Lời giải câu hỏi trong SGK Ngữ văn Lớp 8
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lời giải câu hỏi trong SGK Ngữ văn Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- loi_giai_cau_hoi_trong_sgk_ngu_van_lop_8.docx
Nội dung text: Lời giải câu hỏi trong SGK Ngữ văn Lớp 8
- I/ ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1: Sự xuất hiện của nhân vật người cô: Tuy xuất hiện không nhiều, chủ yếu qua một đoạn đối thoại với chú bé, nhưng đây cũn là một nhân vật gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Đây rõ ràng là một nhân vật thâm độc, xảo quyệt, bênh vực và bảo vệ những lề thói tàn nhẫn trong xã hội đương thời. Qua một đoạn văn ngắn, bà cô đã hiện lên khá sống động nhờ nghệ thuật miêu tả hành động, ngôn ngữ và tâm lí nhân vật một cách chân thực của Nguyên Hồng. - Đặc điểm nội bật của con người này là sự tàn nhẫn, độc ác. Cô đã nói bé Hồng về chuyện mẹ bé không phải để động viên, chia sẻ, cảm thông, mà ngược lại, với một mục đích đen tối: Cố ý gieo rắc vào đầu đứa trẻ ngây thơ, tội nghiệp này những hoài nghi để nó “khinh ghét, ruồng rẫy” mẹ. Câu 2: Tình yêu mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện qua: - Mặc dù đã ngót một năm chú bé không nhận được tin tức gì của mẹ, đặc biệt mặc dầu bị bà cô xúc xiểm chia rẽ tình mẹ con, nhưng “tình thương và lòng kính mẹ” của bé Hồng vẫn nguyên vẹn. - Bé Hồng không hề trách mẹn nếu quả là mẹ “đã chửa đẻ với người khác”. Tuy non nớt, nhưng bé hiểu “vì tội góa chồng, vì túng bần quá mà mẹ mình phải bỏ các con đi tha phương cầu thực”. - Khi nghe những lời ngọt ngào, thâm độc của bà cô, bé Hồng chỉ thấy xiết thương mẹ, Hồng căm ghét cực độ những hủ tục đã đày đọa mẹ mình. - Lòng căm nghét của bé Hồng được tác giả diễn đạt bằng những câu văn có nhiều hình ảnh cụ thể, gợi cảm và có nhịp điệu dồn dập như sự uất ức của bé ngày một tăng tiến: - Không những thương mẹ, Hồng còn hiểu nỗi lòng mẹ. Câu 3: Giọng văn của Nguyên Hồng giàu chất trữ tình, bởi: - Trước hết, tình huỗng đặt ra trong câu chuyện dễ làm cho người con oán trách mẹ mình, nhưng tình cảm của người con ở đây không hề một chút mảy may thay đổi; ngược lại, vẫn tràn đầy niềm yêu thương, tin tưởng và còn có mơ ước phá tan mọi cổ tục để cho mẹ không bị đau khổ. - Dòng cảm xúc của nhân vật được thể hiện mãnh liệt qua những chi tiết miêu tả cảm động nghẹn ngào. Sự căm giận, sự xót thương, sự đau khổ và niềm hạnh phúc dường như đều ở đỉnh điểm của tâm trạng. - Cách thể hiện thông qua kết cấu lớp lang, hình ảnh so sánh gây ấn tượng mạnh, giàu sức gợi cảm. Lời văn dạt dào tình cảm. 1
- Câu 4: Qua văn bản trích, em hiểu hồi kí là một thể loại ghi lại những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc. Câu 5: Văn của Nguyên hồng giàu cảm xúc, ngọt ngào và nhuần nhị rất hợp với những kỉ niệm về mẹ và về tuổi thơ. Ông thường viết về những phụ nữ và trẻ em chịu nhiều đau khổ, bất hạnh (như trong các tác phẩm Những ngày ấu thơ, Bi vỏ, Cửa biển ) “Trong lòng mẹ” là một đoạn trích ngắn gọn gồm ba nhân vật: hai người phụ nữ và một cậu bé trai. Ba nhân vật khác nhau về tính cách nhưng đều đã hiện lên sinh động và đầy ấn tượng dưới ngòi bút của Nguyên Hồng. Đoạn trích chứng tỏ sự am hiểu sắc của nhà văn về phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt là sự nắm bắt cá tính và tâm lý. I. THẾ NÀO LÀ TRƯỜNG TỪ VỰNG 1. Các từ in đậm: "mặt, mắt, da, gò má, đùi, đầu, cánh tay, miệng" cùng là các bộ phận trên cơ thể con người. II. LUYỆN TẬP Câu 1: Các từ thuộc trường từ vựng “người ruột thịt” - Thầy, mẹ, cô, mợ, cậu, bác, chú, thím. Câu 2: Tên trường từ vựng cho mỗi dãy từ dưới đây: a. Lưới, nơm, câu, vó ⟶ dụng cụ đánh cá, bắt thủy sản. b. Tủ, rương, hòm, vali, chai lọ ⟶ đồ dùng để đựng trong gia đình (vật dụng). c. Đá, đạp, giẫm, xéo ⟶ động tác của chân (hành động). d. Buồn, vui, phấn khởi, sợ hãi ⟶ trạng thái tâm lý, tình cảm. e. Hiền lành, độc ác, cởi mở ⟶ tính cách người. g. Bút máy, bút bi, phấn, bút chì ⟶ đồ dùng để viết. Câu 3: Các từ in đậm "hoài nghi, khinh miệt, ruồng rẫy, thương yêu, kính mến, rắp tâm" thuộc trường từ vựng: thái độ của con người. Câu 4: Khứu giác: Mũi, thính, điếc, thơm, rõ Thính giác: nghe, tai, thính, điếc, rõ. Câu 5: - Lưới: + Trường đồ dùng bắt cá: vó, chài. + Trường dụng cụ, máy móc: rào lưới sắt, túi lưới, mạng lưới điện - Lạnh: + Trường thời tiết: rét, buốt, cóng 2
- + Trường tình cảm: lạnh nhạt, giọng nói lạnh lùng, mặt lạnh như tiền + Trường màu sắc: màu xám lạnh, màu xanh ngắt. Câu 6: Tác giả đã chuyển trường từ vựng "quân sự" sang trường từ vựng "nông nghiệp". Câu 7: Những ngày cuối năm học, quang cảnh sân trường trở nên rộn ràng và mới lạ. Hàng cây bằng lăng khoe sắc tím trong ánh nắng hè rộn rã. Cây phượng vĩ góc sân trường đã chớm nở những chùm hoa đỏ rực xen lẫn tiếng ve râm ran gọi hè. Trong lớp học, tiếng mở sách vở khe khẽ của những bạn học sinh đang tập trung ôn bài. Tiếng thầy cô giảng bài đầy nhiệt huyết vẫn vang vọng khắp các phòng học. Một bầu không khí rộn rang, khẩn trương, tất cả để chuẩn bị cho kì thi kết thúc năm học diễn ra thật tốt đẹp. Xem thêm tại: c35a33111.html#ixzz5tR0owOHV I. BỐ CỤC CỦA VĂN BẢN 1. Văn bản trên có 3 phần: - Mở bài (từ đầu đến "danh lợi"): giới thiệu khái quát về nhân vật Chu Văn An. - Thân bài ("Học trò theo ông" đến "không cho vào thăm."): những biểu hiện chứng tỏ "đạo cao đức trọng" của thầy Chu Văn An. - Kết bài ("Khi ông mất" đến hết): tình cảm của người đời dành cho Chu Văn An khi ông mất. 2. - Phần MB: Giới thiệu nhân vật và nội dung câu chuyện sẽ kể. - Phần TB: kể diễn biến câu chuyện về ông Chu Văn An dạy học. - Phần KB: nêu hai câu nhận định, đánh giá về ông 3. - Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó là thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức. Vì vậy mối quan hệ giữa các phần trong văn bản phải chặt chẽ, thống nhất. 4. Bố cục của văn bản gồm 3 phần - Phần mở bài : giới thiệu nội dung, thu hút sự chú ý của người đọc. - Phần thân bài : phát triển và giải quyết một cách cụ thể vấn đề đã nêu ở phần mở bài, - Phần kết bài : tóm tắt kết luận và đáp ứng sự chờ đợi của người đọc. II. CÁCH BỐ TRÍ, SẮP XẾP NỘI DUNG PHẦN THÂN BÀI CỦA VĂN BẢN 1. Phần thân bài của văn bản “Tôi đi học” của Thanh Tịnh được sắp xếp dựa trên cơ sở là hồi kí : nhớ lại các sự việc, tình tiết diễn ra vào buổi đầu đi học. 2. Văn bản Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng chủ yếu trình bày diễn biến tâm trạng của cậu bé Hồng. 3
- 3. Tuỳ theo từng đối tượng và mục đích miêu tả, người ta có thể miêu tả theo trình tự từ khái quát đến cụ thể hoặc ngược lại. 4. Phần thân bài trong bài văn Người thầy đạo cao đức trọng trình bày các ý làm sáng tỏ luận đề trên, các ý này được sắp xếp theo trình tự nhất định. Phân tích trình bày làm sáng tỏ luận đề "Chu Văn An là người thầy đạo cao đức trọng". 5. - Người ta thường sắp xếp nội dung phần Thân bài của văn bản theo 1 số cách sau: (không gian - thời gian, khái quát - cụ thể, mạch phát triển của vấn đề, mạch suy luận, liên tưởng, ) - Nhìn chung, người ta có thể linh hoạt trong việc bố trí, sắp xếp nội dung phần thân bài của văn bản miễn sao đảm bảo tính thống nhất chủ đề, sự mạch lạc trong triển khai chủ đề, giúp người đọc tiếp nhận được nội dung muốn biểu đạt. III. LUYỆN TẬP Bài 1: a : Miêu tả cảnh sân chim đông đúc, náo động. Bố cục ba phần, miêu tả từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến gần b: trình bày ý theo thứ tự không gian: - Ba Vì – xung quanh Ba Vì. - Riêng về Ba Vì lại trình bày theo thứ tự thời gian. c: Hai luận cứ được sắp xếp theo tầm quan trọng của chúng đối với luận điểm cần chứng minh: - “Lịch sử thường sẵn những trang đau thương Ta thử lấy truyện Hai Bà Trưng mà xét ” - “Nghe Truyện Phù Đổng Thiên Vương, tôi thường tưởng tượng đến một trang nam nhi ” (Nhảy xuống Hồ Tây tắm, xong mới ôm vết thương lên ngựa ) Bài 2: Nếu phải trình bày về lòng thương mẹ của chú bé Hồng ở văn bản Trong lòng mẹ, em sẽ trình bày và sắp xếp chúng như sau: Nêu bật tình cảm, thái độ của chú bé Hồng khi nói chuyện (đối thoại) với bà cô về mẹ. - Vì thương mẹ, bé Hồng ghét những hủ tục phong kiến vô lí. Nêu lên câu nói đầy căm phận với hủ tục đó. - Vì nỗi mong nhớ, thương yêu mẹ thường trực nên thoáng thấy bóng người trên xe kéo là bé Hồng chạy theo. - Kể lại những phút bé Hồng sung sướng được ở bên mẹ. Bài 3: 4
- Có thể sắp xếp các ý theo hai nhóm: giải thích câu tục ngữ và chứng minh tính đúng đắn của câu tục ngữ. - Nghĩa đen và nghĩa bóng của vế Đi một ngày đàng; - Nghĩa đen và nghĩa bóng của vế học một sàng khôn; - Các vị lãnh tụ bôn ba tìm đường cứu nước; - Những người thường xuyên chịu khó hoà mình vào đời sống sẽ nắm chắc tình hình, học hỏi được nhiều điều bổ ích; - Trong thời kì đổi mới, nhờ giao lưu với nước ngoài, ta học tập được công nghệ tiên tiến của thế giới. I. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1. Khi bọn tay sai xông vào, tình thế chị Dậu rất thảm thương: - Chị mới vừa rón rén bưng bát cháo cho chồng và đang hồi hộp “chờ xem chồng chị có ăn ngon miệng không”. - Anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo anh mới kề vào đến miệng” thì hai tên tay sai đã “sầm sập tiến vào” trong tay đầy những “roi song, tay thước và dây thừng” chúng là hiện hình của tai họa. Câu 2: Phân tích nhân vật cai lệ: a, Là một tên tay sai chuyên nghiệp rất thạo nghề làm tay sai: + Là cai, cầm đầu đám lính lệ ở huyện đường (loại lính chuyên làm tay sai hầu hạ chống quan nha chứ không phải lính chiến đấu). + Hắn là tiêu biểu nhất của hạng tay sai, công cụ đắc lực của cái trật tự xã hội ấy. - Tên cai lệ được phái về làng Đông Xá để giúp lí trưởng làng này đốc thuế. Hắn rất mẫn cán, thường lăm lăm cầm roi song theo gã người nhà lí trưởng vào những nhà có người thiếu thuế để quát nạt, chửi bới, đánh trói. + Trong kì sưu thuế giống như một cuộc săn thú này, cai lệ là một con chó săn nòi hung dữ, rất được việc! Dường như toàn bộ ý thức của hắn lúc này chỉ là ra tay trừng trị kẻ thiếu thuế: b) Trong cái đám đông tay sai của quan phủ, lí trưởng, cai lệ chỉ là một nhân vật “chạy cờ”, một gã tay sai mạt hạng, vô danh. Nhưng bộ mặt hung dữ, đểu cáng của hắn vẫn có một giá trị tiêu biểu riêng; hắn là một thứ “Thiên lôi”, một cái búa sắt trong tay bọn thống trị, tức là tiêu biểu cho chức năng đàn áp của cái chế độ tàn bạo ăn thịt người Câu 3: Phân tích diễn biến tâm lí của chị Dậu: + Anh Dậu ốm yếu quá khiếp đảng “lăn đùng ra không nói được câu gì”. 5
- + Chị Dậu đã phải một mình đứng ra đối phó với chúng để bảo vệ chồng. + Ban đầu, chị “cố thiết tha” van xin bọn chúng. Trong tình thế của chị lúc ấy chỉ có cách van xin. + Nhưng khi tên cai lệ đáp lại những lời van xin thống thiết lễ phép của chị Dậu bằng “trợn ngược hai mắt” quát, thét, bằng những quả bịch vào ngực chị Dậu và cứ chồm đến anh Dậu, thì chỉ đến lúc ấy, “hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại”. Sự “liều mạng cự lại” của chị Dậu cũng có hai bước, mức độ khác nhau. Thoạt tiên chị “cự lại” bằng lí: + “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!” Kì thực, chị Dậu đâu biết đến luật pháp cụ thể, chị chỉ nói cái lí tự nhiên, cái nguyên tắc đạo lí tối thiểu của con người. Tư thế của chị Dậu lúc này khác hẳn trước: không phải là một kẻ bề dưới cúi đầu van xin, mà là tư thế người ngang hàng, đanh thép cảnh cáo kẻ ác. Nhưng khi tên cai lệ hung dữ như chó sói ấy quay lại “tát vào mặt chị đánh bốp, rồi hắn cứ nhảu vào cạnh anh Dậu”, thì chị Dậu đã bật dậy với sức mạnh ghê ghớm bất ngờ. - Chị Dậu “nghiến hai hàm răng” (biểu hiện của sự nổi giận cao độ, không nén nổi) và ném ra lời thách thức quyết liệt, dữ dội: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Không còn đấu lí nữa, chị quyết ra tay đấu lực với bọn ác ôn này. Chị Dậu đã ra tay với sức mạnh của sự căm thù, phẫn nộ: “Túm ngay cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho “hắn ngã chỏng queo”. Câu 4: Quy luật “Có áp bức có đấu tranh”. Hành động của chị Dậu xuất phát từ một quy luật: “Con giun xét lắm cũng quằn”. Vì vậy đặt nhan đề Tức nước vỡ bờ cho đoạn trích là thỏa đáng vì đoạn trích nêu những diễn biến phù hợp với cái cảnh tức nước vỡ bờ. Câu 5. Nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ một đoạn tuyệt khéo” - “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo vì sự phát triển rất phù hợp với logic và tính cách nhân vật. Tình thế đặt chị Dậu trước sự lựa chọn: hoặc là để yên cho chúng giày xéo, hoặc đứng lên chống lại chúng. Một cách tự phát của diễn biến, chị đã vùng dậy một cách quyết liệt. - Lúc đầu, làm sự nhịn nhục của kẻ dưới, chị “cố thiết tha” van xin. - Trước sự đểu giả và tàn bạo của cai lệ, chị liều mạng cự lại “tức quá không thể chịu được”. + Không còn van xin, chị đấu lí: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô cho thấy chị không còn “nằm yên” trong tư cách kẻ dưới mà ngang hàng. + Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem. Chị Dậu đã chuyển sang một tư thế khác: bà – mày. Đó là tư thế của kẻ bề trên. Sự căm giận, khinh bị kẻ thù đã lên tới tột độ. Trong màn đấu lực, chị đã thắng. 6
- Câu 6: Ý kiến của nhà văn Nguyễn Tuân hoàn toàn đúng vì qua đoạn trích cho chúng ta thấy sự bất công vô lí của nạn sưu thuế trong xã hội phong kiến: Người đã chết rồi vẫn phải nộp thuế thân. Nguyễn Tuân muốn khẳng định quy luật có áp bức, có đấu tranh; áp bức càng mạnh thì đấu tranh càng dữ dội. Họ vùng lên để đòi lại công bằng cho cuộc sống của mình. Xem thêm tại: c35a33113.html#ixzz5tR1MJCYh I. THẾ NÀO LÀ ĐOẠN VĂN 1. Văn bản Ngô Tất Tố và tác phẩm tắt đèn gồm có ba ý. Mỗi ý viết thành ba đoạn văn. 2. Dấu hiệu hình thức cần dựa vào để nhận biết đoạn văn là phần văn bản tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống hàng. 3. Khái quát các đặc điểm cơ bản của đoạn văn. Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, diễn đạt một nội dung nhất định (nội dung logic hay nội dung biểu cảm), được mở đầu bằng chỗ lùi đầu dòng, viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn. II.TỪ NGỮ VÀ CÂU TRONG ĐOẠN VĂN 1. Từ ngữ chủ đề và câu chủ đề của đoạn văn. a. Từ ngữ có tác dụng duy trì đối tượng trong đoạn văn thứ nhất là “Ngô Tất Tố”. b. Đọc đoạn văn thứ hai của văn bản, từ ngữ chủ đề của đoạn văn là Tắt đèn. c. Từ nhận thức trên em hiểu từ ngữ chủ đề và câu chủ đề như sau: SGK 2. Cách trình bày nội dung đoạn văn: a. Nội dung trình bày của đoạn văn có thể khác nhau. Ví dụ: - Đoạn thứ nhất có từ ngữ chủ đề, yếu tố chủ đề ấy duy trì đối tượng trong đoạn văn. - Đoạn văn thứ hai có câu chủ đề, triển khai theo trình tự nội dung của văn bản. Câu chủ đề ở đầu đoạn văn. Ý của đoạn văn này là nêu lên một cách khái quát về tác phẩm theo trình tự diễn dịch. b. Đoạn văn có câu chủ đề “Các tế bào của lá cây có chứa nhiều lục lạp”. Câu ở ngay đầu đoạn và nội dung đoạn văn được trình bày theo trình tự diễn dịch. I. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN Câu 1 : - Tình cảm của lão Hạc đối với “cậu Vàng” của lão được tác giả thể hiện thật cảm động: + “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. + “Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm”. + “Cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu ( )”. 7
- + “Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ”. + “Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với đứa cháu bé về bố nó”. - Tình thế cùng đường khiến lão phải tính đến việc bán “cậu Vàng” thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ. + Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “Lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”. + Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nỗi đau đớn cứ dội lên: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. - Lão Hạc đau đớn đến không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Câu 2: - Lão Hạc không muốn hàng xóm nghèo phải phiền lụy về cái xác già của mình, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành nhìn ăn nhịn tiêu của lão để nhờ ông giáo đem giúp - Lão Hạc đã tìm đến cái chết trong khi vẫn còn trong tay mấy chục bạc. Với lòng tự trọng cao độ và nhân cách hết sức trong sạch, khi đã đem gửi hết đồng tiền cuối cùng, lão chỉ còn ăn uống đói khát qua bữa, bằng khoai ráy, củ chuối, rau má Nhưng lão lại kiên quyết từ chối mọi sự giúp đỡ của người khác, kể cả sự giúp đỡ của ông giáo - Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có ý thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người “đói cho sạch, rách cho thơm”, “chết vinh hơn sống nhục”, là con người coi trọng nhân phẩm hơn cả cuộc sống. Câu 3: - Người kể chuyện (cũng chính là tác giả tuy không nên đồng nhất hoàn toàn nhân vật với nguyên mẫu) đã phát biểu suy nghĩ về cách nhìn người: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm và hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương”. - Suy nghĩ của nhân vật “tôi” trên đây chính là một quan điểm quan trọng trong “đôi mắt”, ý thức sáng tạo của nhà văn Nam Cao. Câu 4: - Phải chăng ông giáo – nhân vật “tôi” thấy cái đáng buồn là người ta không thể hiểu nỗi khổ của nhau và ngờ vực lẫn nhau. + Chính ôn giáo cũng có lúc nghĩ là lão “quá nhiều tự ái”. + Còn Binh Tư thì “bĩu môi” nhận xét: “Lão làm bộ đấy! Thật ra lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu”. Binh Tư còn cho biết lão Hạc xin hắn bả chó để bắt chó nhà hàng xóm. 8
- + Ông giáo đã ngờ vực lão Hạc. Nhưng khi lão Hạc chết thì ông giáo lại cảm thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”. Lão Hạc không chỉ là câu chuyện bi thảm về số phận con người mà còn là câu chuyện đầy xúc động về một nhân cách cao quý. Câu 5: - Việc kể chuyện bằng lời kể của nhân vật “tôi” có hiệu quả nghệ thuật rất cao vì nó gây xúc động cho người đọc. - Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở chỗ: + Rất mực chân thực. + Thấm đượm cảm xúc trữ tình. - Qua nhân vật “tôi”, người kể chuyện – tác giả đã biểu lộ tự nhiên những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Câu 6: - Em hiểu ý nghĩa của nhân vật “tôi là ở chất trữ tình, thể hiện ở những lời mang giọng tâm sự riêng của “tôi” Câu 7: - Nói về cuộc đời. Đây là những số phận thật nghiệt ngã, thương tâm, nghèo khổ, bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến cái nghèo khổ cùng cực trước cảnh sưu thuế tàn nhẫn, như gia đình chị Dậu phải bán chó, bán con và đẩy người ta vào cảnh khốn quẩn như lão Hạc. - Nói về tính cách: + Ở Tức nước vỡ bờ là sức mạnh phản kháng của con người khi bị đẩy đến bước đườn cùng. + Còn ở truyện Lão Hạc là ý thức về nhân cách, về lòng tự trọng trong nghèo nàn, khổ. Xem thêm tại: c35a33116.html#ixzz5tR1rTNjF I. ĐẶC ĐIỂM CÔNG DỤNG a. Đoạn trích Lão Hạc của Nam Cao có những từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, hoạt động trảng thái của sự vật, những từ mô phỏng âm thanh của tự nhiên, con người. b. Những từ ngữ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, hoạt động hoặc mô phỏng âm thanh rất có tác dụng trong văn miêu tả, tự sự. II.LUYỆN TẬP 1. Từ tượng hình và tượng thanh trong những câu trích trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố. a. Từ tượng thanh. - Soàn soạt, bịch, đánh bốp. 9
- - Nham nhảm. b. Từ tượng hình. - Rón rén, lực điền, chỏng queo. 2. Năm từ tượng hình gợi tả dáng đi. - Tất bật, hùng hục, thoăn thoắt, lom khom, rón rén. 3. Phân biệt ý nghĩa tượng thanh tả tiếng cười: - Ha hả: cười thành tiếng rất to, rất sảng khoái. - Hì hì: cười tiếng nhỏ có ý giữ thái độ. - Hô hố: cười to, có vẻ thô lỗ. - Hơ hớ: cười thoải mái vui vẻ, không che đậy, giữ gìn. 4. Đặt câu với các từ tượng hình: - Lắc rắc: trời hôm nay mưa lắc rắc suốt ngày. - Lã chã: Lão Hạc thương con Vàng khóc hu hu, nước mắt lã chã rơi. - Lấm tấm: cô giáo mặc áo dài lấm tấm hoa. - Khúc khuỷu: Đoạn đường vào nhà bạn tôi quanh co, khúc khuỷu. 5. Bài thơ có cách dùng từ tượng hình, tượng thanh: Bài thơ trên có những từ tượng hình, tượng thanh làm cho bài thơ rất giàu hình ảnh và gây ấn tượng. a. Về từ tượng hình: trong veo, sóng biếc, tẻo teo, gợn tí, vắng teo, xanh ngắt. b. Về từ tượng thanh: đưa vèo, đớp động. I. TÁC DỤNG CỦA VIỆC LIÊN KẾT CÁC ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN 1. Hai đoạn văn trong SGK cùng kể về nhà trường, bạn bè nhưng không có mối liên hệ với nhau vì: - Đoạn trước kể về ngày học sinh tựu trường. - Đoạn sau nêu cảm tưởng về trường lớp. 2. a. Nhưng hai đoạn văn này được viết lại có thêm tổ hợp từ “trước đó mấy hôm” bổ sung ý nghĩa cho đoạn văn. b. Hai đoạn văn đã diễn tả bảo đảm tính mạch lạc của văn bản. c. Như vậy, tổ hợp “trước đó mấy hôm” là phương tiện chuyển đoạn, để chúng liền ý, liền mạch. II. CÁCH LIÊN KẾT CÁC ĐOẠN VĂN TRONG VĂN BẢN Có hai biện pháp để chuyện đoạn văn: 1. Dùng từ ngữ để liên kết các đoạn văn 10
- a. Hai đoạn văn của Lê Trí Viễn dùng từ ngữ để chuyển đoạn Trước hết, đầu tiên, bắt đầu là làm phương tiện chuyển đoạn. Như vậy hai đoạn văn trên có quan hệ liệt kê nên từ ngữ chuyển đoạn là bắt đầu là tìm hiểu Sau khâu tìm hiểu. b. Hai đoạn văn của Thanh Tịnh dùng các từ ngữ chỉ sự đối lập, tương phản: ngược lại, trái lại, thế mà, tuy vậy làm phương tiện chuyển đoạn. Hai đoạn văn này đã dùng các từ: trước đó mấy hôm nhưng lần này lại khác làm phương tiện chuyển đoạn. c. Đọc lại hai đoạn văn mục I.2 trang 50-51 trong SGK, có thể xác định “đó” là đại từ. Trước đó là lúc trước nhân vật “tôi” lần đầu tiên cắp sách đến trường. Việc dùng đại từ đó tác dụng liên kết giữa hai đoạn văn. d. Đọc đoạn văn (Hồ Chí Minh – cách viết) ta thấy có những từ ngữ có tác dụng liên kết đoạn mang ý nghĩa tổng kết như tóm lại, nói tóm lại. Hai đoạn này có ý nghĩa tổng kết, khái quát, nên từ liên kết chuyển đoạn là: bấy giờ, nói tóm lại. 2. Dùng câu nối để liên kết các đoạn văn: Câu liên kết hai đoạn văn của Bùi Hiển là “Ái dà, lại còn chuyện đi học nữa cơ đấy”. Đây là câu nối. I. Từ ngữ địa phương. - Từ “ngô” là từ sử dụng phổ biến trong toàn dân. - Các từ “bắp, bẹ” là từ địa phương. II. Biệt ngữ xã hội. a. Đoạn văn trích trong tác phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng có hai từ: “mẹ, mợ” là tiếng gọi “mẹ” trước Cách mạng tháng Tám ở tầng lớp thượng lưu trong thành phố Hà Nội, Nam Định (kể cả tiếng gọi cha bằng “cậu”). b. “Ngỗng” là bài tập làm văn chỉ đạt điểm 2 (thai hình dáng con ngỗng), còn “trúng tủ” là bài tập làm văn hay bài tập nào đó (đề văn, câu hỏi) rơi vào đúng phần ôn tập, đã học kĩ, thuộc bài. Các từ này thường được giới học sinh dùng. III. Sử dụng từ địa phương, biệt ngữ xã hội. 1. Từ địa phương này gây khó hiểu cho những người ở địa phương khác, cho nên, khi giao tiếp với người địa phương khác nên tránh dùng từ địa phương và thay bằng từ toàn dân. Nhưng trong văn thơ, dùng từ địa phương đúng chỗ và đúng mức có thể tạo cho tác phẩm có những màu sắc riêng thú vị. 2. Trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ, do ảnh hưởng của ngôn ngữ văn học, một số từ địa phương bị hạn chế phạm vi sử dụng. Ngược lại, một số từ địa phương dần dần trở thành từ toàn dân. Các từ trong đoạn thơ của Hồng Nguyên và Nguyên Hồng thật ra cũng đã dể hiểu như: tui (tôi), ví (với), hiện chừ (bây giờ), ra ri (như thế này). Các từ “dằm thượng” (túi áo trên), mõi (lấy trộm) là tiếng lóng riêng của một lớp người nào đó. Đó là biệt ngữ xã hội. Xem thêm tại: ngan-gon-c35a33119.html#ixzz5tR2XGIp5 I. Thế nào là tóm tắt văn bản tự sự. 11
- 1.Trong cuộc sống hàng ngày, có những tác phẩm tự sự chúng ta chưa có điều kiện đọc, nhưng lại muốn biết nội dung chính cùa nó. Những lúc ấy, chúng ta có thể đọc qua bản tóm tắt tác phẩm. 2. Mục đích cùa việc tóm tắt tác phẩm tự sự là dùng lời văn của mình giới thiệu một cách ngắn gọn nội dung chính của một tác phẩm nào đó giúp cho nhừng người chưa đọc vần nắm được nội dung chính của tác phẩm đó. Trong các câu a, b, c, d ở sách giáo khoa, câu b là đúng nhất: II. Cách tóm tắt văn bản tự sự 1 a) Nội dung đoạn văn trên nói về tác phẩm Sơn Tinh Thủy Tinh. Dựa vào tên các nhân vật, những sự việc chính và những chi tiết tiêu biểu mà em nhận được ra điều đó. b) Đoạn văn trên so với tác phẩm ấy có khác về độ dài, lời văn, lượng nhân vật, sự việc Độ dài của văn bản, tóm tắt ngắn hơn nhiều so với tác phẩm được tóm tắt. Số lượng nhân vật và sự việc trong bản tóm tắt ít hơn trong tác phẩm vì bản tóm tắt chỉ lựa chọn các nhân vật chính và những sự việc quan trọng. Văn bản tóm tắt không phải trích nguyên văn từ tác phẩm Sơn Tinh, Thủy Tinh mà phải là lời của người viết tóm tắt. b) Bản tóm tắt chưa nêu được kết cuộc của tác phẩm. Có thể thêm vào: Thủy Tinh mệt mỏi không Làm gì được, đành rút quân về, tuy vậy hằng năm vẫn dâng nước lên báo thù Sơn Tinh. 2. Tóm tắt tác phẩm tự sự là dùng lời văn của mình giới thiệu một cách ngắn gọn nội dung chính (bao gồm sự việc tiêu biểu và nhân vật quan trọng) của một tác phẩm nào đó. Bản tóm tắt cần phán ánh trung thành nội dung của tác phẩm được tóm tắt. Xem thêm tại: c35a33120.html#ixzz5tR2fhRe0 Câu 1. Để tóm tắt truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao Thứ tự: b ⟶ a ⟶ d ⟶ c ⟶ g ⟶ e ⟶ i ⟶ g ⟶ h ⟶ k. Tóm tắt văn bản ’Lão Hạc’: “Lão Hạc có một người con trai, 1 mảnh vườn và một con chó. Con trai lão đi đồn điền cao su, lão chỉ còn lại cậu Vàng. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đành phải bán con chó, mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tất cả tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn,lão kiếm được gì ăn nấy và từ chối cả sự giúp đỡ của ông giáo. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói là để giết con chó hay đến vườn và cùng Binh Tư uống rượu. Ông giáo rất buồn khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Nhưng rồi lão bỗng nhiên chết - cái 12
- chết thật dữ dội. Cả làng không ai hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu” Câu 2. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp vì chưa đủ tiền nạp sưu. Bị hành hạ, đánh đập tưởng chết, người ta cõng anh về trả cho chị. Nhờ bà lão hàng xóm cho bát gạo, chị nấu cho anh húp. Vừa run rẩy kề bát cháo vào đến miệng, cai lệ và người nhà lý trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng đòi tiền sưu. Anh Dậu hoảng quá, lăn đùng ra. Chị Dậu cũng hoảng, run run van xin chúng kho khất. Nhưng chúng không nghe, quát với giọng hầm hè và chuận bị đánh anh Dậu. Chị Dậu xám mặt, van xin tha cho chồng. Cai lệ đấm chị và sấn đến trói anh Dậu thì chị tức quá không chịu được, liều mạng cự lại. Hắn vẫn nhảy vào anh Dậu thì chị tức quá không chịu được, liều mạng cự lại. Hắn vẫn nhảy vào anh Dậu sau khi chị bị tát. Lúc này chị thay đổi cách xưng hô (xưng bà), đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng với sức mạnh của tình yêu thương chồng và một tinh thần phản kháng tiềm tàng. Khi bị đẩy tới "đường cùng", chị đã vùng dậy chống trả quyết liệt, với thái độ bất khuất. Câu 3. Tôi đi học của Thanh Tịnh và Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng rất khó tóm tắt. - Cả hai văn bản được trích từ tác phẩm gốc là Quê mẹ và Những ngày thơ ấu. - Tôi đi học là một truyện ngắn mang màu sắc hoài niệm. Ngoài cảm xúc dạt dào, tác giả còn sáng tạo thêm một số hình ảnh rất đẹp, rất hay nhưng không đi và trình tự nhất định nên rất khó tóm tắt. - Trong lòng mẹ là đoạn trích của chương IV hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Đoạn trích kể lại cảnh bơ vơ tội nghiệp của bé Hồng đã mồ côi bố lại phải xa mẹ. Do tính chân thật của hồi kí, tác giả đã kể lại diễn biến của sự việc theo hồi ức nên có sự đảo lộn về trình tự, vì vậy rất khó tóm tắt. Xem thêm tại: gon-sgk-c35a33121.html#ixzz5tR2qLuOy I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Câu 1. - Truyện này có thể chia làm ba phần: + Từ đầu đến đôi bàn tay đã cứng đờ ra: em bé bán diêm ngồi trong bóng tối và giá rét của đêm giao thừa. + Từ “Chà! Giá rét quẹt một que diêm “đến” về chầu Thượng đế”: em bé quẹt một số que diêm và tưởng như trông thấy nhiều cảnh đáng thèm muốn. + Từ « Sáng hôm sau » đến « em đã chết trong những ảo ảnh kì diệu ». Câu 2: - Hoàn cảnh của em bé bán diêm. 13
- + Gia đình mới sa sút (bà chết, gia sản tiêu tan, dời chỗ ở đẹp đẽ, ấm cúng ngày trước ) + Ở với cha trên gác sát mái nhà, gió lùa rét buốt. - Hình ảnh cô bé bán diêm thật tội nghiệp : + Đầu trần, chân đất (đỏ ửng lên rồi tím bầm lại vì lạnh). + Quần áo cũ kỉ, . + Bụng đói. + Lo âu vì không bán được diêm, không xin được tiền, không dám về vì sợ bố đánh - Bối cảnh : + Ngồi trước góc tường tối tăm giữa phố. + Co ro trong đêm giao thừa gió rét căm căm - Nhiều sự tương phản đã diễn ra xung quanh em bé và trong lòng em bé : + Quá khứ - hiện tại (yên vui, sum họp – sa sút, chia lìa). + Phố sá tưng bừng, tấp nập – em bé lang thang cô đơn nghèo khó. + Mộng ảo huy hoàng – thực tế tối tăm, khắt nghiệt: bị bỏ rơi trong bần cùng, bất hạnh nhưng tâm hồn luôn luôn hướng về điều thiện và cái đẹp. Câu 3. Qua các lần quẹt diêm, các mộng tưởng đã lần lượt hiện ra, rất hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và tâm lí của em bé : + Khát khao được sưởi ấm đến được ăn no và ngon. + Vui vầy xung quanh cây thông Nô-en. + Hồi tưởng về những lần đón giao thừa ngày trước khi bà nội còn sống. + Cảnh hai bà cháu cầm tay nhau cùng bay lên trời. Câu 4. Cô bé bán diêm đa qua đời trong giấc mộng (má hồng, môi mỉm cười), em đã chết thảm thương trước sự lạnh lùng của cảnh vật xung quanh và của mọi người qua đường. Nhưng cái chết ấy không gây ấn tượng đen tối nặng nề. Trước hết là do không khí vui tươi của ngày đầu năm, của cuộc sống đang phát triển tự nhiên theo quy luật. Sau là do hình ảnh ấm áp, tươi tắn của em bé đã chết, nhất là những điều kì diệu mà tác giả đã gợi ra từ sự ra đi của em bé. Yếu tố kì diệu này làm câu chuyện có dáng dấp của một truyện cổ tích bi thương. Xem thêm tại: c35a33122.html#ixzz5tR2x8fRR I. TRỢ TỪ 14
- Câu 1: * Khác nhau : - Nó ăn hai bát cơm : nói lên sự việc khách quan. - Nó ăn những hai bát cơm : ngoài ý nghĩa khách quan, còn có ý nhấn mạnh đánh giá việc nó ăn hai bát cơm là nhiều. - Nó ăn có hai bát cơm : đánh giá nó ăn hai bát cơm là ít, không đạt mức bình thường. Câu 2. Như vậy các từ “ những” và “có” ở các câu trong mục 1 là dùng để đánh giá, nhấn mạnh sự vật, sự việc được nói đến trong câu. II. THÁN TỪ Câu 1: a. Hai từ này thường được thốt ra để gây sự chú ý của người đối thoại, hoặc biểu thị tức giận khi nhận ra điều gì đó không tốt, hoặc ngược lại biểu hiện sự vui mừng, sung sướng (tất nhiên là khác nhau về ngữ điệu). b. Thán từ “này” có khả năng tạo thành câu như câu nói trong đoạn văn của Nam Cao. Thán từ này cũng làm thành phần phân biệt của câu như “này, vâng” trong đoạn văn của Ngô Tất Tố. Từ “vâng” ở đây là tiếng dùng để đáp lại lời người khác một cách lễ phép, trân trọng và có ý đang nghe họ nói. Câu 2: a .Các từ ấy có thể thành một câu độc lập : - Này ! - Hở, cậu nói gì ? - Mai nhớ đi học sớm nhé ! - A ! - Gì vậy ! - Một cú sút đẹp quá. - Trời ơi ! - Mất ví tiền rồi ! c. Các từ ấy có thể cùng những từ khác làm thành phần một câu và thường đứng đầu câu. - Này, đi xem xiếc cũng thú vị đấy chứ. - A, ngày mai được đi tham quan. - Vâng, tôi xin nghe lời bác dặn. Xem thêm tại: c35a33123.html#ixzz5tR34fe32 15
- I. SỰ KẾT HỢP CÁC YẾU TỐ KỂ, TẢ VÀ BIỂU LỘ TÌNH CẢM TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ Câu 1. * Các yếu tố miêu tả có trong những câu : - Tôi thở hồng hộc, trán đẫm mồ hôi, ríu cả chân lại. - Mẹ tôi không còm cõi. - Gương mặt vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước dan mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. * Các yếu tốt biểu cảm có trong đoạn trích là : - Hay tại sự sung sướng bỗng được trông nhìn và được ôm ấp cái hình hàu máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như thuở còn sung túc. - Những cảm giác ấp áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo và những hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường. - Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ để bàn tay mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy người mẹ có một êm dịu vô cùng. Các yếu tố trên không tách riêng mà đan xen vào nhau, vừa kể, vừa tả và biểu cảm. Có thể thấy trong đoạn văn sự đan xen đó : - Về sự việc : tôi ngồi trên đệm xe. - Tả : đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi. - Biểu cảm : Những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Câu 2: Mẹ tôi vẫy tôi. Tôi chạy theo chiếc xe chở mẹ. Mẹ kéo tôi lên xe. Tôi òa khóc. Mẹ tôi khóc theo. Tôi ngồi bên mẹ, ngả đầu và cánh tay mẹ, quan sát gương mặt mẹ . Nhận xét : - Các yếu tố miêu tả và biểu cảm đã làm cho ý nghĩa truyện thêm sâu sắc. - Nếu không có yếu tố miêu tả giúp cho việc kể lại cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con thì đoạn văn mất đi sự sinh động về màu sắc, hương vị, hình dáng, diện mạo của sự việc, nhân vật, hành động. - Ở đây ta thấy yếu tố biểu cảm đã giúp người viết thể hiện rõ tình mẫu tử sâu nặng. Đoạn văn buộc người đọc phải xúc động, trăn trở, suy nghĩ trước sự việc và nhân vật. Câu 3: Nếu bỏ các yếu tố kể trong đoạn văn trên, chỉ để lại các câu miêu tả và biểu cảm thì đoạn văn không có cốt truyện. Ta biết cốt truyện là do sự việc và nhân vật cùng với các hành động tạo nên. Các yếu tố miêu tả và biểu cảm chỉ có thể bám vào sự việc và 16
- nhân vật mới phát triển được. Như vậy yếu tố kể người và sự việc trong văn tự sự là quan trọng. Xem thêm tại: ngan-gon-c35a33124.html#ixzz5tR3Boc5X I. CHỨC NĂNG CỦA TÌNH THÁI TỪ Nếu bỏ các từ in đậm trong các ví dụ thì ý nghĩa của câu có sự thay đổi: a. Nếu lược bỏ từ “à” thì câu này không còn là câu nghi vấn nữa. b. Nếu lược bỏ từ “đi” thì câu này không còn là câu cầu khiến nữa. c. Nếu không có từ “thay” thì không thể cấu tạo được câu cảm thán. d. Từ “ạ” giúp cho câu chào thể hiện tính lễ phép cao hơn. II. SỬ DỤNG TÌNH THÁI TỪ - Bạn chưa về à ? (hỏi, thân mật) - Thầy mệt ạ ? (hỏi, kính trọng) - Bạn giúp tôi một tay nhé! (cầu khiến, thân mật) - Bác giúp cháu một tay ạ! (cầu khiến, kính trọng) III. LUYỆN TẬP Câu 1: a. Nào không phải là tình thái từ. b. Nào là tình thái từ. c. Chứ là tình thái từ. d. Chứ không phải là tình thái từ e. Với là tình thái từ f. Với không phải là tình thái từ g. Kia không phải là tình thái từ h. Kia là tình thái từ. Câu 2: a. Chứ nghi vấn, dùng trong trường hợp có điều muốn hỏi, nhưng đã có khẳng định ít nhiều. b. Chứ nhấn mạnh điều vừa khẳng định, ý muốn nói là không thể khắc phục. c. U hỏi với thái độ phân vân. d. Nhỉ thái độ thân mật. 17
- e. Nhé dặn dò, thái độ thân mật. f. Vậy thái độ miễn cưỡng, không muốn như vậy. g. Cơ mà thái độ thuyết phục. Câu 3: - Vết thương của mẹ còn đau, cẩn thận kẻo lại bị nhiễm trùng. - Mẹ rất chú ý kiêng cự mà! - Đấy, anh lại đi chơi. - Liệu có chắc là bạn ấy làm được bài không? - Chắc làm được chứ lị! Câu 4 : - Thưa cô, bao giờ lớp ta đi thăm quan ạ? - Các cậu nên phân chia một bên nam một bên nữ đấu bóng chuyền xem sao? - Bố ơi, mấy giờ bố con mình đi thăm ông bà nội? Câu 5: - Ngày mai bạn đến nhé! - Bạn nói thế dư mà tôi lại nghĩ khác! Xem thêm tại: c35a33126.html#ixzz5tR3Ju1L8 I. Từ sự việc và nhân vật đến văn tự sự có yếu tố miêu tả và biểu cảm. a. Chẳng may em đánh vỡ một lọ hoa đẹp. b. Em giúp một bà cụ qua đường vào lúc đông người và nhiều xe cộ qua lại. c. Em nhận được món quà bất ngờ nhân ngày sinh nhật. II. Luyện tập Câu 1: - Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ! - Cụ bán rồi? - Bán rồi, họ vừa bắt xong. Hình như không nói ra được những điều này thì lão không nén nổi xúc động nữa. Nhưng nói ra rồi thì đôi mắt lão ầng ậng những nước. Lão òa khóc và ôm lấy tôi. Tội nghiệp, tôi hỏi cho có chuyện để lão nói cho khuây khỏa: - Thế nó cho bắt à? Câu hỏi của tôi vô tình chạm vào đúng nỗi đau của lão. Mặt lão đột nhiên dúm lại, lão khóc hu hu những nếp nhăn xô lại, ép vào hai hàng nước mắt 18
- chảy ra. Thật là tội nghiệp. Tôi không xót xa về mấy cuốn sách của mình nữa mà chỉ ái ngại cho lão Hạc. Câu 2: - Đoạn văn của Nam Cao kết hợp miêu tả và biểu cảm là đoạn tập trung lại chân dung đau khổ của lão Hạc với những chi tiết rất độc đáo :nụ cười như mếu, mắt lão ầng ậng nước, mặt lão đột nhiên co dúm lại, những vết nhăn xô lại, cái đầu lão nghẹo sang một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít. - Đoạn văn của em : Hình như không nói được những điều nào thì lão không nén nổi xúc động nữa. Nhưng nói ra rồi thì đôi mắt lão ầng ậng những nước . Lão òa khóc và ôm lấy tôi. Tội nghiệp, tôi hỏi cho có chuyện để lão nói cho khuây khỏa: - Thế nó cho bắt à? Câu hỏi của tôi vô tình chạm vào đúng nỗi đau của lão. Mặt lão đột nhiên dúm lại, lão khóc hu hu những nếp nhăn xô lại, ép vào hai hàng nước mắt chảy ra. Xem thêm tại: voi-mieu-ta-va-bieu-cam-ngan-gon-c35a33127.html#ixzz5tR3Scm31 I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Câu 1: Bài này có thể chia làm hai phần: + Từ đầu đến “bọn khổng lồ” : Đôn-ki-hô-tê trước khi đánh nhau với cối xay gió. + “Vừa bàn tán” đến hết : Đôn-ki-hô-tê sau khi đánh nhau với cối xay gió. - Liệt kê năm sự việc chủ yếu của lão hiệp sĩ và bác giám mã: + Đôn-ki-hô-tê phát hiện thấy ba, bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng. Đôn-ki-hô-tê cho rằng đó là những tên khổng lồ ghê gớm, cần giết hết bọn chúng. + Đôn-ki-hô- tê cầu mong nàng Đuyn-xi-nê-a cứu giúp rồi xông vào đánh cối xay gió. Đôn-ki-hô- tê bị thương nặng vì bị cối xay gió đạp cánh quạt vào người và ngựa. Xan-chô đến cứu giúp, và hai thầy trò tranh luận nhau về cối xay gió. + Vừa bàn tán chuyện xả ra, hai thầy trò đi về phía cảng La-pu-xê vì theo Đôn-ki-hô- tê con đường này có nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau. + Đêm hôm ấy, hai người ngủ dưới vòm cây. Đôn-ki-hô- tê không ngủ để nghĩ với nàng Đuyn-xi-nê-a. Câu 2. - Có hoài bão, ước mơ tốt : diệt ác, cứu nguy. - Gan dạ, dũng cảm. - Nghiêm nghị, khắc khổ, cứng nhắc. - Điên rồ, hoang tưởng. 19
- Câu 3. * Tốt: - Sống vui vẻ, tự nhiên, thoải mái. - Đầu óc sáng, thiết thực. * Xấu: - Nhát gan, hay sợ. - Thiện cận, vụ lợi. Câu 4: * Đôn-ki-hô- tê : + Suy nghĩ trước cối xay gió - Tưởng gặp lũ khổng lồ hung tợn có cánh tay rất dài. + Quan niệm sống và hành động. - Có lí tưởng, hoài bão : cứu người lương thiện, trừ ác. - Hành động theo quy ước, đúng bài bản của giới hiệp sĩ. - Coi thường nhu cầu tự nhiên (đến bữa không ăn). + Cách nói năng : - Gan gạ, chấp nhận gian nguy - Hiên ngang, trịnh trọng. - Đúng như sách vở, phép tắc phải có. + Ưu điểm : - Có hoài bão, ước mơ đẹp : diệt ác, cứu nguy. Gan dạ, dũng cảm. + Nhược điểm. - Nghiêm nghị, khắc khổ, cứng nhắc. – - Điên rồ, hoang tưởng. * Xan- chô Pan-xa : + Suy nghĩ trước cối xay gió. : - Không nên đụng vào chúng. + Quan niệm sống và hành động. -Tỉnh táo, cân nhắc kỹ trước khi hành động. -Tự nhiên, chân thật, không giấu giếm. -Thích được ăn, được uống thoải mái, no say. - Lảng tránh nguy hiểm, đau đớn. 20
- + Cách nói năng. - Tự nhiên. + Ưu điểm: - Sống vui vẻ, tự nhiên, thoải mái. - Đầu óc sáng, thiết thực. + Nhược điểm. - Nhát sợ. - Thiện cận, vụ lợi. Hai tính cách trên tương phản nhau nhưng lại không mâu thuẫn; trái lãi, bổ sung cho nhau. Câu 5: Xéc-van-tét đã sử dụng biện pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng lên hình ảnh của trang hiệp sĩ Tây Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời. Hình tượng nhân vật thầy trò Đôn-ki-hô- tê và Xan-chô Pan-xa là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc của Xéc-van-tét. Câu 6. Đằng sau những câu văn,ta luôn bắt gặp nụ cười hóm hỉnh của tác giả. Nhưng đằng sau nụ cười đólà sự đề cao của nhà văn đối với nhân vật Đôn-ki-hô- tê về một tình yêu tự do, bình đẳng, sống thiết thực và yêu đời. Xem thêm tại: xec-van-tet-c35a33125.html#ixzz5tR3aKavv 21
- I/ ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Câu 1: Những chi tiết trong văn bản nói lên tấm lòng thương yêu và hành động cao cả của cụ Bơ-men với Giôn-xi: - Cụ Bơ-men và Xiu "sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân - Cụ Bơ – men vội vã đến thăm Giôn – xi. Sự sợ sệt của hai người chính là lo cho tính mệnh người ốm. - Cụ Bơ-men đã âm thầm vẽ chiếc lá trong đêm lạnh buốt và mưa gió. Nhà văn bỏ qua không kể sự việc cụ đã vẽ chiếc lá trên tường trong đêm mưa tuyết chính là yếu tố gây bất ngờ, xúc động cho người đọc. Có thể xem chiếc lá cụ Bơ-men vẽ là một kiệt tác vì nó không chỉ rất sinh động, khiến Giôn-xi tưởng đó là chiếc lá thường xuân thật; mà còn được vẽ bằng cả tình thương yêu con người của cụ, và bức tranh (chiếc lá) đã đem lại sự sống cho Giôn-xi. Câu 2: Những chi tiết khẳng định Xiu không hề được cụ Bơ-men cho biết sẽ vẽ chiếc lá để thay cho chiếc lá cuối cùng: - Trước đó hai người chẳng nói năng gì khi cụ Bơ-men làm người mẫu cho Xiu vẽ. - Khi Giôn-xi đòi kéo mành lên, Xiu làm theo một cách chán nản. - Chính Xiu cũng ngạc cùng với Giôn-xi khi thấy: "Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch". - Chỉ khi bác sĩ nói, Xiu mới biết là cụ Bơ-men bị ốm. Nếu Xiu biết trước ý định của cụ Bơ-men, câu chuyện sẽ không còn hấp dẫn vì chẳng còn yếu tố bất ngờ. Câu 3: Việc Giôn-xi ra lệnh cho Xiu kéo màn lên là chi tiết rất quan trọng. Giôn-xi chờ khi nào chiếc lá cuối cùng rụng nốt thì cô cũng buông xuôi, lìa đời. - Nhà văn không để cho Giôn-xi phản ứng gì. Như vậy làm cho câu chuyện có dư âm, để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ và những dự đoán. Câu 4: Đoạn trích “Chiếc lá cuối cùng” có hai lần đảo ngược tình huống gây bất ngờ: - Giôn-xi bị ốm và rất tuyệt vọng, nằm chờ chết. Thế mà cô khoẻ lại. - Cụ Bơ-men khoẻ mạnh, chỉ bị ốm có hai ngày, nhưng cụ đã đột ngột ra đi. Chính nghệ thuật đảo ngược tình huống đã gây hứng thú cho người đọc. ời giải chi tiết 1. Tìm các từ ngữ chỉ quan hệ ruột thịt, thân thích được dùng ở địa phương tương ứng với các từ ngữ toàn dân sau đây (yêu cầu học sinh làm vào vở). Trả lời: STT Từ ngữ toàn dân Từ ngữ được dùng ở địa phương em 22
- 1 Cha Bố, tía, cậu, thầy 2 Mẹ Má, mợ ,u, vú, bầm 3 Ông nội Ông nội 4 Bà nội Bà nội 5 Ông ngoại Ông ngoại, ông vãi 6 Bà ngoại Bà ngoại, bà vãi 7 Bác (anh của cha) Bác trai 8 Bác (vợ anh của cha) Bác gái 9 Chú (em trai của cha) Chú 10 Thím (vợ của chú) Thím 11 Bác (chị của cha) Cô 12 Bác (chồng chị của cha) Dượng 13 Cô (em gái của cha) Cô 14 Chú (chồng em gái của cha) Dượng 15 Bác (anh của mẹ ) Cậu 16 Bác (vợ anh của mẹ) Mợ 17 Cậu (em trai của mẹ) Cậu 18 Mợ (vợ em trai của mẹ) Mợ 19 Dì (chị của mẹ ) Dù 20 Dượng (chồng chị của mẹ) Dượng 21 Dì (em gái của mẹ) Dì 22 Dượng (chồng chị của mẹ) Dượng 23
- 23 Anh trai Anh 24 Chị dâu Chị 25 Em trai em trai 26 Em dâu (vợ của em trai) Em dâu 27 Chị gái Chị gái 28 Anh rể (chồng của chị gái) Anh rể 29 Em gái Em gái 30 Em rể (chồng của em gái) Em rể 31 Con Con 32 Con dâu (vợ của con trai) Con dâu 33 Con rể (chồng của con gái) Con rể 34 cháu (con của con) cháu Câu 2: Tìm các từ xưng hô địa phương khác. Trả lời: Ví dụ: tui (tôi), tau (tao), hấn (hắn), bọ, thầy, tía (bố), bầm, mế, má (mẹ), Câu 3: Sưu tầm một số thơ ca có sử dụng từ ngữ chỉ người có quan hệ ruột thịt, thân thích ở địa phương em. Trả lời: "Em về thưa mẹ cùng thầy, Có cho anh cưới tháng naỳ anh ra. Anh về thưa mẹ cùng cha Bắt lợn sáng cưới, bắt gà sang cheo" "Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần". I. DÀN Ý CỦA BÀI VĂN TỰ SỰ 24
- a) - Mở bài (từ đầu cho đến "bày la liệt trên bàn."): cảnh buổi lễ sinh nhật. - Thân bài (từ "Vui thì vui thật" cho đến "chỉ gật đầu không nói."): món quà sinh nhật của Trinh tặng Trang. - Kết bài (đoạn còn lại): cảm nghĩ của Trang về món quà sinh nhật. b) Truyện kể về "món quà sinh nhật" do “tôi” tên là Trang kể ở ngôi thứ nhất. - Câu chuyện xảy ra ở nhà Trang vào buổi sáng, trong hoàn cảnh bạn bè họp mặt kỉ niệm sinh nhật của Trang. - Chuyện xảy ra trong đám bạn bè, với ba nhân vật: Thanh, Trinh và Trang. Nhân vật chính là Trinh (Trinh tạo ra sự bất ngờ trong câu chuyện). Mỗi nhân vật mang một tính cách: Trang thì sôi nổi, vội vàng, còn Trinh thì vui vẻ, điềm tĩnh - Câu chuyện diễn ra rất thú vị, có sự vui vẻ, nhưng bồn chồn chờ đợi. Điểm đỉnh câu chuyện ở việc chờ đợi Trinh đến và kết thúc khi món quà mừng sinh nhật của Trinh được "trình diện". Câu chuyện kết thúc khi Trang hiểu ý nghĩa món quà sinh nhật mà Trinh tặng cho và hết sức bất ngờ vì nó là dấu ấn một kỉ niệm đẹp của hai người trong vườn cây ổi. - Các yếu tố miêu tả, biểu cảm đã đưa người ngọc vào một tâm trạng chờ đợi của Trang đối với Trinh để rồi sau đó thấy tấm lòng rất đáng quý của bạn. Yếu tố miêu tả và biểu cảm có tác dụng nâng ý nghĩa món quà sinh nhật lên thành một kỉ niệm, đầy ấn tượng. "Nó không phải là món quà mua vội vàng trên vỉa hè, trong cửa hiệu, chỉ cốt bỏ tiền ra là mua được, mà nó là cả một tấm lòng trân trọng của Trinh ; Trinh đã ấp ủ, nâng niu, hằng nghĩ đến suốt bao ngày nay". c) Trình tự: Hiện tại - Quá khứ - Hiện tại II. LUYỆN TẬP Câu 1: Lập dàn ý truyện "Cô bé bán diêm" Mở bài : Giới thiệu quanh cảnh đêm giao thừa và gia đình của em bé bán diêm, nhân vật chính trong truyện. - Thân bài : + Em bé bán diêm không bán được diêm nên không dám về nhà vì sợ bố đánh. Em tìm một góc tường ngồi tránh rét, kết quả em vẫn bị gió rét hành hạ. + Sau đó em đánh liều quẹt một que diêm để sưởi ấm cho mình. Mỗi lần quẹt một que diêm, em lại thấy một viễn cảnh đẹp đẽ và ấm áp. + Ban đầu “em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi” hơi ấm của que diêm khiến em “thật dễ chịu”. Thế rồi que diêm vụt tắt, em bé trở lại với hiện tại rét mướt, tê cóng cả chân tay. Tiếp đến que diêm thứ hai, em lại mơ thấy một bàn ăn thịnh soạn “có cả ngỗng quay” . Que diêm tắt, em lại phải đối diện với thực tại của mình. Em lại quẹt que diêm thứ ba, em thấy hiện ra một cây thông Nô-en “ trang trí lỗng lẫy” với “hàng ngàn ngọn nến sáng rực”. Nhưng rồi ngọn nến cũng tắt bay về trời. Que diêm thứ tư được đốt lên, em “nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em”. + Cuối cùng, em quẹt những que diêm còn lại, níu lấy bà bay lên. - Kết bài: 25
- + Nhân vật đã chết rét dưới lớp tuyết lạnh. + Truyện Cô bé bán diêm đã làm em xúc động vì cuộc đời đói khổ, nhọc nhằn của một em gái nhỏ. Nghĩ đến cảnh sống của em hiện nay được gia đình thương yêu đùm bọc, em hiểu mình thật là hạnh phúc. Câu 2: Lập dàn ý cho đề bài: "Hãy kể về một kỉ niệm với người bạn tuổi thơ khiến em xúc động và nhớ mãi" a. Mở bài Giới thiệu bạn mình là ai? Giới thiệu về kỉ niệm với người bạn đó khiến mình xúc động nhất? b. Thân bài Kể về kỉ niệm đó: Xảy ra ở đâu? Lúc nào? Với những ai? Sự việc chính và các chi tiết. Điều gì khiến em xúc động? Xúc động như thế nào? c. Kết bài Em suy nghĩ gì về kỉ niệm đó? Suy nghĩ của em về người bạn đó. I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Câu 1: Căn cứ vào đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi) của người kể chuyện, ta thấy có hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau. - Trong mạch kể xưng "tôi" là người kể chuyện, người ấy tự giới thiệu là họa sĩ - Trong mạch kể xưng "chúng tôi" vẫn là người kể chuyện trên, nhưng lại nhân danh là "cả bọn con trai" Câu 2: Khi hồi nhớ về kỉ niệm cùng "bọn con trai" ngày ấy, người kể xưng "chúng tôi" nghĩa là nhân danh cho cả những đứa trẻ cùng trang lứa. Dù thế thì xúc cảm cụ thể, cái nhìn cụ thể vẫn thuộc về "tôi": Câu 3: Bằng con mắt của một hoạ sĩ thực thụ và mối giao cảm tinh tế. Xem thêm tại: I. NÓI QUÁ VÀ TÁC DỤNG CỦA NÓI QUÁ Câu 1: Thực chất là sự phóng đại mức độ, tính chất nội dung của các câu này. II.LUYỆN TẬP 26
- Câu 1: a. Ý nghĩa: Lao động đã mang lại cho con người cuộc sống no ấm. b. không ngại khó khăn, gian khổ. c. Ý muốn nói quá về lời nói của con người có quyền hành Câu 2: a. Ở nơi chó ăn đá gà ăn sỏi thế này, đến cỏ không mọc nổi nữa là trồng rau, trồng cà. b. Nhìn thấy tội ác của giặc ai ai cũng bầm gan tím ruột. c. Cô Nam tính tình xởi lợi ruột để ngoài da. d. nở từng khúc ruột e. vắt chân lên cổ Câu 3: - Kiều có vẻ đẹp nghiên nước nghiêng thành. - Việc xây dựng các nhà máy thủy điện, có khác gì chúng ta dời non lấp biển. - Đoàn kết là sức mạnh lấp biển vá trời để kiến tạo một cuộc sống tự do. - Bộ đội ta mình đồng da sắt. - Bài toán này tớ nghĩ đã nát óc mà chưa giải được. Câu 4: - Kêu như trời đánh - Dữ như cọp. - Nhìn như muốn nuốt chửng người ta. - Khỏe như voi. - Ăn như lợn. 27
- Câu 5: Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn Đánh một trận sạch không kình ngạc Đánh hai trận, tan tác chim muông. Câu 6: Nói quá và nói khoác cùng là nói phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật hiện tượng được nói đến. Nói quá mục đích nhấn mạnh, khẳng định, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm. Còn mục đích của nói khoác là làm cho người nghe tin vào những điều không có thực, hoặc để phô trương, khoe khoang. Đề 1. Hãy kể về một kỉ niệm đáng nhớ đối với một con vật nuôi mà em yêu thích. “Meo meo meo” hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học là chú mèo lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Đó là chú mèo bà ngoại đã tặng em hồi năm ngoái. Con mèo vừa tròn một tuổi tên là MiMi. Nó là giống mèo cái. MiMi khoác lên mình bộ áo màu vàng điểm thêm vài vết trắng làm cho chiếc áo của cô càng thêm xinh đẹp. Cô rất thích chơi với trái banh ten-nit của em. Cái đầu tròn như trái vú sữa. Đôi mắt long lanh như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi nhỏ xinh màu hồng lúc nào cũng ươn ướt. Miệng cô chúm chím dễ thương. Tuy vẻ bề ngoài là vậy nhưng bên trong có hàm răng nhọn hoắt, lúc nhe răng trông thật đáng sợ. Đôi tai hình tam giác luôn vểnh lên để nghe ngóng. Tai cô mới thính làm sao! Chỉ một tiếng động nhỏ cô đều phát hiện được. Hai bên má có bộ ria mép trắng muốt, trông MiMi thật oai phong. Bốn cái chân thon thon giúp cô đi lại nhẹ nhàng như người mẫu đang trình diễn thời trang. Nhưng lúc cần MiMi chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là tấm nệm êm nhỏ, trong tấm nệm nhỏ ấy cất giấu một bộ vuốt sắt bén, và đó là vũ khí lợi hại nhất của cô ta. Đã có lần những chiếc vuốt ấy đã để lại dấu vết trên tay em khi em nghịch với cô. Ôi! cái đuôi mới dẻo làm sao! Chiếc đuôi như một dấu ngã chẳng giấu vào đâu được. Những ngày mùa hè, buổi sáng thức dậy MiMi thường ra ngoài sân tắm nắng. Lấy chiếc lưỡi của mình liếm bộ lông vàng mượt và chơi đùa giởn với bóng của mình. Còn mùa đông MiMi thường nhảy phóc lên bộ sa lông đánh một giấc ngủ no say. Đặt biệt lúc ngủ MiMi luôn nhịp cái đuôi trông ngộ nghĩnh làm sao! Xinh đẹp là thế nhưng những lúc rình và bắt chuột trông cô như một chiến binh. Một hôm em thấy MiMi nằm sau thùng gạo để rình bắt chuột. Một con chuột nhắt mon men đến bên nồi cơm đang để hớ hênh. Bất chợt, phóc một cái, MiMi đã vồ chú chuột nhắt nằm cứng ngắt trong đôi móng vuốt sắc của cô. Vậy là MiMi có một bửa ăn ngon lành và đầy tự đắc. 28
- Em rất yêu quý MiMi và xem cô như người bạn thân thiết. Sau những lúc học hành căng thẳng em hay chơi với cô. Em luôn chia sẻ những buồn vui của mình với MiMi. Nó không chỉ là con vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà còn được em phong là “Dũng sĩ diệt chuột” giỏi nhất mà em từng nuôi. Đề 2. Kể về một lần em mắc khuyết điểm khiến thầy, cô giáo buồn. Câu chuyện đáng buồn ấy xảy ra từ năm học trước, vậy mà mỗi lần nhớ lại, em cảm thấy như vừa mới đây thôi. Giờ kiểm tra Toán hôm đó, em sẽ nhớ suốt đời. Đầu đuôi câu chuyện là thế này: Thầy giáo dạy Toán lớp 7A là thầy Thảo. Em rất thích môn Toán một phần cũng vì thầy dạy vừa dễ hiểu, vừa hấp dẫn. Từ đầu năm đến giữa học kì I, em liên tục được điểm 9, điểm 10. Bố em cũng là giáo viên dạy Toán trong trường, thường hãnh diện về cậu con trai cưng của mình. Bất ngờ, thầy Thảo bị ốm phải nằm bệnh viện và bất ngờ hơn nữa người được Ban Giám hiệu phân công dạy thay lại chính là bố em. Mọi rắc rối bắt đầu từ đấy.Mặc dù bố là giáo viên dạy giỏi nhưng học bố, em thấy thế nào ấy. Cứ đến giờ Toán là em ngượng nghịu, mất tự nhiên hẳn. Hồi thầy Thảo còn dạy, em hay xung phong lên bảng giải bài tập và lần nào cũng được thầy khen. Bây giờ khác hẳn, bố giảng bài, em chăm chú nghe nhưng im lặng, chẳng tỏ thái độ gì. Hình như hiểu tâm trạng của em nên bố không vui.Em còn nhớ là trước hôm kiểm tra môn Toán giữa học kì I, em có trong tay cuốn Tuyển tập truyện ngắn hay 2004 mà anh Đức con bác Hải mang đến cho mượn với lời khen nức nở rằng không thể cố cuốn sách nào hấp dẫn hơn. Thế là em lén đọc mê mải cho đến khuya, bất chấp lời nhắc nhở ôn bài của bố. Kết quả là sáng hôm sau, khi làm bài, em không thể nào tập trung tư tưởng, lúng túng mất một lúc khá lâu. Cuối cùng, em đã tính sai đáp số.Suốt mấy ngày, em hồi hộp và lo sợ. Em không chi lo bị điểm kém mà còn lo cho uy tín của bố nữa. Bố sẽ ăn nói làm sao với học trò và đồng nghiệp khi con trai mình làm bài không tốt. Hôm trả bài, cầm trên tay bài kiểm tra bị điểm 3 to tướng, quả thật là em choáng váng. Em vừa xấu hổ, tủi thân lại vừa giận bố. Bố có thể sửa điểm được mà sao bố nỡ thẳng tay như vậy? Đã thế, sau bữa cơm chiều, trước mặt cả nhà, bố buồn bã bảo rằng vì em chủ quan, bướng bỉnh không nghe lời nên mới ra nông nỗi. Ngẫm nghĩ, em thấy bố nói rất đúng. Em chỉ có thể tự trách mình mà thôi. Điểm 3 đầu tiên và duy nhất ấy như một tời cảnh cáo nghiêm khắc đối với em: Không được kiêu căng, tự mãn trong học tập và phải nghiêm túc, cẩn thận trong mọi công việc, dù là việc nhỏ. Sau đó, em nhanh chóng xoá đi mặc cảm, lại say mê môn Toán và cũng mê “thầy giáo bố” chẳng khác gì thầy Thảo trước đây. Cuối năm lớp 7, em vẫn đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc. Hôm lĩnh phần thưởng và giấy khen, em trịnh trọng đưa cho bố bằng cả hai tay. Bố khen em cố gắng như vậy là tốt, xứng đáng là con trai của bố. Em xúc động không nói nên lời. Chuyện ấy giờ đã thành kỉ niệm, dẫu là kỉ niệm buồn nhưng ý nghĩa của nó thì vô cùng thấm thía, bền lâu. Nó không chỉ là bài học sâu sắc cho em trong quãng đời học sinh mà sẽ là bài học bổ ích suốt cuộc đời. Đề 3. Kể về một việc em đã làm khiến bố mẹ rất vui lòng. Bố mẹ đã có côg sinh thành và nuôi dưỡng tôi nên người, vì vậy ơn nghĩa của họ tôi sẽ không thể trả hết được. Nhưng tôi lại có thể làm cho bô mẹ vui,làm tròn bổn phận của một người con. Tôi vẫn nhớ ngày mà nụ cười trên gương mặt đấng sinh thành của tôi rạng rỡ hơn bao giờ hết. Đó chính là khi bố mẹ biết tôi đã nhặt được ví tiền của một người lạ và đem đến nộp chú công an. Khoảnh khắc được nhìn thấy nụ cười ấm áp của bố mẹ thật hạnh phúc biết bao! 29
- Tôi còn nhớ hồi đó, tôi mới tám tuổi, cái tuổi còn rất nhỏ. Niềm vui lớn lao nhất mà tôi đã dành cho bố mẹ tôi vào cái tuổi ấy là làm đc một việc tốt : nhặt được của rơi, trả lại người đánh mất. Vào buổi sáng Chủ nhật, trên đường đi học thêm về, qua một cái ngõ hẻm, tôi thấy có một vật gì đó nằm ở giữa đường – một chiếc ví màu đen. Tôi nhặt chiếc ví đó lên rồi vừa đi chầm chậm, vừa nhìn xung quanh xem có ai đó muốn tìm chiếc ví này không. Một lúc sau, tôi vẫn không thấy có ai đến tìm. Tôi nghĩ chắc người đó đã đi xa rồi hoặc không biết mình đánh rơi chiếc ví. Dù có biết chăng nữa, thì người đó cũng chỉ loay hoay tìm kiếm ở gần chỗ họ đứng . Hàng loạt những câu hỏi cứ hiện ra trong đầu tôi : Người ấy là ai? Người đó là công nhân, nông dân hay là một người giàu có? Trong chiếc ví có những gì? Dù rất tò mò nhưng tôi không muốn mở ra xem. Tôi nghĩ ngợi , phân vân mãi mà không xác định đc mình sẽ trả lại hay không trả. Nếu không trả thỳ chẳng có ai biết mình ăn cắp của rơi mà lại có tiền để mua được nhiều thứ. Tưởng tượng đến lúc đó, tôi thích lắm nhưng nghĩ lại nếu mình trả cho người ta thì sẽ làm đc một việc tốt và không phải ân hận. Tôi đã quyết định trả ví tiền này. Chủ nhân của chiếc ví này sẽ rất mừng khi tìm lại đc nó. Nhưng biết ai đánh rơi chiếc ví này mà trả lại? Tốt nhất là đem nộp cho các chú công an. Tôi mag chiếc ví đến trụ sở công an phường. Các chú công an nhìn tôi thập thò ở cửa, liền hỏi: – Có việc gì vậy cháu bé ? Tôi ngại ngùng đáp: – Dạ! thưa chú trên đường đi học về cháu nhặt đc chiếc ví này. Cháu đem nộp, nhờ các chú trả lại cho người bị đánh mất ạ! Một chú công an cầm lấy chiếc ví rồi đến chỗ tôi, chú cười xoa đầu tôi, nói: – Chái rất ngoan và thật thà không dám lấy cắp của rơi. Nào! Chú cháu mình xem trong này có những gì để ghi vào biên bản nhé! Rồi chú lấy ra từ trong ví: một giầy chừng minh nhân dân, cá giấy tờ quan trọng và hơn 5 triệu đòng tiền mặt . Chú ghi rõ từng thứ vào biên bản rồi yêu cầu tôi ghi tên và địa chỉ xuống phía dưới biên bản. Có tên tuổi, địa chỉ các chú sẽ thuận lợi trong việc trải lại cho người đánh mất. Buổi tối hôm đó , nhà tôi có một người khách lạ đến chơi. Đó chính là chủ nhân của chiếc ví. Bác kể chuyện cho bố mẹ tôi nghe và cảm ơn tôi mãi. Bố mẹ tôi nghe xong đã khen tôi làm đc 1 việc tốt, lúc đó bố mẹ tôi rất vui và hành diện vì có một đứa con ngoan. Bây giờ, mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn không thể nào quên đc ngày hôm đó. Lời khen chân thành của mọi người đói với tôi là phần thưởng quý giá nhất.Tôi sẽ giữ mãi kỷ niệm này trong tâm trí của mình. Đề 4. Nếu là người được chứng kiến cảnh lão Hạc kể chuyện bán chó với ông giáo trong truyện ngắn của Nam Cao thì em sẽ ghi lại câu chuyện đó như thế nào? Tôi choàng tỉnh giấc, dậy từ khi mặt trời còn chưa treo ngọn tre. Đó là một thói quen bình thường của người làm nghề nông. Cả cái làng Vũ Đại này, có ai không làm nghề nông chỉ trừ ông Bình giáo ra. Ông ấy là người học rộng lại hiểu sâu, chính vì vậy mà tôi định đến nhà ông giáo để viết một số giấy tờ nhà đất. 30
- Con đường làng dài và hẹp. Gió thổi vi vu khiến cho những rặng tre xào xạc, đung đưa. Quanh nhà ông giáo, những hàng râm bụt lá vàng úa vẫn còn tồn tại sau trận bão khủng khiếp. Vừa thấy tôi, ông giáo liền nói: “Chào bác”. Tôi đáp lại: – Vâng, chào anh! Hôm nay tôi sang đây là muốn nhờ anh viết một số giấy tờ đất đai! – Vậy mời bác vào nhà nhà xơi nước cái đã! Ông giáo mời tôi ngồi trước thềm nhà, chúng tôi đang bàn bạc thì bỗng đâu có tiếng nói hớt hải vọng tới: Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ! A! Thì ra là lão Hạc, lão mặc bộ quần áo xộc xệch, đầu tóc rồi bù trông có vẻ kham khổ lắm. Lão là người hàng xóm của tôi. Vợ lão chết, con lão thì đi làm đồn điền cao su không biết khi nào về. Lão cứ sống như vậy cô đơn, thui thủi một mình ngày này qua ngày khác. Nhưng có điều khiến tôi thấy rất lạ. Hôm trước, tôi còn sang xin nhà lão mấy củ gừng về pha nước thì thấy lão cưng nựng con chó lắm kia mà; Một điều “Cậu” này, hai điều “cậu” nọ. Khi ăn thỉnh thoảng lão còn gắp thức ăn cho con chó của lão. Vậy mà giờ lại phải bán nó đi sao? Ông giáo hỏi: – Thế nó cho bắt à? – Lúc bấy giờ thì mắt lão Hạc đã ầng ậc nước. Những nếp nhăn sô vào với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, trông lão giờ già đi đến hơn chục tuổi. – Khốn nạn! nó có biết gì đâu ông giáo ơi! Nó thấy tôi gọi thì chạy ra. Cùng lúc đó thì chúng nó tóm gọn con chó rồi lôi đi xềnh xệch. Tôi bắt đầu hiểu ra câu chuyện của lão Hạc và mườn tượng cảnh thằng Mục, thằng Xiên dốc ngược con chó lên, trói chân, trói tay nó lại rồi mang đi. Lão Hạc mếu máo nói: Lúc đấy thì cu cậu mới biết là cu cậu chết! Mắt nó long sòng sọc rồi dại đi. Nó cứ ăng ẳng nhìn tôi như thể nó nói: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão thế nào mà giờ lão xử tôi như vậy hả. – Cụ cứ khéo tưởng tượng đấy chứ nó có biết gì đâu. Vả lại! Ai nuôi chó mà chẳng để giết thịt. Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy chứ! ông giáo nói. Lão Hạc chua chát bảo: – Ông giáo nói phải! Ta hóa kiếp cho nó để nó được đầu thai thành kiếp khác may ra có là kiếp người. Như ông với tôi chẳng hạn! Tôi nghe mà không kìm được nước mắt. Tôi cảm thấy đau khổ và xót thương cho lão Hạc quá! Lão chỉ có mỗi con chó để bầu bạn hằng đêm. Có con chó đó cũng đỡ buồn và bù đắp được cho sự thiếu thốn tình cảm của lão. Vậy mà giờ lão phải bán nó đi để lấy tiền để dành cho con sao! Lão Hạc quả là một con người tốt và có tình thương yêu con sâu sắc mà hiếm ai có được. Ông giáo nói: – Không có kiếp gì là sướng cả!Để tôi vào nhà pha ấm nước chè rồi ba ông con mình vừa rít thuốc lào vừa uống, thế là sướng! – Ông giáo dạy phải! nhưng giờ tôi có việc gấp phải đi bây giờ ông giáo ạ! 31
- – Còn sớm mà, cụ hẵng ở lại chơi với chúng tôi cái đã! – Ông giáo cho tôi xin khất chứ hôm nay thì nhất quyết không được. Vậy là lão Hạc lại lạng chạng ra về trong sự ái ngại của tôi và ông giáo. Thuốc lào đã được vo viên mà không ai thèm đụng đến. Tôi nghĩ đến lão Hạc, một con người đầy tình thương và giàu lòng tự trọng. Một người vì con mà sẵn sàng bán đi thứ yêu quý nhất, kỷ vật của mình. Một người mà đã mếu máo, khóc hu hu như trẻ con vì nỡ lừa một con chó. Một người đáng kính như vậy mà phải sống khổ, sống sở như vậy sao? Cuộc đời thật bất công đối với những con người tốt, chỉ toàn khổ đau, bất hạnh. Tôi từ biệt ông giáo đi về mà lòng đau như cắt. Tôi, ông giáo và lão Hạc, những người nông dân nghèo khổ, bị xã hội dồn đến đường cùng mà vẫn phải sống, vẫn phải tồn tại trên cái thế giới này. Cảm ơn lão Hạc, lão đã cho tôi hiểu được tình thương và lòng tự trọng quý giá của một con người. tôi sẽ mãi khắc sâu bài học này trong tâm can và ý chí của mình đến cuối đời! 1. ÔN TẬP TRUYỆN KÍ VIỆT NAM TÊN VĂN BẢN, THỂ LOẠI PHƯƠNG THỨC NỘI DUNG NGHỆ THUẬT TÁC GIẢ BIỂU ĐẠT Tôi đi học – Thanh Truyện ngắn Tự sự kết hợp Tâm trạng, cảm giác của nhân vật Miêu tả tinh tế, ngôn ngữ biểu Tịnh miêu tả và biểu tôi trong buổi tựu trường đầu tiên cảm, so sánh độc đáo, giọng điệu cảm trữ tình. Trong lòng mẹ - Hồi kí Tự sự kết hợp Nỗi đau của đứa bé mồ côi và tình Khắc họa tâm trạng nhân vật sinh Nguyên Hồng miêu tả và biểu yêu thương mẹ cháy bỏng của chú động, mạch cảm xúc chân thực, cảm. bé Hồng. kết hợp nhuần nhuyễn các phương thức biểu đạt. Tức nước vỡ bờ - Tiểu thuyết Tự sự + miêu tả Bộ mặt tàn ác bất nhân của xã hội – Tình huống truyện kịch tính, kể Ngô Tất Tố tình cảnh và vẻ đẹp của người phụ chuyện miêu tả chân thực, sinh nữ nông dân trước cách mạng tháng động. Tám Lão Hạc – Nam Truyện ngắn Tự sự kết hợp Số phận bất hạnh và vẻ đẹp của Ngôi kể thứ nhất kết hợp các Cao miêu tả và biểu người nông dân phương thức biểu đạt, xây dựng cảm hình tượng nhân vật. 2 - Những điểm giống nhau Đều là những văn bản tự sự, truyện kí Việt Nam hiện đại + Đề tài chủ yếu về cuộc sống và con người cùng thời với tác giả 32
- + Chan chứa tinh thần nhân đạo, tố cáo những gì xấu xa, tàn ác, chà đạp lên cuộc sống của những người bình thường + Ca ngợi, trân trọng tình cảm tốt đẹp, phẩm chất tốt đẹp của con người. + Được viết bằng ngòi bút chân thực, hiện đại, phản ánh được những khía cạnh đặc sắc của cuộc sống. - Khác nhau + Ở mỗi văn bản đều có cái riêng. Cũng là nỗi đau của con người nhưng ở mỗi văn bản thể hiện một phương diện, một khía cạnh cụ thể: + Có người vừa nghèo khổ lại vừa bị hủ tục xô đẩy. + Có người vì quá nghèo khổ phải đứng lên phản kháng lại, có người lại chôn chặt nỗi đau ấy trong một cái chết thảm thương. - Về phương diện biểu đạt thì mỗi văn bản thể hiện sắc thái miêu tả, biểu cảm đậm nhạt khác nhau. 3. Em thích nhất là nhân vật chị Dậu. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật chị Dậu trong đoạn trích, ta thấy hiện lên vẻ đẹp của một người phụ nữ nông dân tính tình hiền dịu, mộc mạc, yêu chồng và thương con hết mực. Nhưng chị cũng không phải là một người phụ nữ yếu đuối, ngược lại tiềm tang một sức sống, một sức phản kháng mãnh liệt khi bị đẩy vào bức đường cùng. I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN Câu 1: Văn bản này gồm ba phần: - Phần thứ nhất Trình bày nguyên nhân ra đời của văn bản - Phần thứ hai: Phần này đi sâu phân tích tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông, nêu ra một số "giải pháp cho vấn đề sử dụng bao bì ni lông” - Phần thứ ba của văn bản chỉ gồm ba câu cuối. Câu 2: Nguyên nhân chính khiến cho việc dùng bao bì ni lông có thể gây nguy hại đến môi trường là "tính không phân huỷ của pla-xtích". Câu 3 Tính thuyết phục của văn bản chủ yếu ở việc phân tích tác hại của việc dùng bao bì ni lông. I. Nói giảm nói tránh và tác dụng của nói giảm nói tránh 1. Các phần in đậm trong ba câu trích đều nói đến cái chết. Cách nói trên đây là để giảm nhẹ, để tránh đi phần nào sự đau buồn. 2. Tác giả dùng từ ngữ “bầu sữa” trong câu văn để tránh nói những từ thô tục. 3. So sánh hai cách nói, cách nói thứ hai tế nhị hơn, có tính chất nhẹ nhàng, người nghe dễ tiếp nhận. - Lười lắm ⟶ không được chăm chỉ lắm! II. Luyện tập 1. 33
- a. Khuya lắm rồi mời bà đi nghỉ. b. Cha mẹ em chia tay nhau từ ngày em còn rất bé. c. Đây ần học của trẻ em khiếm thị. d. Mẹ nó đã có tuổi rồi, nên chú ý giữ gìn sức khỏe e. Cha nó mất, mẹ nó đi bước nữa nên chú nó rất thương nó. 2. A2) Anh nên hòa nhã với bạn bè. B2) Anh không nên ở đây nữa. C1) Xin đừng hút thuốc là trong phòng. D1) Nó nói như thế là thiếu thiện chí. E2) Hôm qua em có lỗi với anh, em xin anh thứ lỗi. 3 a.Cậu hôm nay mặc áo quần lòe loẹt quá. Hôm nay cậu mặc quần áo hơi màu mè đấy. b.Cái xe của cậu như đồ nhôm nhựa. Cái xe của cậu nước sơn hơi bị mờ. c.Bài tập làm văn của cậu viết dở lắm. văn của cậu viết chưa đạt được như mong muốn. d. Cậu cút đi! Cậu xem có nên ở đây nữa không? e. Thái độ của anh bất lịch sự quá! Ư Thái độ của anh hơi quá mức đấy 4. Những tình huống giao tiếp cần nói đúng, nói thật thì không nên dùng lời nói giảm, nói tránh. Ví dụ như khi người nhà gặp tai nản giao thong, khi mắc lỗi Lời giải chi tiết a. Ôn tập về ngôi kể - Em đã được đọc những văn bản nào có cách kể theo ngôi thứ nhất, văn bản nào có cách kể theo ngôi thứ ba? - Em đã gặp trong văn bản nào sự thay đổi ngôi kể? Tại sao lại phải thay đổi ngôi kể? Trả lời: 34
- Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng để kể chuyện. Ngôi kể thường được thể hiện ra bằng nhân xưng trong lời kể. Có khi người kể kể theo ngôi thứ nhất – xưng “tôi” (Tôi đi học, Trong lòng mẹ, ) ; có khi kể theo ngôi thứ ba – dấu mình đi, không trực tiếp lộ diện nhưng thực ra đã có mặt ở khắp nơi để chứng kiến và kể lại chuyện, kể như nhân vật tự kể, kể như “người ta kể” (Tức nước vỡ bờ, Chiếc lá cuối cùng, ). Ngôi kể thứ ba cho phép người kể tự do hơn trong việc chứng kiến, biết và kể lại mọi chuyện. Ngôi kể thứ nhất (tôi) không thể tự do như ngôi kể thứ ba, người kể dưới hình thức nhân xưng “tôi” chỉ kể những gì “tôi” biết, “tôi” chứng kiến. Tuỳ theo từng trường hợp với dụng ý khác nhau, người ta có thể thay đổi ngôi kể để tạo ra màu sắc cá thể hoá, linh hoạt trong lời kể, điểm nhìn, b. Chuẩn bị ở nhà 1. Kể lại đoạn trích sau theo lời kể của chị Dậu – ngôi kể thứ nhất: “Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn: - Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! - Tha này! Tha này! Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu. Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại: - Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ! Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu. Chị Dậu nghiến hai hàm răng: - Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu. Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau, du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sòm. Kết cục anh chàng “hầu cận ông lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.” (Ngô Tất Tố, Tắt đèn) rả lời: - Thay đổi nhân xưng trong lời dẫn, lời thoại có thể giữ nguyên; thay đổi nhân xưng đối với anh Dậu (có thể thay bằng “nhà tôi”, ví dụ: Cai lệ tát vào mặt tôi một cái đánh bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh nhà tôi.”); thay đổi một số từ ngữ trong lời dẫn thoại, ví dụ: “Tức quá, không thể chịu được, tôi liều mạng cự lại:”. Thay đổi chi tiết miêu tả, biểu cảm, ví dụ: “Tên người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến giơ gậy chực đánh tôi. Nhanh tay, tôi nắm ngay được gậy của hắn. Tôi giằng co, du đẩy với hắn, rồi buông gậy ra, áp vào vật nhau với hắn. Hai đứa con tôi kêu khóc om sòm. Cuối cùng, hắn bị tôi túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.” - Viết ra thành văn bản toàn bộ lời kể, tập kể nhiều lần ở nhà. 2. Kể lại câu chuyện trên trước lớp theo sự chuẩn bị ở nhà - Chú ý điều chỉnh giọng nói cho phù hợp với ngôi kể, nhất là lời thoại; - Nhấn mạnh các yếu tố miêu tả và biểu cảm theo ngôi thứ nhất. I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂU GHÉP 35
- 1. * Câu 1: Tôi//quên thế nào được, những cảm giác// nảy nở (trong lòng tôi)//như mấy cành// đãng ⟶ Cụm C - V lớn (nòng cốt) Tôi/quên quang đãng - Cụm C - V làm bổ ngữ cho ĐT “quên”: những cảm giác trong sáng ấy/nảy nở trong lòng tôi - Cụm C - V làm bổ ngữ cho ĐT “nảy nở”: (như) mấy cành hoa tươi//mỉm cười * Câu 2: Mẹ tôi/âu yếm nắm tay tôi - 1 cụm C – V * Câu 3: 3 cụm C – V - Cảnh vật chung quanh tôi//đều thay đổi - (Vì) chính lòng tôi//đang có sự thay đổi lớn - Hôm nay tôi//đi học ⟶ giải thích nghĩa cho cụm C - V 2 2. - Câu 1: 3 cụm C - V (2 cụm làm phụ ngữ cho ĐT) - Câu 2: 1 cụm C - V ⟶ Câu đơn - Câu 3: 3 cụm C - V ⟶ 3 cụm C - V không bao chứa nhau II.CÁCH NỐI CÁC VẾ CÂU 1. Câu (1), (3), (6) 2. Câu (1) và câu (7) không dùng từ nối. Câu (3) và câu (6) dùng quan hệ từ. 3. - Dùng từ có tác dụng nối Vd: Xe dừng lại và một chiếc khác đỗ bên cạnh. -Chỉ quan hệ nối tiếp Vd: Nó đến rồi chúng tôi học bài. -Dùng quan hệ từ Vd: Hoa cúc đẹp nhưng hoa ngâu thơm hơn. III.LUYỆN TẬP 1. 36
- a) Nếu Dần không buông chị ra, chốc nữa nữa ông lí vào đây, ông ấy trói nốt cả u, trói nốt cả Dần nữa đấy => dung dấu phẩy b) Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ, khóc không ra tiếng. (dùng từ nối :giá, dấu phẩy) Giá những cổ tục đã cho kì nát vụn mới thôi. (có dùng từ nối) c) Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: lòng tôi càng thắt lại, khóe mắt tôi đã cay cay. (không dùng từ nối, dung dấu 2 chấm và dấu phẩy) d) Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện quá. (có dùng từ nối: bởi vì) 2 a) Vì anh có tài riêng mà tính lại thích tự do, nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào. b) Nếu ai cùng làm việc hết mình thì công việc sẽ tiến hành đúng với kế hoạch. c) Tuy trời mưa lớn nhưng anh ấy vẫn nhất quyết lên đường. d) Không những cây không ra hoa mà lá cũng khô héo dần. 3 * Bỏ bớt một quan hệ từ. a) Anh có tài riêng mà tính lại thích tự do nên anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào. ⟶ Anh chẳng chịu làm riêng cho một rạp nào vì anh có tài riêng mà tính lại thích tự do. b) Ai cũng làm việc hết sức mình thì công việc sẽ hoàn thành đúng kế hoạch. ⟶ Công việc sẽ hoàn thành đúng kế hoạch nếu ai cũng làm việc hêt sức mình. c) Trời mưa lớn nhưng anh ấy vẫn nhất quyết lên đường. ⟶ Anh ấy vẫn nhất quyết lên đường dù trời mưa lớn. d) Không những cây không ra hoa mà lá cũng khô héo dần. ⟶ Không những cây không ra hoa, lá cũng khô héo dần. • Đảo lại trật tự các vế câu. a) Anh chẳng chịu làm chuyên cho một rạp nào vì anh có tài riêng mà tính lại thích tự do. b) Công việc sẽ hoàn thành đúng kế hoạch nếu ai cũng làm việc hêt sức mình. c) Anh ấy vẫn nhất quyết lên đường dù trời mưa lớn. d) Không đảo được 4. a) Chúng tôi chưa đến nơi thì xe đã hết xăng. b) Ăn cây nào rào cây nấy. 37
- c) Chúng ta càng lên cao, chúng ta càng nhìn được xa. 5. a. Thay đổi thói quen sử dụng bao bì ni lông. Hàng ngày chúng ta vẫn sử dụng một lượng lớn túi ni-lông mà không hề biết tới những tác động to lớn của nó tới môi trường. Túi nilông lẫn vào đất ngăn cản oxy đi qua đất, làm chậm sự tăng trưởng của cây trồng, gây xói mòn đất. Túi nilông lọt và cống, rãnh, kênh, rạch sẽ làm tắc nghẽn gây ngập úng. Các hoá chất độc hại còn lại hay lẫn trong quá trình sản xuất túi nilông cũng sẽ thâm nhập vào đất, vào nguồn nước, vào đồ ăn thức uống gây tổn hại sức khoẻ con người, Nếu chúng ta không có những biện pháp hạn chế sử dụng túi nilông ngay thì không bao lâu nữa kênh rạch, ruộng đồng, mọi nơi sẽ tràn ngập rác nilông, môi trường sẽ bị ô nhiễm nặng nề. b. Tác dụng của việc lập dàn ý trước khi viết bài tập làm văn. "Chắc hẳn nhiều người trong số các bạn đều biết tới việc lập dàn ý trước khi làm một bài luận, một bài báo hay chỉ đơn giản là làm một bài tập làm văn trên lớp. Mặc dù vậy, ít người trong chúng ta thực sự chú ý tới việc này và nguyên nhân là do chưa hiểu rõ tác dụng mà nó mang lại. Lập dàn ý giúp ta sắp xếp, chỉnh sửa được các ý sẽ đưa vào bài. Từ đó giới hạn và thanh lọc được những phần hay những ý,chi tiết cần thiết để giúp bài văn cô đọng,hàm súc. Ngoài ra, nó còn giúp ta sắp xếp được bố cục bài viết theo một thứ tự. Dù các ý của bạn được chọn lọc và tiêu biểu, nhưng nếu thiếu một bố cục mạch lạc, gắn kết với nhau thì bài viết sẽ rất hỗn độn. Nó sẽ làm người đọc hay người nghe mất thời gian để gắn kết các ý với nhau. Bố cục của bài viết còn ảnh hưởng tới việc diễn đạt ý. Với một bố cục hoàn chỉnh, người đọc và người nghe sẽ dễ dàng hiểu được ý mà bạn muốn diễn đạt từ đó tránh việc hiểu nhầm,hiểu sai. Vậy nên việc lập dàn ý khi làm một bài tập làm văn là thực sự quan trọng." I - Vai trò và đặc điểm chung của văn bản thuyết minh 1. Văn bản thuyết minh trong đời sống con người - trình bày lợi ích của cây dừa Bình Định - thuyết minh, giải thích về tác dụng của chất diệp lục làm cho người ta thấy lá cây có màu xanh. - giới thiệu Huế như là một trung tâm văn hóa nghệ thuật lớn của Việt Nam. 2. Đặc điểm chung của văn bản thuyết minh - Văn bản thuyết minh có nhiệm vụ cung cấp tri thức khách quan về sự vật giúp con người có được hiểu biết về sự vật một cách đầy đủ, đúng đắn. Văn bản thuyết minh không thể hư cấu, tưởng tượng hay bịa đặt mà phải phu hợp thực tế và khách quan. II – Luyện tập 1. Hai văn bản Khởi nghĩa Nông Văn Vân (1833-1835) và Con giun đất là văn bản thuyết minh .Văn bản cung cấp kiến thức lịch sử. Văn bản sau cung cấp kiến thức khoa học sinh vật. 2. Văn bản. Thông tin về ngày Trái Đất năm 2000 thuộc loại nhật dụng. Đây là một bài văn nghị luận đề xuất một hành động tích cực bảo vệ môi trường. Trong bài, đã sử dụng yếu tố thuyết minh nhằm nói rõ tác hại của bao bì nilông, làm cho đề nghị của mình có sức thuyết phục cao. 3. Các văn bản khác như tự sự, nghị luận, biểu cảm, miêu tả nhiều lúc cũng cần yếu tô thuyết minh để trình bày giới thiệu giải thích cho rõ thêm. I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN 38
- 1. Ngay từ nhan đề của văn bản: Ôn dịch, thuốc lá , tác giả dùng dấu phẩy để nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng và bức xúc của vấn đề. 2. So sánh việc chống hút thuốc lá với đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã tạo ra một ấn tượng mạnh trước khi tiến hành phân tích y học về tác hại của thuốc lá. Những kết quả nghiên cứu của y học trở thành hệ thống luận cứ rõ ràng, thuyết phục tuyệt đối 3. Như vậy bằng tình cảm nhiệt tình, sôi nổi, tác giả đã chỉ ra thuốc lá không chỉ ảnh hưởng đến người hút mà còn ảnh hưởng đến mọi người xung quanh. 4. Tác giả so sánh tình hình hút thuốc của nước ta với các nước Âu-Mĩ trước khi đưa ra kiến nghị là có nhiều mục đích: - Ta nghèo hơn nhưng lại "xài" thuốc lá tương đương với các nước đó. Đây là điều không thể chấp nhận. - Điều thứ hai là cho thấy các nước đã tiến hành những chiến dịch, thực hiện những biện pháp ngăn ngừa, hạn chế thuốc lá quyết liệt hơn ta. - Thứ ba, so sánh với nước họ, chúng ta còn quá nhiều bệnh dịch cần phải thanh toán. II. LUYỆN TẬP 1. - Lứa tuổi 20 – 25 tuổi. - Vui bạn, nể bạn 30%. - Bắt chước 60%. - Vì lịch sự, xã giao 10%. 2. Bản tin với nội dung ngắn gọn về cái chết của một người trẻ tuổi, con một gia đình tỉ phú ở Mỹ, đã để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc. Vì khối tài sản kếch xù được thừa kế từ gia đình, cậu thanh niên Ra-pha-en đã lao vào ăn chơi sa đọa. Như vậy, con người chỉ thực sự trân trọng những giá trị vật chất khi chính họ tạo dựng lên. Hãy giáo dục con cái hiểu về giá trị đồng tiền được làm ra bởi công sức lao động của chính họ. Đó là một thông điệp sâu sắc và rất ý nghĩa thông qua bản tin. I. QUAN HỆ Ý NGHĨA GIỮA CÁC VẾ CÂU GHÉP 1. - quan hệ nhân quả. 2. - Quan hệ nguyên nhân - Quan hệ tăng tiến - Quan hệ lựa chọn - Quan hệ giải thích 39
- II.LUYỆN TẬP 1. a) Quan hệ ý nghĩa giữa vế thứ nhất với vế thứ hai là quan hệ nguyên nhân (vế thứ nhất chỉ kết quả, vế thứ hai có từ V/ chỉ nguyên nhân). Quan hệ ý nghĩa giữa vế thứ hai và vế thứ ba là quan hệ giải thích (vế thứ ba sau dấu hai chấm giải thích cho những điều nêu ở vế thứ hai). b) Quan hệ ý nghĩa giữa vế thứ nhất với vế thứ hai là quan hệ điều kiện (vế có từ nếu chỉ điều kiện, vế không có từ nếu chỉ kết quả) c) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế là quan hệ tăng tiến (qua các quan hệ từ chẳng những mà ). d) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế là quan hệ tương phản (vế có từ tuy tương phán ý nghĩa với vế sau). e) Đoạn trích có hai câu ghép. Câu ghép thứ nhất, các vế câu có quan hệ nối tiếp. Cùu ghép thứ hai, các vế câu có quan hệ nguyên nhân (vế có từ yếu hơn chỉ nguyên nhân, vế sau chi kết quả) 2. a) Đoạn văn trong Biển đẹp của Vũ Tú Nam gốm có năm câu. Bốn câu sau đều là câu ghép. Đoạn văn cùa Thi Sảnh có ba câu, chỉ có câu thứ hai và câu thứ ba là câu ghép. b) Ở đoạn văn của Vũ Tú Nam, quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong các câu ghép đều là quan hệ điều kiện (vế đầu chỉ điều kiện, vế sau chi kết quả). Ở đoạn văn của Thi Sánh, quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu trong hai câu ghép là quan hệ nguyên nhân (vế đầu chỉ nguyên nhân, vế sau chỉ kết quả). c) Không nên tách mỗi vế câu trong những câu ghép ở trên thành những câu đơn, bởi vì mối quan hệ ý nghĩa giữa các vế trong các câu này rất chật chẽ. 3. Hai câu cuối của đoạn văn trên là hai câu ghép rất dài. Xét về mặt lập luận, mỗi câu ghép trình bày một việc mà lão Hạc nhờ ỏng giáo. Nếu tách mỗi vế câu trong từng câu ghép này thành một câu đơn thì sẽ không bảo đàm được tính mạch lạc của lập luận. Xét về giá trị biểu hiện, tác giả cố ý viết câu dài để diễn tả đúng cái sự kể lể “dài dòng” của lão Hạc. 4. a) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép thứ hai là quan hệ điều kiện. Nếu tách mỗi vế câu này thành một câu đơn thì sẽ phá vỡ mối quan hệ ý nghĩa nêu trên. b) Nếu tách các vế trong câu thứ nhất và thứ ba thành những câu đơn thì hàng loạt các câu đơn đặt cạnh nhau như vậy khiến chúng ta hình dung nhân vật (chị Dậu) nói nhát gừng hoặc nghẹn ngào, không gợi được cách nói kể lể, van vỉ thiết tha của nhân vật như cách viết của tác giả. I. TÌM HIỂU CÁC PHƯƠNG PHÁP THUYẾT MINH 1. Quan sát, học tập, tích lũy tri thức để làm bài văn thuyết minh a. Sử dụng những tri thức về tự nhiên (Địa lí, Sinh học, ); Những tri thức về xã hội (Văn hoá, Lịch sử, ). b.Mục đích của văn bản thuyết minh là tri thức, cơ sở của văn bản thuyết minh cũng là tri thức. c. Không thể chỉ sử dụng trí tưởng tượng, phán đoán, suy luận làm phương thức xây dựng văn bản thuyết minh. 40
- 2. Phương pháp thuyết minh a. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích Các câu trên đều có từ "là" - từ biểu thị nhận định mang tính định nghĩa, giải thích. - Phần vị ngữ sau từ "là" thường nêu những kiến thức khái quát về bản chất, đặc trưng, tính chất của đối tượng đứng trước từ "là". Trong văn bản thuyết minh, những loại câu văn định nghĩa, giải thích này đóng vai trò nêu vấn đề, đưa ra nội dung cần thuyết minh. b. Phương pháp liệt kê Gợi ý: Người viết đã sử dụng phương pháp liệt kê để kể ra lần lượt các biểu hiện của đối tượng theo trật tự từ lớn đến nhỏ (hoặc ngược lại), giúp người đọc nắm được đặc điểm, tính chất của sự vật, hiện tượng một cách cụ thể, sáng rõ. c. Phương pháp nêu ví dụ Gợi ý: Việc nêu ra ví dụ cụ thể về thái độ nghiêm khắc với những người hút thuốc lá nơi công cộng có tác dụng thuyết phục về ý thức giữ gìn sức khoẻ cộng đồng, đồng thời nhấn mạnh và kêu gọi mọi người nhìn nhận vấn đề thuốc lá một cách nghiêm túc. d. Phương pháp dùng số liệu Gợi ý: Các số liệu có ý nghĩa thuyết minh cho tầm quan trọng của thực vật nói chung, cỏ nói riêng một cách cụ thể, chân xác. Trong văn bản thuyết minh, nhất đối với lĩnh vực khoa học tự nhiên, các số liệu là cơ sở quan trọng để người viết thuyết minh về một vấn đề gì đó. Số liệu sử dụng trong văn bản thuyết minh phải có độ tin cậy cao, được chứng thực bằng phương pháp khoa học. e. Phương pháp so sánh Thuyết minh về độ rộng lớn của biển Thái Bình Dương, người viết đã tiến hành so sánh với các đại dương khác để giúp người đọc có được ấn tượng cụ thể về diện tích của nó. Phép so sánh có tác dụng làm nổi bật, cụ thể hoá đối tượng cần thuyết minh. g. Phương pháp phân loại, phân tích - Người ta áp dụng phương pháp này đối vớ sự vật đa dạng, nhiều cá thể để phân loại, trình bày rõ ràng. - Để trình bày các đặc điểm của thành phố Huế, người ta phải dùng phương pháp nhân loại, phân tích: + Trung tâm văn hóa, nghệ thuật. + Thiên nhiên Huế rất đẹp. + Các kiến trúc của Huế rất nổi tiếng. + Món ăn của Huế rất phong phú, đa dạng. + Huế đấu tranh kiên cường. + Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những thành phố anh hùng 41
- II.LUYỆN TẬP 1. - Tác hại của việc hút thuốc lá đối với người hút; - Tác hại của việc hút thuốc lá đối với cộng đồng; - Tỉ lệ hút thuốc lá ở Việt Nam so với các nước Âu - Mĩ; - Hút thuốc lá và hành vi văn hoá; - Việc chống hút thuốc lá ở các nước phát triển; - Thực trạng sức khoẻ cộng đồng ở Việt Nam. Nghĩa là, người viết phải mở rộng phạm vi tìm hiểu xung quanh vấn đề cần thuyết minh. 2. - So sánh. - Đối chiếu - Nêu số liệu - Phân tích từng tác hại. 3. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích: Ngã Ba Đồng Lộc là giao điểm - Phương pháp liệt kê: Liệt kê số tuổi đời của 10 cô gái và liệt kê số lượng những trận bom hằng ngày, nhiệm vụ của 10 cô gái lấp bom, số lần bị vùi lấp. 4. - Nhiều bạn học chưa tốt. - Nhiều bạn có điều kiện học tốt nhưng còn ham chơi. - Có bạn có cảnh gia đình khó khăn, thường bỏ học. - Có những bạn vốn kiến thức lớp dưới yếu, tiếp thu chậm. Đối với những nhóm học sinh đó nên có những phương pháp giúp đỡ khác nhau là hợp lí. I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN 1. - Phần 1:tác giả nêu ra vấn đề: bài toán dân số và kế hoạch hoá gia đình đã được đặt ra từ thời cổ đại; - Phần 2tác giả làm rõ vấn đề đã được nêu ra: Tốc độ gia tăng nhanh chóng của dân số thế giới. - Phần 3: kêu gọi loài người cần kiềm chế tốc độ gia tăng dân số. 2. Tác giả muốn nói: con người ngày càng nhiều lên gấp bội mà đất đai, diện tích thì vẫn thế. Chính vì sự sống của mình, con người buộc phải hạn chế sự gia tăng dân số. 42
- 3.Tốc độ gia tăng nhanh đến mức bùng nổ được cảnh báo bằng hình ảnh một lượng thóc khổng lồ "có thể phủ kín bề mặt Trái Đất" 4. - Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ theo thông báo của Hội nghị Cai-rô để mọi người thấy thực tế phụ nữ có thể sinh rất nhiều con. 5. Vì chính cuộc sống của chúng ta, hãy nhận thức đầy đủ về vấn đề dân số, cùng có trách nhiệm trong việc hạn chế sự gia tăng dân số. Đây chính là điều mà tác giả của bài viết mong muốn ở người đọc. II. LUYỆN TẬP 1. - Con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số là “đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ”. Bởi vì sinh đẻ là quyền của phụ nữ, không thể cấm đoán bằng mệnh lệnh và các biện pháp thô bạo. “Đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ là hạ thấp tỉ lệ thụ thai cũng như tỉ lệ tử vong và tỉ lệ mắc bệnh. Điều này cho thấy sự lựa chọn sinh đẻ là thuộc quyền của phụ nữ. Mà cái quyền này chỉ có thể là kết quả của việc giáo dục tốt hơn”. - Chỉ bằng con đường tuyên truyền, giáo dục mới giúp mọi người hiểu ra nguy cơ và tác hại của sự bùng nổ dân số: Vấn đề dân số gắn liền với đói nghèo hay no ấm hạnh phúc. 2. - Dân số gia tăng có tầm quan trọng hết sức to lớn đối với tương lai nhân loại, nhất là đối với các dân tộc nghèo nàn, lạc hậu vì: + Dân số phát triển quá nhanh ảnh hưởng nhiều đến con người ở các phương diện nhà ở, lương thực nuôi sống con người, môi trường chật hẹp, thiếu việc làm, giáo dục không kịp phát triển với đà tăng dân số. + Các nước còn nghèo nàn lạc hậu lại càng nghèo nàn lạc hậu hơn, vì hạn chế phát triển giáo dục. 3. - Dân số thế giới ở vào thời điểm 2000: 6.080.141.683 người. - Dân số thế giới ở vào thời điểm 30-9-2003: 6.320.815.650 người. - Từ năm 2000 đến 30-9-2003 số người trên thế giới đã tăng 241.673.967 người, gấp 3 lần số dân Việt Nam hiện nay. I. Dấu ngoặc đơn a. Đoạn văn Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc có ngoặc đơn để giải thích thêm cho "họ" là những người bản xứ. b. Thuyết minh thêm về một loại động vật mà tên của nó là "ba khía" nhằm giúp người đọc hình dung rõ hơn đặc điểm của con vật này. c. Phần trong dấu ngoặc đơn bổ sung thêm về năm sinh (701) và năm mất (762) của nhà thơ Lý Bạch và giới thiệu cho người đọc biết thêm Miên Châu thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Nếu bỏ phần trong ngoặc đơn thì nội dung vẫn không thay đổi. Vì khi người viết để trong ngoặc đơn thì họ đã coi đó là phần chú thích thêm, chứ không thuộc phần ý nghĩa cơ bản của câu hay đoạn trích. II. Dấu hai chấm 43
- a. Dùng để đánh dấu (báo trước) lời đối thoại của Dế Mèn và Dế Choắt. b. Dùng để đánh dấu (báo trước) lời dẫn trực tiếp (Thép Mới ) dẫn lại lời của người xưa. c. Dùng để đánh dấu phần giải thích lí do thay đổi tâm trạng của tác giả trong ngày đầu tiên đi học. III. Luyện tập Câu 1: Giải thích công dụng dấu ngoặc đơn: a. Đánh dấu phần giải thích ý nghĩa của các cụm từ "tiệt nhiên", "định phận tại thiên thư", "hành khan thủ bại hư". b. Đánh dấu phần thuyết minh nhằm giúp người đọc hiểu rõ trong 2290m chiều dài của cầu có tính cả phần câu dẫn. c. - dấu ngoặc đơn đánh dấu phần bổ sung: người viết hoặc là người nói. - Ở vị trí thứ hai, dấu ngoặc đơn đánh dấu phần thuyết minh để làm rõ những phương tiện ngôn ngữ ở đây là gì. Câu 2: Giải thích công dụng của dấu hai chấm. a. Đánh dấu (báo trước) phần giải thích cho ý: họ thách nặng quá. b. Đánh dáu (báo trước) lời đối thoại (của Dế Choắt với Dế Mèn) và phần thuyết minh nội dung mà Dế Choắt khuyên Dế Mèn. c. Đánh dấu (báo trước) phần thuyết minh cho ý: đủ màu là những màu nào. Câu 3: Có thể bỏ dấu hai chấm trong đoạn trích đã cho được. Tuy nhiên khi bỏ dấu hai chấm đi thì phần đứng sau không được nhấn mạnh nữa. Câu 4: a. Có thể thay dấu hai chấm bằng dấu ngoặc đơn được. Khi thay như vậy nghĩa của câu cơ bản không thay đổi b. Trả lời. Nếu viết lại "Phong Nha gồm: Động khô và Động nước" thì không thể thay dấu hai chấm bằng dấu ngoặc đơn. Vì trong câu này vế "Động khô và Động nước" không thể coi là thuộc phần chú thích. Chỉ trong những trường hợp bỏ phần do dấu hai chấm đánh dấu mà phần còn lại vẫn có sự hoàn chỉnh về nghĩa thì dấu hai chấm mới có thể thay được bằng ngoặc đơn. Câu 5: a. Bạn đó chép lại dấu ngoặc đơn là sai vì dấu ngoặc đơn (cũng như dấu ngoặc kép) bao giờ cũng được dùng thành cặp. b. Phần được đánh dấu bằng dấu ngoặc đơn không phải là bộ phận của câu. Câu 6: Chưa bao giờ vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình lại trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân loại như bây giờ. Sự bùng nổ dân số đã kéo theo nhiều hệ lụy: nghèo đói, lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, giáo dục không được đầu tư Nếu con người không nhanh chóng kiểm soát tỉ lệ sinh thì chẳng bao lâu nữa (theo Thái An trong bài "Bài toán dân số"): " mỗi con người trên trái đất này chỉ còn diện tích một hạt thóc". Và hạn chế gia tăng dân số là con đường tồn tại của chính loài người. 44
- I – Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh 1. Đề văn thuyết minh - Đối tượng: một tập truyện - Phạm vi kiến thức: tên tập truyện, xuất xứ (Nhà xuất bản nào, năm nào), hình thức trình bày (bìa, tranh ảnh, ), nội dung chính, ý nghĩa, có thể mua ở đâu, 2. Cách làm bài văn thuyết minh a. Bài văn thuyết minh về chiếc xe đạp. b. Bài văn có bố cục: 3 phần. - Phần Mở bài (hai câu đầu): giới thiệu khái quát về chiếc xe đạp. - Phần Thân bài (Tiếp theo cho đến "chỗ tay cầm"): giới thiệu các bộ phận cấu tạo của chiếc xe đạp. - Phần Kết bài: Khẳng định tiện ích của xe đạp, dự báo về vai trò của chiếc xe đạp trong tương lai. c. Bài văn trình bày nội dung theo trình tự các bộ phận của chiếc xe đạp: hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển, hệ thống chuyên chở, các bộ phận phụ khác. Các nội dung đưa ra cụ thể, rõ ràng, chính xác đến từng chi tiết nhỏ. d. Bài văn sử dụng các phương pháp: nêu định nghĩa; liệt kê; dùng số liệu; so sánh; phân loại, phân tích. III – Luyện tập Lập ý và dàn ý cho đề bài: “Giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam”. a. Mở bài: Chiếc nón lá Việt Nam là (nêu một định nghĩa về chiếc nón lá Việt Nam) b. Thân bài: - Giới thiệu khái quát chiếc nón: + Hình dáng, màu sắc; + Nguyên liệu làm nón + Cách làm, nơi làm (những nơi làm nón nổi tiếng: Huế, Quảng Bình, Hà Tây, ); + Các bộ phận của chiếc nón + Giá trị sử dụng của nón + Giá trị văn hoá của nón: trang điểm, quà tặng, biểu diễn nghệ thuật + Ý nghĩa biểu tượng của nón lá Việt Nam; c. Kết bài: - Cảm nghĩ của em về chiếc nón; - Cần giữ gìn nghề làm nón, nét đẹp văn hoá người Việt như thế nào? 45
- . Lập bảng danh sách các nhà văn, nhà thơ quê ở thành phố, tỉnh hoặc quận, huyện nơi em ở theo mẫu. Chú ý: Chỉ thống kê những tác giả có sáng tác được công bố trước năm 1975. Trả lời: Họ và tên Bút danh Năm sinh, năm mất Tác phẩm chính Nguyễn Tuân Nhất Lang, Thanh Thuỷ, Thanh Hà 1910 – 1987) - Vang bóng một thời (1933), - Sông Đà (1960), - Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972) Tô Hoài Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Hồng Hoa 1920 - 2014 - Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), - O chuột (1942), - Truyện Tây Bắc (1953) 2. Sưu tầm và chép trọn một bài thơ hoặc một bài văn (khoảng vài trang có thể là đoạn trích) mà em thấy hay viết về phong cảnh thiên nhiên, con người, sinh hoạt văn hóa, truyền thống lịch sử của quê hương em. Trả lời: Hồ Gươm Nhà tôi ở Hà Nội, cách Hồ Gươm không xa.Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục khổng lồ, sáng long lanh . Cầu Thê Húc màu son, cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn . Mái đền lấp ló bên gốc đa già, rễ lá xum xuê. Xa một chút là Tháp Rùa, tường rêu cổ kính . Tháp xây trên gò đất giữa hồ, cỏ mọc xanh um. Theo Ngô Quân Miện Hà Nội Hà Nội có chong chóng Cứ tự quay trong nhà Không cần trời thổi gió Không cần bạn chạy xa Hà Nội có nhiều hoa Bó từng chùm cẩn thận Mấy chú vào mua hoa Tươi cười ra mặt trận Hà Nội có Hồ Gươm Nước xanh như pha mực Bên hồ ngọn Tháp Bút Viết thơ lên trời cao 46
- Hà Nội có nhiều hào Bụng súng đầy những đạn Và có nhiều búp bê Bóng tròn cho các bạn Hà Nội có tàu điện Đi về cứ leng keng Người xuống và người lên Người nào trông cũng đẹp Mấy năm giặc bắn phá Ba Đình vẫn xanh cây I – Công dụng a. Dùng để đánh dấu lời dẫn trực tiếp (một câu nói của Găng-đi). b. Đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt, nghĩa được hình thành trên cơ sở phương thức ẩn dụ: dùng từ ngữ "dải lụa" để chỉ chiếc cầu (hình ảnh chiếc cầu trông như một dải lụa). c. Dùng từ ngữ có hàm ý mỉa mai. Đáng chú ý là tác giả dùng ngay từ ngữ mà thực dân Pháp thường dùng để nói về sự thống trị của chúng đối với Việt Nam: "khai hóa", "văn minh" cho một dân tộc lạc hậu. Vì vậy có thể coi dấu ngoặc kép trong đoạn trích được dùng để đánh dấu từ ngữ dẫn trực tiếp. d. Nhằm mục đích đánh dấu tên các vở kịch. II – Luyện tập Câu 1: Giải thích công dụng của dấu ngoặc kép trong những đoạn trích. a. Dùng để tách riêng lời nói trực tiếp. Ở đây, lời nói trực tiếp là lời của con chó vàng được lão Hạc tưởng tượng ra. b. Dùng đánh dấu từ ngữ được dùng với hàm ý mỉa mai: một anh chàng được coi là "hậu cận ông lí" mà bị người đàn bà có con mọn túm lấy lẳng nhào ra thềm. c. Dùng để đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp, dẫn lại lời của người khác. d. Dùng để đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp và có hàm ý mỉa mai. e. Đánh dấu từ ngữ được dẫn trực tiếp. "Mặt sắt", "ngây vì tình" được dẫn lại từ hai câu của Nguyên Du. Câu 2: a. Đặt hai dấu chấm sau "cười bảo" để đánh dấu / báo trước lời đối thoại. Dấu ngoặc kép ở "cá tươi" và "tươi" để đánh dấu từ ngữ được dẫn lại. b. Đặt dấu hai chấm sau "chú Tiến Lê" để đánh dấu (báo trước) lời dẫn trực tiếp. Đặt dấu ngoặc kép cho phần còn lại "Cháu hãy vẽ cái gì thân thuộc nhất với cháu" đánh dấu lời dẫn trực tiếp. Viết hoa chữ "cháu" vì là chữ mở đầu câu. 47
- c. Đặt dấu hai chấm sau "bảo hắn" để đánh dấu (báo trước) lời dẫn trực tiếp. Đặt dấu ngoặc kép cho phần còn lại "Đây là cái vườn không chịu bán đi một sào" để đánh dấu lời dẫn trực tiếp. Câu 3: Hai câu có ý nghĩa giống nhau mà lại dùng những dấu câu khác nhau, vì: a. Dùng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép để đánh dấu lời dẫn trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. b. Không dùng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép như ở trên vì câu nói không được dẫn nguyên văn (lời gián tiếp). Câu 4: "Người ta cấm hút thuốc lá ở những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (ở Bỉ từ năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm phạt 500 đô la). Khắp nơi, những tài liệu, khấu hiệu chống thuốc lá dần dần lấn át những quảng cáo của các hãng thuốc lá. Chỉ trong vài năm, chiến dịch chống thuốc lá này đã làm giản hẳn số người hút và người ta thấy triển vọng có thể nêu lên khẩu hiệu cho những năm cuối thế kỉ XX: "Một châu Âu không còn thuốc lá". - Dấu ngoặc đơn trên đây dùng để chú thích, giải thích, thuyết minh, bổ sung thêm hình phạt đối với những người hút thuốc lá ở nơi công cộng ở Bỉ. - Dấu hai chấm và dấu ngoặc kép để báo trước phần giải thích thuyết minh cho phần trước đó. (Triển vọng của châu Âu trong việc cấm hút thuốc lá). Lời giải chi tiết Đề bài: Thuyết minh cái phích nước. Gợi ý Bài nói cần nêu rõ được công dụng, cấu tạo, nguyên lí giữ nhiệt và cách bảo quản cái phích nước, thứ đồ dùng thường có trong mỗi gia đình chúng ta. Lưu ý quan sát và tìm hiểu những bộ phận tạo thành vật dụng này. Bộ phận quan trọng nhất của cái phích nước là ruột phích được cấu tạo để giữ nhiệt. Đó là hai lớp thủy tinh, ở giữa là chân không làm mất khả năng truyền nhiệt ra ngoài. Phía trong lớp thủy tinh người ta tráng một lớp thủy ngân mỏng CG tác dụng hắt nhiệt trở lại đế giữ nhiệt. Miệng phích nước bao giờ cũng nhỏ nhằm làm giảm khả năng truyền nhiệt. Nhờ đó cái phích nước trong vòng 6 tiếng đồng hồ nước từ 100 độ còn giữ được đến 70 độ. Vỏ phích thường làm bằng kim loại đế bảo quản ruột phích chắc chắn an toàn. Chú ý đừng đề phích ngã, rơi để khỏi vỡ. Để làm bài nói này, học sinh dự kiến dàn ý đủ cả ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Cũng nên lựa chọn trước các phương pháp thuyết minh phù hợp. Dàn ý: 1. Mở bài: Giới thiệu đối tượng thuyết minh 2. Thân bài - Lịch sử ra đời 48
- - Cấu tạo - Cách sử dụng - Cách bảo quản - Công dụng, ý nghĩa 3. Kết bài: Tổng kết vấn đề Bài làm Phích nước là đồ dùng để giữ nhiệt cho nước nóng, rất thông dụng và thường có trong mọi gia đình. Phích nước có rất nhiều loại được làm từ những vật liệu khác nhau, có cấu tạo và hình dáng khác nhau, về hình dáng phích nước thường có hình trụ, cao khoảng 35 - 40cm, giúp cho phích có thể đứng thẳng mà không bị đổ. Về cấu tạo: Phích nước được làm theo nguyên lý chống sự truyền nhiệt của nước, gồm hai bộ phận: ruột phích và vỏ phích. Ruột phích là bộ phận quan trọng nhất. Nó được làm bằng hai lớp thuỷ tinh. Ở giữa là môi trường chân không làm mất khả năng truyền nhiệt của nước ra ngoài, ở phía trong lòng và ngoài của ruột phích là lớp thuỷ tinh được tráng bạc có tác dụng hắt nhiệt trở lại để giữ nhiệt. Càng lên trên cao đầu phích, miệng phích càng nhỏ lại để giảm khả năng truyền nhiệt của nước. Gắn với chiếc miệng nhỏ nhắn là cái nút có thể làm bằng gỗ hoặc bằng nhựa cứng luôn vừa khớp với miệng phích để cản trở sự thoát hơi nước và sự đối lưu truyền nhiệt của nước. Ruột phích có hiệu quả giữ nhiệt cho nước rất tốt, trong vòng 6 tiếng đồng hồ, nước từ 100°c còn giữ được 70°c sẽ đảm bảo dùng nước được lâu và nước đủ nhiệt để pha chế trà, cà phê tạo nên một nét đẹp văn hoá vừa mang tính chất cổ truyền của dân tộc vừa mang một phong cách hiện đại còn gọi là nét văn hoá "cafe" đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì ruột phích được làm bằng hai lớp thuỷ tinh nên rất dễ vỡ. Vì vậy vỏ phích là lớp để bảo quản ruột phích như là một tấm bình phong, vỏ phích ngày xưa có thể làm bằng tre, mây, sắt, nhôm Ngày nay công nghiệp nhựa phát triển, vỏ phích cũng được thay thế dần bằng nhựa cứng vừa nhẹ, đẹp lại vừa bền và tốt. Gắn trên vỏ phích là một chiếc quai bằng nhựa, sắt tuỳ theo từng loại phích, chiếc quai đó có thể quay đi quay lại một cách dễ dàng giúp chúng ta có thể xách di chuyển đi chỗ khác mà không phải bưng bê. Trên chiếc nút phích là nắp phích, nó có chức năng năng bảo vệ nút phích không cho trò em nghịch ngợm gây bỏng nước nóng. Nút phích băng các lớp ren xoáy chặt với miệng phích. Chiếc nắp phích đó có thể lấy làm cốc đựng nước cũng được. Để bảo quản phích lâu hỏng ta nên làm một chiếc khung bằng gỗ để đặt phích và giữ chặt lấy phích. Đặt khuôn giữ phích ở nơi khô ráo, sạch sẽ, tránh nóng và xa tầm tay của trẻ em. Nếu để phích không đúng quy cách có thể gây tai nạn bỏng nặng vì phích giữ nhiệt cho nước sôi khá lâu. Điều quan trọng nhất nhất là ta phải giữ gìn chiếc nũm phích, vì nũm phích để giữ khoảng chân không góp phần làm giảm khả năng truyền nhiệt của nước. Chúng ta nên lưu ý khi rót nước nóng vào phích phải rót từ từ để ruột phích dễ thích nghi với nhiệt độ cao thì phích sẽ lâu hỏng hơn khi chúng ta không làm như vậy. Khi rót nước xong phải đậy nút phích cẩn thận. Đối với nút phích bằng nhựa thì phải xoáy đúng ren, xoáy thật chặt, còn với nút phích bằng gỗ ta cũng phải đậy cho vừa khít để nước nóng được lâu. Nếu chúng ta không làm đúng cách thì ruột phích sẽ chóng hỏng vì không khí bên ngoài xâm nhập vào ruột phích. Phích nước là một đồ dùng rất tiện lợi cho cuộc sống hàng ngày trong mỗi gia đình. Nó như người bạn thân trong mỗi gia đình. Sáng sớm, bác nông dân mang phích nước nóng ra đồng, pha ấm trà nóng rít điếu thuốc lào khi đã cày xong thửa ruộng thì sảng khoái biết bao. Khách đến chơi nhà không phải "đốt than quạt nước" vì đã có phích ủ 49
- sẵn nước nóng pha trà mời khách rồi Như vậy có thể nói: Phích nước đã góp phần tạo nên một nét đẹp văn hoá ở Việt Nam. Đề 1. Thuyết minh về kính đeo mắt. Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc, những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy. Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mất bởi kính, có rất nhiều loại và rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần Đối với người làm những công việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao, kính lại giúp mắt họ tránh khỏi nước, tuyết, gió, bụi, Những người không bị bệnh về mắt, không có những hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn thuần. Giá trị thẩm mĩ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc. Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt. Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính - tròng kính - thì không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít Chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để neo giữ các bộ phận của chiếc kính. Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành. Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ. Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng. Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước Trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm 1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng. Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoáng thời gian giữa năm 1266 và 1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu, sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước Ý và miền nam nước Đức - là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm. 50