pháp chạy, Nhật hàng,
  15. vua Bảo Đại thoái vị” vì thế Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, tuyên bố xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, tuyên bố xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Căn cứ vào những điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc và bình đẳng Hội nghị Tê-hê-rang và Cựu Kim Sơn, Hồ Chí Minh kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhân quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Nghệ thuật: sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Người viết đã lấy lại nhiều lần sự thật, sự thật là đã dựa trên cơ sở hiện thực để đưa ra lời tuyên bố, đấy là những điệp khúc nối nhau làm tăng thêm âm hưởng hào hùng của bản tuyên ngôn. Lời khẳng định về quyết tâm bảo vệ quyền độc lập tự do dân tộc. Khép lại bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, bởi vì tất cả mọi người để sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc và người ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được bình đẳng và tự do về quyền lợi”. Như vậy hưởng tự do và độc lập là một quyền thiêng liêng mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Nước Việt Nam không chỉ có quyền được hưởng độc lập tự do mà hưởng độc lập tự do còn là một sự thật. Bởi sự thật nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì vậy, toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “ Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” Nhận xét chung: Lời khẳng định của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn nhưng đanh thép hùng hồn, khẳng định ý chí quyết tâm hi sinh của toàn dân tộc để bảo vệ độc lập tự do. 3.Kết luận chung: Nghệ thuật: Người ta gọi Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là áng thiên cổ hùng văn. Cũng có thể nói như vậy, đối với bản Tuyên Ngôn Độc Lập ra đời không còn ở thời kì văn học nguyên hợp, văn sử bất phân. Để người viết đưa vào những hình tượng hào hùng tầng tầng lớp lớp như bài cáo của người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận, Hồ Chí Minh đã dàn dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, bằng chứng xác thực không ai chối cãi được, lời văn ngắn gọn, súc tích, âm hưởng hào hùng đầy sức thuyết phục. Đó là sức hấp dẫn của bản tuyên ngôn. Nội dung: Tuyên Ngôn Độc Lập còn thể hiện một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn của Hồ Chí Minh, đã tổng kết được trong một văn bản tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân tộc và nhân loại. Chính bác Hồ cũng tự đánh giá đây là thành công thứ ba khiến người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Cũng vì thế mà vào ngày Bác mất, một chính khách danh tiếng của châu Á đã phát biểu: “ Người là
  16. ánh sáng hi vọng trong thế kỉ bạo tàn, ánh sáng hi vọng đó phải chăng là tư tưởng không gì qúy hơn độc lập tự do của Người”. ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 Trình bày những nội dung chính trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Aí Quốc – Hồ Chí Minh, hãy giải thích vì sao Người lại có quan điểm sáng tác như vậy. Đề 2 Trình bày tính đa dạng, độc đáo và tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Đề 3 Đánh giá tầm vóc lịch sử và giá trị văn học để có thể xem Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn bất hủ. Đề 4 Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “ Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. Phân tích tác phẩm Tuyên Ngôn Độc Lập để làm sáng tỏ ý trên. Đề 5 “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” (Phan Trọng Luận). Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên. Đề 6 Nhận xét về giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: “Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực” Từ việc cảm nhận về giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên. Đề 7 Cảm nhận của anh/ chị về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Từ đó, trình bày suy nghĩ của mình về con đường học tập, phấn đấu, rèn luyện của tuổi trẻ ngày nay để xây dựng và bảo vệ đất nước.
  17. TÂY TIẾN -Quang Dũng- A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I - KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Quang Dũng ( 1921 - 1988 ) là một nghệ sĩ đa tài; làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn. 2. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung nét đặc sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp. * Hoàn cảnh sáng tác : Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của trung đoàn là miền núi rừng rộng lớn và hiểm trở của biên giới Việt Lào, gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nưa. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông học sinh, thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa, lãng mạn. Bài thơ được viết trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp nhiều khó khăn; đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “ quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến, tới cuối 1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở
  18. Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Năm 1957, khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành Tây Tiến. Hoàn cảnh sáng tác ấy cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất miền Tây đầy kỉ niệm. Nỗi nhớ trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ. Hoàn cảnh sáng tác cũng đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến, hiểu được nguyên nhân của bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, những yếu tố làm nên chất bi tráng đặc biệt của bài thơ. II - TÌM HIỂU TÁC PHẨM 1. 14 câu thơ đầu Nỗi nhớ của cựu chiến binh Tây Tiến hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua đó, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến. 1.1 Hai câu thơ đầu là khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung. Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 với sự hiện diện của cả miền Tây và trung đoàn Tây Tiến: Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi! Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt Lào thuộc các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa. Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây; sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng “ gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa sĩ tử, sông Mã đựng đầy kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp điệu 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngưng lặng để nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi sông Mã xa rồi, rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “ Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga tiếp nối trong những vần ơi của từ láy chơi vơi ở câu 2 - phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt trào dâng trong câu thơ tiếp : Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Từ nhớ lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, miên man, ám ảnh, không thể nguôi ngoai Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “ nhớ về rừng núi” - đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông , những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ; và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây, nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay
  19. kẻ còn người mất. Vế sau câu thơ dành miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. Chơi vơi là từ láy vần với 2 thanh không, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, là một từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây; hơn nữa, từ láy chơi vơi còn gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô tình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, khôn nguôi Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của cả bài thơ, đó là nỗi tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm tháng quá khứ không thể nào quên 1.2 Toàn bộ đoạn thơ sau đó là nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. 1.2.1 Thông qua những nét vẻ tài hoa vừa chân thực vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ thơ mộng và xiết bao kì thú. 1.2.1.1 Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức Quãng Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, và đó hình như cũng không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ thương: Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Bút pháp hiện thực trong câu trên đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây qua hình ảnh một đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ lấp – một động từ có sức gợi tả màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả gian nan. Tới câu thơ sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương thành đêm hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc con đường hành quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc Còn có thể hiểu hoa về trong đêm hơi là hương hoa rừng lan tỏa, phảng phất theo bước chân chiến sĩ. Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ không chỉ làm đậm thêm sắc hư ảo của màn sương rừng, sự huyền hoặc của hương hoa mà còn như tái hiện trạng thái mơ mộng bay bổng trong tâm hồn chiến sĩ. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa. 1.2.1.2. Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến. Đọc đoạn thơ tả dốc núi miền Tây của thơ Quang Dũng, có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục trong thơ Lí Bạch xưa: Thục đạo nan! Thục đạo nan Nan ư hướng thiên thanh ( Đường lên xứ Thục khó thay! Khó giống như lên trời xanh!)
  20. Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở: Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ 7 chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở hiện hữu ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ dốc điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc; cũng phần nào gợi ra sự nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác đã đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của các từ láy “ khúc khuỷu thăm thẳm”. Từ láy khúc khuỷu miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ; còn từ láy thăm thẳm lại gợi độ cao hun hút; độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn nhưng không cùng. Con đường lên miền Tây quả là Khó như lên trời xanh! Dốc núi miền Tây được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót: Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Từ láy heo hút vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng, được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai tới từ Thủ đô hoa lệ. Cồn mây là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc, từ đó, câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mức cao đường như lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi, mây mờ mịt, trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây. Địa hình heo hút, hiểm trở làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính trên đường hành quân; nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”, Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường mọi gian lao, vất vả. Có nhà thơ còn cho rằng hình ảnh súng ngửi trời là “trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy, có con người” – và bởi nói như ca dao thời kháng chiến: Đèo cao thì mặc đèo cao – Ta trèo lên đỉnh, ta cao hơn đèo! Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao! Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Điệp ngữ ngàn thước là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ ngàn thước và tính chất tương phản của các động từ lên – xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách
  21. để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia, vực đổ xuống hun hút, hiểm trở. Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhưng đều được khắc họa đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải nghiệm của chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ coi thường mọi gian truân vất vả, những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. 1.2.1.3. Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng; cùng với rất nhiều âm tiết mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông dàn trải, nhạt nhòa trong mưa: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Hình ảnh mưa xa khơi có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng mênh mang, xa vời hơn Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo Sắc thái phiếm chỉ khiến những ngôi nhà trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người; cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng nhà mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư, để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến lòng người xa quê. 1.2.1.4. Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Thác gầm thét và cọp trêu người là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng thác, thét mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng Hịch, cọp cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong câu dưới như lại mô phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. Chiều chiều và đêm đêm là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng, miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng chiều chiều và đêm đêm cũng là những thời gian xuất hiện trong chặng đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến, vì thế, hai câu thơ miêu tả những ấn tượng về miền Tây chỉ càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội vắng bóng con người, họ đã in dấu chân mình trên những vùng đất tưởng chỉ là vương quốc riêng của mây trời heo hút, của thiên nhiên bí ẩn thâm
  22. u, họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm. 1.2.2. Kí ức về người lính Tây Tiến trên đường hành quân. Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân: Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Từ láy dãi dầu đã thể hiện tất cả những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương gió Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung; cũng có thể hiểu đây là một câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội. Tuy nhiên, có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân, nhưng súng mũ vẫn bên mình – như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoát lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong cụm từ không bước nữa và bỏ quên đời, Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàn của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn, qua đó, nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ kiên cường sẵn sàng đương đầu với tất cả những thử thách gian truân. Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu , miền Tây còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp hương, nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm xếp xôi Hai câu thơ là những cụm từ đã được xóa đi những yếu tố kết nối, trở thành một tập hợp từ những ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác say người. Mở đầu bằng cụm từ cảm thán Nhớ ôi , câu thơ bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về bản làng Mai Châu, về những mẹ, những chị những em trong mùa lúa chín. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những tiếng chân thú dữ rình rập đầy đe dọa, phút rừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp ấm áp, mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh Tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sĩ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về
  23. tình quân dân ấm áp trong cuộc đời người lính chiến. Câu thơ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các em – những cô gái Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn từ hai chữ mùa em. Người ta thường nói mùa hoa, mùa quả đó là thời điểm căng tràn sung mãn, đầy sắp sắc hương của hoa trái Quang Dũng tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình trong tập hợp từ mới mẻ mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa của tình quân dân sâu nặng, Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh của anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh con mắt, rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngây ngất, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn. 2. 8 câu đoạn 2 – Đây là đoạn thơ tái hiện những ấn tượng sâu sắc về một đêm lửa trại và sau đó là nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh và người miền Tây. Thông qua những kỉ niệm và nỗi nhớ ấy, Quang Dũng đã khắc họa sinh động vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến. 2.1 Bốn câu đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa bản làng nào đó ở miền Tây. Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. Đây là lần thứ hai, lửa và đuốc được liên tưởng đến hoa – nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh huyền ảo mà thấy như hoa về trong đêm hơi thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây, nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi những liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ bừng lên là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng – ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tăm tối, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì cả ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa tình yêu với con người và cuộc đời, tình yêu với vùng đất miền Tây. Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước. Kìa em xiêm áo tự bao giờ Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa đến một cảm nhận thú vị bởi sự liên tưởng tới câu thơ đầu: doanh trại bừng lên, gương mặt trẻ trung của các
  24. chiến sĩ bừng lên hình như không chỉ vì ánh sáng chói lòa của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mĩ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước đoàn quân xanh màu lá, duyên dáng hơn trước những người lính dữ oai hùm. Nét tương phản của cảm hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều sự khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, thú vị trước vẻ đẹp của các thiếu nữ miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào, vừa hoang sơ, bí ẩn, vừa mới mẻ, lạ lùng làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây hồn thơ giữa những điệu nhảy, điệu múa, những vẻ đẹp say người của phương xa, đất lạ. Câu thơ đã có tới 6 thanh bằng đã giúp nhà thơ diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi vơi trong tâm hồn chiến sĩ. 2.2. Tới đoạn thơ sau, những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ mênh mông da diết về cảnh sắc, con người miền Tây. Câu thơ đầu như một lời nhắn nhủ tha thiết về miền Tây: Người đi châu Mộc chiều sương ấy Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn vào người đi, nhưng đâu phải nhắn với ai đó mơ hồ mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình da diết hướng về châu Mộc, hướng về vùng núi rừng miền Tây trong một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn sương mờ của hoài niệm, của nỗi nhớ nhung. Trong tiếng Việt, ấy là một đại từ chỉ định luôn đem lại sắc thái xa xôi mơ hồ cùng nỗi nhớ nhung, tiếc nuối, bâng khuâng cho những danh từ đứng trước nó như: thuở ấy, ngày ấy, người ấy Vào cuối năm 1948, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, một làng quê của đồng bằng Bắc Bộ, Quang Dũng cũng nhắc về chiều sương ấy với bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã bị đẩy vào một quá khứ thật xa xăm. Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệp trong cấu trúc có thấy hồn lau có nhớ dáng người đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người miền Tây. Câu hỏi thứ nhất hướng về hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại: Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về hồn lau thay vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần một chút gió rất nhẹ, những bông lau mềm mại, nhẹ nhàng cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng tinh khôi, huyền hoặc của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết. Khi đã xa miền tây, câu hỏi Có thấy hồn lau nẻo bến bờ càng làm xao xuyến lòng người. Hoa
  25. lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, cụm từ nẻo bến bờ gợi một không gian hoang vu, hiu quạnh, man mác u buồn, nơi vắng người lại qua. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của cỏ cây, rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân; nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, hình dung về những hàng lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người chiến sĩ đã gắn bó và đã chia xa miền Tây. Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây: Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Trong màn sương mờ nhạt nhòa của hoài niệm, khi nhà thơ để lòng mình trở về với Châu Mộc chiều sương ấy, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa, huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc đè thác lũ băng băng lướt tới, vừa mềm mại duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ hoa đong đưa. Nếu từ láy đung đưa gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh hoa đong đưa không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng. 3. 8 câu đoạn 3 - Thông qua nỗi nhớ về cuộc sống chiến đấu gian khổ và hi sinh anh dũng của những chiến binh Tây Tiến, đoạn thơ đã trở thành một bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng của lí tưởng cao cả, của ý chí kiên cường, của sự hy sinh dũng cảm cùng vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của những tâm hồn đằm thắm mộng mơ. 3.1 Trong bốn câu đầu, nhà thơ đã tái hiện chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến trong những năm tháng kháng chiến. Trong ký ức của Quang Dũng, Tây tiến là một đoàn binh không mọc tóc. Nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở rừng, hoặc tạo thuận lợi hơn cho trận chiến, cũng có thể đó là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào, đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, cũng như trong câu thơ Anh bạn dãi dầu không bước nữa, câu thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc đã chuyển hoàn toàn tình thế bị động sang trạng thái chủ động, người lính Tây Tiến vì thế hiện lên không tiều tụy, nheo nhếch mà kiêu dũng, ngang tàng. Hơn thế nữa, còn có thể coi hình ảnh đoàn binh không mọc tóc là một nét vẽ phi thường làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình tượng thơ. Chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp trong nét ngoại hình đặc sắc: Quân xanh màu lá dữ oai hùm Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu đây là câu thơ miêu tả những gương mặt xanh xao, gày ốm vì sốt rét, vì cuộc sống kham khổ ở rừng. Có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một
  26. đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao, người lính Tây Tiến như hòa với thiên nhiên cây lá - ốm mà không yếu, gày ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống. Có thể thấy không mọc tóc và xanh màu lá là cách diễn tả đẹp và thanh của cảm hứng lãng mạn về một hiện thực thô ráp, nặng nề của chiến tranh. Và ngay trong vế sau của câu thơ đã là một tương phản độc đáo giữa xanh màu lá và dữ oai hùm - trên những gương mặt xanh xao gày ốm của người lính vẫn toát lên nét dữ dội kiêu hùng, vẻ uy nghi lẫm liệt tựa như những vị chúa tể rừng xanh! Cùng với hình ảnh về một đoàn binh không mọc tóc, những gương mặt dữ oai hùm cũng là nét vẽ đặc sắc, ấn tượng của cảm hứng lãng lạn trong bức chân dung phi thường về người chiến binh Tây Tiến. Hình ảnh ẩn dụ dữ oai hùm còn gợi liên tưởng tới cọp trêu người ở đoạn trên - một liên tưởng thú vị, trìu mến, tự hào: dường như ở miền đất có bóng hổ rình rập đe dọa với cọp trêu người thì người lính cũng phải có oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng! Miêu tả người chiến sĩ Tây Tiến trong gian khổ, bệnh tật nhưng Quang Dũng không chú trọng vào gian khổ cùng hậu quả của nó mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường, lãng mạn, hào hùng, đem đến ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường vượt lên khó khăn, chiến thắng khó khăn. Bức tượng đài chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Mắt trừng là ánh mắt mở to, hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn. Đây thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn nhằm tôn thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ, nét kiêu hùng, ngạo nghễ của một đoàn binh không mọc tóc với những gương mặt dữ oai hùm. Câu thơ đã khắc họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính có lí tưởng và khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như tráng sĩ xưa Giã nhà đeo bức chiến bào - Thét roi cầu Vị ào ào gió thu. Những chàng trai Hà Nội ra đi vì sức vẫy gọi mãnh liệt của lí tưởng song trái tim họ vẫn luôn dành một góc lưu luyến nhớ nhung về Hà Nội dáng kiều thơm. Theo cấu trúc câu có thể hiểu người lính miền viễn xứ khi xa quê vẫn mơ màng nhớ về Hà Nội, nhớ về Thủ đô hoa lệ đẹp như một dáng kiều thơm; càng có thể hiểu theo một cách rất lãng mạn, đó là nỗi nhớ về những thiếu nữ Hà Thành với bóng dáng kiều diễm, đáng yêu. Qua hình ảnh ẩn dụ về dáng kiều thơm, câu thơ đã gợi cả vóc dáng, cả sắc hương những cô gái Hà Nội hào hoa, thanh lịch trong mỗi nhớ nhung của những người lính xa nhà. Vũ Quần Phương có nhận xét: “Hai câu thơ như chứa đựng cả thế giới”. Sự tương đồng trong hai nét nghĩa của mộng và mơ, sự tương phản của hai thế giới nghĩa chung và tình riêng đã cùng nhau làm nên vẻ đẹp toàn vẹn cho tâm hồn người lính: họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn, mộng mơ có trái tim chan chứa tình yêu thương. Cũng như hình ảnh Người ra đi đầu không ngoảnh lại - Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy trong một sáng mùa thu trước cách mạng, và sau đó là người lính trong Những đêm dài hành quân nung nấu - Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu ( Nguyễn Đình
  27. Thi ), hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu còn lí tưởng cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao; đó là những nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn. 3.2 Đoạn thơ sau trực tiếp miêu tả sự hi sinh anh dũng của chiến sĩ Tây Tiến Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng ở âm vực thấp, một từ gợi ý nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ vì thế đem đến cảm giác trầm buồn và ảm đạm. Trong một câu thơ và một đoạn thơ dùng rất nhiều từ Hán Việt thì mồ là một từ thuần Việt có giá trị biểu đạt và biểu cảm thật xúc động. Không sử dụng từ mộ trang trọng, mồ là một danh từ miêu tả chính xác thực tế chiến trường lúc đó khi các anh hi sinh trên đường hành quân, việc chôn cất sơ sài, vội vã, đồng đội xót lòng để các anh lại trong những nấm đất hoang lạnh, hiu hắt, đơn sơ trên đường. Bản thân cái chết đã gợi lên sự buồn bã, càng lạnh lẽo hơn khi các anh không được nằm bên nhau, những nấm mồ cứ rải rác trêm từng chặng đường hành quân gian khổ, những nấm mồ thiếu hơi ấm của gia đình, quê hương, đất nước, sự hi sinh của các anh càng làm đau lòng người sống. Tây Tiến là một trong số không nhiều các tác phẩm văn chương thời kháng chiến chống Pháp trực tiếp miêu tả sự mất mát hi sinh của người lính, thậm chí bằng những câu thơ gợi nỗi bi thương đau xót nhất. Có thể nhận ra nét nghĩa tương đồng trong cả 4 từ của câu thơ khi tất cả đều ít nhiều gợi tới sự xa xôi: rải rác gợi khoảng cách của những nấm mồ nằm xa nhau dọc đường hành quân, biên cương là miền đất xa nhất của đất nước, cũng có thể coi là viễn xứ, xứ xa, mồ là hình ảnh của cái chết, gợi sự chia lìa xa cách của tử liệt sinh li, của sự sống và cái chết, của cõi dương và cõi âm Những nét nghĩa ấy cùng hướng đến miêu tả một thực tế: rất nhiều cái chết, rất nhiều nấm mồ của những người con xa quê nằm lại miền viễn xứ - phép điệp nghĩa tinh tế chính là nguyên nhân đưa đến cảm giác ảm đạm, lạnh lẽo cho cả câu thơ. Tuy nhiên, Tây Tiến bi mà không lụy, ảm đạm mà không yếu mềm, cảm hứng bi tráng đã trở thành âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ, của bài thơ, đem đến sự mạnh mẽ hào hùng cho đau thương, mất mát. Một trong những yếu tố đầu tiên đem đến sắc thái mạnh mẽ, hào hùng cho đoạn thơ chính là việc Quang Dũng sử dụng hàng loạt các từ Hán Việt “ Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành ” khiến sự hi sinh của chiến sĩ Tây Tiến được đặt vào không khí thiêng liêng trang trọng, tạo tâm thế ngưỡng mộ đầy tôn kính cho người đọc. Và cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu 1 đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sĩ xưa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao, đó là khí phách của những con người dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng gạt tình riêng, ôm chí lớn ra đi không vương thê nhi. Cũng với cách diễn đạt chủ động trong sắc thái phủ định như câu thơ Anh bạn dãi dầu
  28. không bước nữa, câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh đã tô đậm lý tưởng cao cả và khí phách kiên cường của những người chiến sĩ anh hùng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Đời xanh là một hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, thời gian đẹp nhất trong cuộc đời, quãng thời gian một đi không trở lại; nhịp đi liền mạnh trong câu thơ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ” cho thấy ý chí quyết tâm cao độ của những người thanh niên ưu tú sẵn sàng hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân , cũng có nghĩa là sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước. Đó cũng là tâm nguyện, ý chí cao đẹp của những người thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chân thành, thấm thía xúc động: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc. Như vậy sau câu thơ đầu nói về cái chết, về những nấm mồ, câu thơ tiếp theo lại khẳng định ý chí, lý tưởng và khí phách của chiến sĩ Tây Tiến. Phải chăng đây chính là hàm ý sâu xa của nhà thơ: Các anh đã nằm lại trong những nấm mồ miền viễn xứ nhưng khí phách, tinh thần vẫn sống mãi tuổi 20, và với tổ quốc, với nhân dân, các anh là bất tử, vẻ đẹp hào hùng toát ra từ ý chí, tâm nguyện của các anh vẫn có sức cổ vũ mãnh liệt tới muôn đời. Không chỉ hình ảnh của cái chết, câu thơ miêu tả việc chôn cất, tiễn biệt tử sĩ cũng gây ấn tượng rất mạnh mẽ với người đọc: Áo bào thay chiếu anh về đất Bút pháp mĩ lệ hóa của cảm hứng lãng mạn đã biến tấm áo quân phục sờn rách của người lính chiến thành tấm áo bào đẹp đẽ, thiêng liêng. Quang Dũng có kể lại: “ Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm,nói áo bào thay chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí vừa ngã xuống”. Vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh, trong cảm nhận của Quang Dũng, những đồng đội thân yêu của ông khi ngã xuống vẫn được khâm liệm trong những tấm áo bào trang trọng vốn chỉ dành cho những tráng sĩ anh hùng xả thân vì đất nước. Hình tượng thơ không chỉ làm dịu vợi nỗi đau trước hiện thực tàn nhẫn của chiến tranh mà còn hàm chứa niềm biết ơn, cảm phục sâu xa với công lao những chiến sĩ anh hùng. Cũng từ câu nói của Quang Dũng, hình ảnh áo bào thay chiếu còn gợi liên tưởng đến lý tưởng cao quý của một thời coi việc chết ngoài chiến địa lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào của đấng trượng phu, coi chí làm trai dặm nghìn da ngựa là tâm nguyện thiêng liêng cao quý của những người trai thời loạn; người lính Tây Tiến hôm nay cũng xem việc hi sinh nơi chiến trường, được khâm niệm bằng tấm áo của chính mình là niềm vinh quang của những người con sẵn sàng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh . Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi không chỉ vì lý tưởng cao cả và khí phách hào hùng mà còn bởi cách nói giảm khi coi chết chỉ là về đất. Không chỉ làm dịu nhẹ nỗi đau, hình ảnh về đất còn gợi những tầng nghĩa sâu sắc: đất là hình ảnh gợi sự bền vững muôn đời của non sông đất nước; về gợi bao ấm áp bình yên từ sự đón nhận và nâng niu ấp ủ Các anh đã từ biệt gia đình, quê hương, ra đi về miền viễn xứ với mộng chiến trường cao đẹp, các anh đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh anh dũng vì Tổ Quốc, nay Tổ Quốc trìu mến, yêu thương mở rộng vòng tay đón nhận những người
  29. con thân yêu trở về, thanh thản yên nghỉ trong lòng đất Mẹ, tựa như người chiến sĩ trong thơ Tố Hữu Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng - lòng khỏe nhẹ, anh dân quê vui sướng - ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành Sự trở về này đã nhập các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông, thế giới của những người chưa bao giờ khuất - đêm đêm rì rầm trong tiếng đất - những buổi ngày xưa vọng nói về (Nguyễn Đình Thi). Âm hưởng bi ráng gợi ra từ hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến đã được Quang Dũng đẩy lên tới đỉnh điểm trong câu kết đoạn: Sông Mã gầm lên khúc độc hành Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu mà thơ “ Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!” như một biểu tượng của miền Tây, của Tây Tiến, của quá khứ, nay Sông Mã trở lại với âm thanh dữ dội hào hùng trong cảnh tiễn đưa sĩ tử. Từ âm thanh của tiếng sóng sông Mã, nghệ thuật nhân hóa trong cụm từ gầm lên đã thể hiện trọn vẹn tính chất dữ dội trong những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc nhất với những bi phẫn, đau xót, những tiếc thương, cảm phục Sông Mã từng gắn bó với các anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua miền Tây, nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sông gầm vang khúc độc hành bi tráng đưa tiễn những người con yêu quí trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Cũng có thể thấy ý nghĩa của khúc độc hành vừa mạnh mẽ hào tráng vì là khúc ca dành cho những chiến sĩ anh hùng, vừa phảng phất âm hưởng cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã bởi đây là cảm giác không tránh khỏi khi đứng trước cái chết, khi phải đưa tiễn những người thân yêu trong chuyến đi cuối cùng luôn luôn là đơn độc. 4. Đoạn kết - khúc vĩ thanh nhớ nhung miền Tây và Tây Tiến Trở về với hiện tại, miền Tây và Tây Tiến đã lùi xa trong kí ức, trong nỗi nhớ nhung: Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Tác giả nhắc đến hình ảnh người đi trong những nét nghĩa mơ hồ: có thể hiểu nhà thơ nhắc đến những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương, ra đi Tây Tiến không hẹn ước ngày về; lên với miền Tây thăm thẳm xa mờ, xa mịt - cách hiểu này gợi niềm mến thương cảm phục với những người anh hùng, nỗi xót xa với những người chiến sĩ, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về Cũng có thể hiểu nhà thơ nhắc tới thời điểm cuối năm 1948, khi ông đang ở Phù Lưu Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình đã chia xa trung đoàn Tây Tiến không hẹn ước ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại, bởi Đường lên thăm thẳm một chia phôi - cách hiểu xao xác nỗi nhớ nhung với những gì thân yêu nhất trong lòng nhà thơ, một cựu chiến binh Tây Tiến. Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ thiết tha: Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Có thể hiểu nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thủy chung, son sắt của tất cả những Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, trong lòng họ, thời gian gắn
  30. bó với trung đoàn, với miền Tây từ mùa xuân ấy là khoảng thời gian quí giá nhất trong cuộc dời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn người lính Tây Tiến sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường Hịch những vùng đất xa xôi đựng đầy kỉ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi khi ta ở chỉ là nơi đất ở - khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn ( Chế Lan Viên). Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc đến những người đồng đội đã vĩnh viễn mằm lại trong những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm; linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại với miền Tây, để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi chua xót ngậm ngùi cho những người còn sống. III- Kết luận Bài thơ đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng, đó là bút pháp tương phản đầy ấn tượng của cảm hứng lãng mạn, là chất họa và chất nhạc đậm nét với giá trị biểu cảm mạnh mẽ, là chất bi tráng đưa đến những xúc động sâu sắc trong lòng người. Qua đó, Quang Dũng đã khắc họa sâu đậm hình ảnh người chiến binh Tây Tiến trong cả cuộc sống chiến đấu gian khổ và hi sinh anh dũng, làm hiện lên vẻ đẹp toàn vẹn trong tâm hồn các anh, những người lính kiêu dũng, ngang tàng và lãng mạn, hào hoa. Hình ảnh các anh càng làm rõ thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm tháng oanh liệt, hào hùng không thể nào quên. B. CÂU HỎI VÀ ĐỀ LUYỆN TẬP Đề 1 “Xét về phương diện nghệ thuật, cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng là hai nét đặc sắc cơ bản bao trùm bài thơ”. Em hãy phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng để làm sáng tỏ nhận định trên. Đề 2 Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp tráng sĩ thủo trước. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kì chống Pháp. Đề 3 Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tình người được thể hiện như thế nào qua cách cảm nhận và thể hiện riêng của Quang Dũng ở đoạn thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
  31. TỐ HỮU A. KIẾN THỨC CƠ BẢN I. CON ĐƯỜNG THƠ CỦA TỐ HỮU Tố Hữu đến với thơ và cách mạng cùng một lúc. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn song hành, gắn bó và phản ánh chân thực chặng đường đấu tranh cách mạng gian khổ, vinh quang của dân tộc đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà thơ. 1. Tập thơ Từ ấy (1937-1946) Là chặng đường đầu tiên trong đời của Tố Hữu, đó cũng là thời gian đánh dấu những bước giác ngộ và trưởng thành của người thanh niên yêu nước quyết tâm đi theo ánh sáng của Đảng. Tập thơ gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Máu lửa gồm những bài thơ sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ - đó là lúc người thanh niên trẻ tuổi đang băn khoăn kiếm tìm lẽ sống thì may mắn được tiếp nhận ánh sáng của mặt trời chân lí và đã tự nguyện gắn bó, dâng hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng (Từ ấy). Nhà thơ thông cảm sâu sắc với cuộc sống của những con người lao khổ xung quanh mình, khơi dậy ở họ lòng căm hận, ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai tương sáng (Đi đi em). Xiềng xích gồm những bài thơ sáng tác trong thời gian Tố Hữu bị giam giữ tại các nhà tù của thực dân Pháp. Đó là tâm tư của 1 người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi tha thiết yêu đời, khát khao tự do (Tâm tư trong tù, Nhớ người, Nhớ đồng ), kiên cường giữ vững ý chí chiến đấu, không khuất phục trước những thử thách khắc nghiệt chốn ngục tù (Con cá, chột nưa; Trăng trối ). Giải phóng gồm những bài thơ được sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục cho đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Trong hoàn cảnh rất khẩn trương của thời kì tiền khởi nghĩa, Tố Hữu vẫn dùng thơ ca để tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh giành chính quyền nồng nhiệt, ngợi ca thắng lợi của cách mạng, độc lập tự do của đất nước, khẳng định niềm tin yêu sâu sắc của nhân dân với chế độ mới (Xuân đến, Hồ Chí Minh, Huế tháng Tám ) 2. Tập thơ Việt Bắc (1947-1954) Là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Pháp, là bản anh hùng ca hào tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Những chặng đường gian lao, những sự kiện lịch sử trọng đại của cuộc kháng chiến đều được ghi lại trong những bài thơ mang đậm cảm hứng sử thi – trữ tình cách mạng (Giữa thành phố trụi, Phá đường, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới ). Là tập thơ giàu tính dân tộc và đại chúng, Việt Bắc đặc biệt hướng tình cảm yêu thương và cảm phục tới quần chúng công nông binh, những con người lao động bình dị và anh hùng (Bà mẹ Việt Bắc, Lượm, Bà bủ, Lên Tây Bắc ). Việt Bắc đã thể hiện và ca ngợi những tình cảm lớn của con người Việt Nam trong kháng chiến, từ tình quân dân cả nước, nghĩa tình hậu phương với tiền tuyến (Bầm ơi), lòng kính yêu
  32. của nhân dân với lãnh tụ (Sáng tháng Năm) , trong đó, thống nhất và bao trùm tất cả là lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc. 3. Gió lộng (1955-1961) Là những sáng tác của Tố Hữu khi đất nước bước vào giai đoạn mới với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tập thơ khai thác những nguồn cảm hứng lớn lao của thời đại mới: ghi khắc những ân tình sâu nặng của quá khứ (Mẹ Tơm ), biết ơn Đảng, cách mạng (Ba mươi năm đời ta có Đảng ), thể hiện niềm vui phơi phới, niềm tự hào và tin tưởng vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hộ chủ nghĩa ở miền Bắc (Trên miền Bắc mùa xuân, Bài ca mùa xuân 1961 ), tình cảm tha thiết với miền Nam ruột thịt và ý chí thống nhất Tổ quốc (Người con gái Việt Nam, Thù muôn đời muôn kiếp không tan ), tình cảm quốc tế vô sản (Em ơi Ba Lan , Đường sang nước bạn ). Những tình cảm ấy đã đem đến cho Gió lộng cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi đậm nét. 4. Hai tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977) vừa là bản anh hùng ca ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ (Miền Nam, Mẹ Suốt, Hãy nhớ lấy lời tôi ), vừa là lời kêu gọi, cổ vũ thiết tha, mãnh liệt cả dân tộc trong cuộc chiến đấu quyết liệt, hào hùng ở cả hai miền Nam, Bắc (Chào xuân 67, Bài ca xuân 68, Bài ca xuân 71 ), và cuối cùng, trong những bài thơ mang đậm tính chính luận và chất sử thi như Việt Nam máu và hoa, Nước non ngàn dặm, Toàn thắng về ta ,Tố Hữu đã bộc lộ những suy ngẫm, phát hiện vẻ đẹp kì diệu của dân tộc và con người Việt Nam trong thời đại mới đồng thời thể hiện niềm vui, niềm tự hào ngày chiến thắng. 5. Sự ổn định của khuynh hướng trữ tình chính trị cũng như những chuyển biến mới trong cảm hứng sáng tác của Tố Hữu đã được thể hiện khá rõ nét trong hai tập thơ Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999). Tình yêu với đất nước, nhân dân, sự kiên định niềm tin vào lí tưởng cách mạng, vào cái đẹp, cái thiện, tâm huyết thiết tha với cuộc đời vẫn là dòng mạch cảm hứng đáng trân trọng trong thơ Tố Hữu thời kì này (Một khúc ca, Một nhành xuân, Đảng và thơ, Chào xuân 2000 ). Bên cạnh đó, chứng kiến và vượt lên trên bao thăng trầm, trải nghiệm, Tố Hữu đã thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc, phát hiện những giá trị bền vững của cuộc đời trong những bài thơ thâm trầm của cảm hứng đời tư – thế sự. III. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ TỐ HỮU 1.Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, đó là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn rất đậm nét trong thơ ông Thơ Tố Hữu mạng đậm tính sử thi. Cảm hứng lớn nhất trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lịch sử - dân tộc, những vấn đề được nhà thơ quan tâm và phản ánh trong thơ luôn là những vấn đề lớn lao của vận mệnh cộng đồng. Những sự kiện lịch sử, những vấn đề chính trị quan trọng có tác động lớn đến vận mệnh dân tộc, thông qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm hứng nghệ thuật thực sự (Huế tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Bài ca mùa xuân 1961, Việt Nam máu và hoa ). Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu đã là cái tôi chiến sĩ ( Từ ấy), càng về sau càng xác định là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc (Ta đi tới). Có lẽ đó là nguyên nhân khiến thơ ông ít thể hiện những tình
  33. cảm riêng tư mà thường hướng tới những tình cảm lớn, lẽ sống lớn của cách mạng và con người cách mạng (Cá nước, Sáng tháng Năm, Có thể nào yên, Vui thế, Hôm nay ). Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu cũng vì thế thường là con người đại diện cho vẻ đẹp, sức mạnh, phẩm chất và khát vọng cộng đồng, mang tầm vóc lịch sử và thời đại (Lượm, Mẹ Tơm, Người con gái Việt Nam, Hãy nhớ lấy lời tôi ). Thơ Tố Hữu luôn tràn đầy cảm hứng lãng mạn luôn hướng người đọc đến một tương lai tương sáng, khơi gợi niềm vui, lòng tin tưởng, niềm say mê với con đường cách mạng, ca ngợi nghĩa tình cách mạng và vẻ đẹp lí tưởng của con người cách mạng (Tiếng hát sông Hương, Ta đi tới, Việt Bắc ). Khuynh hướng cảm hứng ấy càng có tác động mạnh mẽ, thấm thía tới tâm hồn, tình cảm con người khi được thể hiện trong những bài thơ mang giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thiết tha. Giọng điệu đặc biệt này không chỉ thừa hưởng từ điệu hồn của con người xứ Huế mà còn xuất phát từ quan niệm của Tố Hữu về thơ: “ Thơ là chuyện đồng điệu, nó là tiếng nói của một người đến với những người nào đó có sự cảm thông ”, sự cảm thông thường có trong những tâm tình, nhắn nhủ chân thành. 2.Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức thể hiện Về nội dung, hiện thực của đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách mạng qua cảm nhận của Tố Hữu đã hòa nhập, gắn bó với những truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc và làm phong phú hơn truyền thống ấy. Về nghệ thuật, thơ Tố Hữu nghiêng về tính truyền thống hơn là khuynh hướng hiện đại, đổi mới. Tố Hữu đặc biệt thành công trong các thể thơ dân tộc như lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn (Lượm,Việt Bắc, Nước non ngàn dặm ). Tố Hữu thường sử dụng những lối nói, cách diễn đạt, những phương thức chuyển nghĩa quen thuộc của thơ ca dân gian (Mình đi mình lại nhớ mình – Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu ); thơ ông thường xuất hiện những ngôn từ giản dị, những thi liệu truyền thống (Ai về vại Hương Canh – Ai lên mình gửi cho anh với nàng ); Tố Hữu có biệt tài sử dụng từ láy, phối hợp âm thanh, vần tạo ra nhạc tính thể hiện cảm xúc dân tộc, tâm hồn dân tộc (Gió lộng xôn xao, Sóng biển đu đưa – mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát ).
  34. VIỆT BẮC Tố Hữu I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình – chính trị đậm nét. 2. Với sự thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Hoàn cảnh sáng tác: Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 tới khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10-1954 các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trở về Hà Nội. Một loạt những vấn đề đặt ra trong đời sống tình cảm của dân tộc: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng thủy chung với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng? Có nhớ những tháng ngày gian khổ hào hùng và sâu nặng nghĩa tình trong kháng chiến? Việt Bắc sẽ có vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì mới? Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy của dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ gồm 2 phần: Phần đầu tái hiện những kỉ niệm của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc; Phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc. II. TÌM HIỂU ĐOẠN TRÍCH 1. 24 câu đầu – Nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi, qua đó nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng. 1.1. Bốn câu thơ đầu là khúc dạo đầu ân tình chung thủy và niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi. Nội dung chủ yếu của hai cặp câu lục bát này chính là những nỗi niềm da diết được thể hiện trong hai câu hỏi: Mình về mình có nhớ ta? Mình về mình có nhớ không? Mình và ta là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung
  35. của lứa đôi : Mình về có nhớ ta chăng – ta về ta nhớ hàm răng mình cười, hay mình về ta chẳng cho về - ta nắm vạt áo ta đề câu thơ; mình về ta dặn câu này – dặn dặm câu nhớ, dặn vài câu thương; mình về có nhớ ta chăng – ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình. Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi. Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết không thể nguôi ngoai; cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng? Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ mình và chỉ có 1 chữ ta. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian: Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Trong tiếng Việt, đại từ ấy luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc nuối. Câu thơ cũng đồng thời gợi liên tưởng đến câu Kiều đằm thắm về mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình – một liên tưởng thấm thía cảm động bởi sự gợi nhắc tình sâu nghĩa nặng giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Trong câu thơ của Việt Bắc, mười lăm năm ấy là khoảng thời gian từ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh (1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp (1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà ta và mình từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với biết bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, biết bao nhiêu thiết tha mặn nồng. Nếu câu hỏi thứ nhất Mình về mình có nhớ ta? Làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai Mình về mình có nhớ không? Lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm về sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ. Câu thơ này hướng tới không gian: Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như cây, sông và miền núi như núi, nguồn. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. Nhìn cây, nhìn sông là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa; còn nhớ núi, nhớ nguồn là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc, điều này có xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi.