Đề cương ôn thi môn Ngữ văn 9 - Đề: Phân tích nhân vật bé thu trong văn bản chiếc lược ngà
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn thi môn Ngữ văn 9 - Đề: Phân tích nhân vật bé thu trong văn bản chiếc lược ngà", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_cuong_on_thi_mon_ngu_van_9_de_phan_tich_nhan_vat_be_thu_t.docx
Nội dung text: Đề cương ôn thi môn Ngữ văn 9 - Đề: Phân tích nhân vật bé thu trong văn bản chiếc lược ngà
- PHÂN TÍCH NHÂN VẬT BÉ THU TRONG VĂN BẢN CHIẾC LƯỢC NGÀ Benjamin Franklin từng cho rằng: “ Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến tranh, hóa đơn sẽ đến sau đó.” Cái giá của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ náu hàng thập kỉ sau đó nữa. Và có lẽ một trong những nhân vật chọn khắc họa rõ vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn” Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966. Không lựa chọn chất liệu và sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như nhiều tác phẩm khác của chiến tranh. Một nỗi niềm tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương, chưa một lần được trọn vẹn bên người cha, người chồng hay người con của mình. Bé Thu là nhân vật đại diện cho sự mất mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới một tuổi, ba em – Ông Sáu đã phải đi khán chiến xa nhà. Đây là hoàn cảnh chung của hầu hết gia đình Việt Nam trong kháng chiến, có lẽ họ không chỉ tiễn người thân mình đi một hai lần mà rất nhiều lầm, từ người nọ đến người kia. Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết vtaam ra đi để tìm đường cống hiến chô tổ quốc thân thương như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần ấy. ‘ Lớp cha trước lớp con sau Đã thành đồng chí chung câu quân hành” Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi một người ba của mình, nhưng đủ để chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng gương mặt ông giờ đây đã nhiều theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản ứng làm cho cả ông lẫn người đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy thân thương mà gan ruột từ xa của Ông Sáu “Thu!Con.” bé Thu “tròn mắt ngơ ngác nhìn lạ lùng”. Chỉ một ánh mắt, một cử chỉ cũng đủ để thấy sự xa cách giữa người và người mà có lẽ ta phải dùng đến “người dưng” mà Nguyễn Duy đã từng nói trong “Ánh trăng”. Khi Ông Sáu đưa tay về phiá nó, nói liên tiếp ”Ba đây con! Ba đây con!” thì nó lại có một phản ứng vô cùng quyết liệt “mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu hét lên: “Má! Má!” Từ sau đó tạo nên hai luồng tâm lí đối lập nhau gay gắt giữa Ông Sáu và bé Thu , một bên là sự vồ vập, cuống quýt của người nba vì đã ngóng chờ con bao lâu nay , một bên là sự đáp trả thờ ơ, lạnh lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu dành cho người “ba” của nó quá to lớn. Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức tạp giữa hai cha con. Sự ương ngạng, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong 3 ngày nghĩ phép của Ông Sáu ở nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra xa, nhất quyết không chịu gọi ông là “ba”. Nó luôn tìm cách nói trỗng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách lớn nhất là khi nó phải chắc nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhắn nhó”, “luýnh quýnh”, ”loay hoay”, tâm lí bối rối của một đứa trẻ hiện lên mồn một. Một là nó phải chịu khuất phục và gọi Ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ô, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn giản, dễ dàng trừ khi họ có thứ giá hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh đổi. và bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng ”ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ đột nhiên xuất hiện trong đời nó. Nó càng yêu “người ba” của nó bấy nhiêu, thì nó ngang ngược, lạnh nhạt với người ba thực sự đang ở trước mặt nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì nó kính trọng nên càng không thể đem ra để đổi lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng liêng ấy cho người ba thật sự mà nó được biết tới. Dù
- biết sẽ nguy hiểm, sẽ khó nhăn, nó vẫn dùng cái vá để múc nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàn. Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn đặt một mực cứng rắn không tiếp nhận tình cảm của ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông Sáu, bữa cơm mà nó có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm của mình bằng cách “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”. Nó đã phản ứng mạnh mẽ có phần thoái quá, nó lấy cái đũa hết cái trứng ra khỏi chén cơm làm cơn văng tung tóe cả mâm. Hành động ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu – người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng nếu đã đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của cô bé tám tuổi, ta mới có thể mở lòng và cảm thông được cho hành động này. Cách thể hiện tình cảm và bảo vệ với hình tượng người cha trong lòng của bé Thu chỉ bộc trực, trực tiếp, thậm chí là hồn nhiên đến mức đáng giận của cô bé. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức ảnh cô vẫn luôn ấp ủ mà cô bé vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu nay, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức là càng giữ nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác của một tình yêu vô cùng mãnh liệt. Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chât kiên cường mạnh mẽ của cô giáo liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành dành cho ba mình một cách vô cùng dặc biệt, độc đá. Ở bé Thu, người ta đã nhìn thấy bóng dáng của Việt trong ” Những đứa trẻ trong gia đình” hay Tnú trong “Rừng Xà Nu” Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp “Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!” mà Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật kí của mình: “ Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, là Tự do của đất nước”. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ đi qua những tiếng bom đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, xương máu của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp và đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thấm đượm thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình. “Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi ”: “Đất nước Của những người con gái con trai Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép Xa nhau nhưng không hề rơi nước mắt Nước mắt để dành cho ngày mai gặp mặt” Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba nó khi được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã khiến bé Thu không thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là Ông Sáu. Chi tiết vết thẹo cũng mang tính mấu chốt như chi tiết
- chiếc bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không nhận ra người ba đáng kình mà nó hằng khao khát được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái đêm được nghe bà gỡ rối , “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Tình cảm trong nó dành cho ông Sáu được nhen lên mạnh mẽ, nó cũng biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu to lớn nó dành cho ba và sự ngưỡng mộ. Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềmm vui nhận ra ba là sự tuổi thân dâng trào cùng nổi buồn xa xôi của nó trong ngày Ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngần ngại, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt dến độ nó chưa kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã bỏ lỡ khoảng thời gian vỗn đã ngắn ngủi với ba nó thì còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn loạn bị bác Ba bắt gặp qua đôi mắt của nó: “Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bổng xôn xao. “Từ “xôn xao” vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để biểu thị khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẽ loi kì lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuỏi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người cha mà mình con bé không tài nào che dấu nỗi nữa. Thế nên nó vỡ òa. Tiếng gọi “ba” xé toạc tinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nét bao lâu nay, chưa chan biết bao nhớ nhung mong đợi dồn cả vào tiếng “ba” ấy. Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi “ba” ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh nhưmootj con sóc chạy tót lên và dang hai tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc: - Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!” Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn lên cả vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha con nó, giờ là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha cho bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hy vọng vì đó là cách duy nhất thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản “Trong lòng mẹ’’. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trận trọng hơn cả là khi bé Thu đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những tranh sử vẻ vang, vàng son của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu thơ: “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”
- Giây phút chia tay trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của hai cha con ông Sáu và bé Thu tuy ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là hoàn toàn đúng đắn: “Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phìa sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá.” Bằng chất văn mộc mạc, thân thương, chân thực, ông đã “chạm với những rung động vi nhiệm của tình yêu” và hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh không phải bằng máu của những người lính ngã xuống mà bằng nước mắt của những người còn ở lại. Hình ảnh nhân vật bé Thu của ông như gói gọn của quá khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất nhiều thứ nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá được trái tim con người.