Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Đề: Thuyết minh về cây lúa

doc 8 trang Hoài Anh 17/05/2022 4782
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Đề: Thuyết minh về cây lúa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docon_tap_mon_ngu_van_lop_9_de_thuyet_minh_ve_cay_lua.doc

Nội dung text: Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Đề: Thuyết minh về cây lúa

  1. THUYẾT MINH VỀ CÂY LÚA DÀN Ý: I. Mở bài: giới thiệu cây lúa Việt Nam Gợi ý thơ về cây lúa: “Chiều về ngắm cảnh đồng quê Mênh mông cò lượn bốn bề xốn xang Một màu thảm lúa dát vàng Bồi hồi hoài niệm những trang sách đời” “Thương lắm chân tình cây lúa lại đơm bông Nhắn gởi yêu thương trong lòng người xa xứ Mỏi gót phong sương trên bước đường lữ thứ Xin hãy quay về nơi đất mẹ còn trông ” “Trời mưa cho lúa thêm bông Cho đồng thêm cá, cho sông thêm thuyền” II. Thân bài: Thuyết minh về cây lúa Việt Nam 1. Khái quát nguồn gốc cây lúa: - Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với bắp, lúa mì, khoai mì và khoai tây. Cây lúa là cây lương thực quan trọng của người dân Việt Nam. Cây lúa có vai trò rất quan trọng đối với người nông dân. - Cây lúa nước xuất phát đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam có thể là nơi đầu tiên thuần hóa được loài cây này. Với điều kiện khí hậu nóng ẩm quanh năm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa, ngành lúa nước ở Việt Nam từ lâu đã rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu sớm nhất. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc và đi khắp thế giới. Đến thế kỉ 18, người Tây Ban Nha đã đem các giống lúa nước gieo trồng ở Nam Mỹ. 2. Chi tiết về cây lúa: - Đặc điểm, hình dạng, kích thước của cây lúa: • Đặc điểm: cây lúa có thân mềm, cây lúa sống cần có nước, cần có sự chăm sóc, . • Hình dạng: cây lúa dài, thân mềm và có lá nhọn, • Kích thước: cây lúa cao khoảng 50cm và rất nhỏ, • Thân lúa gồm nhiều mắt và lóng như các loài cỏ khác. Chỉ vài lóng ở ngọn dài ra, số còn lại ngắn và dày đặc. Lúc nhỏ là thân lá. Khi lớn lên lóng mới dài ra. Lóng trên cũng dài nhất. Từ những mắt lóng sẽ đẻ ra nhánh lúa. Thân lúa được bao bọc bởi lá lúa.
  2. • Lá lúa điển hình gồm: bẹ lá, phiến lá, lá thìa và tai lá. Phiến lá mỏng, dẹp và có nhiều lông rậm. Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắt thân. Mỗi cây lúa trưởng thành thường có từ 12 đến 18 lá. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp chất dinh dưỡng nuôi cây. Khi còn phát triển lá có màu xanh lục. Khi chín lá lúa chuyển sang màu vàng. - Cách trồng lúa: • Trước tiên phải chọn lúa, hạt thật chắc không bị sâu • Sau đó ngâm lúa và ủ lúa để cho lúa lên mộng • Sau đó đem vải lúa ngoài đồng • Khi lúa đã lên cây thì cần đủ nước, đủ phân và công sức thì cây lúa mới có thể phát triển. 3. Phân loại: Lúc ban đầu, lúa nước chỉ có vài loại cơ bản bao gồm giống lúa ưa cạn và giống lúa ưu nước. Giống lúa ưa cạn là giống lúa có thể phát triển ở vùng đất xốp không ngập nước. Nhưng nếu có ngập nước, giống lúa này vẫn phát triển tốt. Ngày nay, các tộc người thiểu số vẫn còn lưu giữ các giống lúa này. Giống lúa ưa nước là giống lúa được gieo trồng trên các vùng đất có nước ngập thường xuyên. Cây lúa phát triển tốt khi có nước ngâm ở chân.Với trình độ phát triên cao của khoa học, nhờ công nghệ lại tạo, người ta đã lai tạo được nhiều giống lúa mới có chất lượng gạo cao, dẻo, thơm, dễ gieo trồng, ngắn hạn và cho năng xuất cao. 4 . Vai trò của lúa: • Lúa dùng để bán lấy tiền • Lúa có thể làm ra gạo dể chúng ta ăn • Lúa có thể xuất khẩu • Lúa tăng thu nhập • Lúa có thể làm nhiều món ăn khác nhau. • Lúa đi vào thơ ca, văn học nghệ thuật, là biểu tượng của đất nước Việt Nam. “Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn” “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẽo thơm một hạt đắng cay muôn phần” (Gợi ý thêm: Đối với người dân Việt Nam từ ngàn đời nay, cây lúa đã là một phần không thể thiếu trong văn hóa đất Việt, không chỉ đem lại sự ấm no đủ đầy mà nó còn trở thành một nét đẹp của bức tranh đất nước Việt bây giờ và mãi mãi, để nói lên được hình ảnh các người nông dân đã cần cù mộc mạc chân chất như thế nào. Là một loại lương thực chính của bữa cơm làng Việt
  3. nói riêng và Châu Á nói chung, ngay cả lẫn vào trong sự sang trọng của các nhà hàng cũng không thể thiếu hình ảnh chén cơm này. Đây còn là một dấu mốc chắc chắn về truyền thống văn hóa tốt đẹp nên gìn giữ và phát triển hơn nữa. Nếu như khi xưa nó chỉ đem lại sự ấm no cho một gia đình thì việc xuất khẩu gạo bây giờ còn góp phần làm giàu thêm cho đất nước. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật nên ngày càng làm cho nguồn gen của giống lúa trồng thêm phong phú và đa dạng hơn). III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về cây lúa Việt Nam THUYẾT MINH CÂY TRE ▪ Mở bài: Từ lâu, cây tre đã xuất hiện trong cuộc sống của con người Việt Nam. Cây tre đã sống gắn bó và đem lại nhiều lợi ích mà ít có loài cây nào sánh kịp. Đối với con người Việt Nam, cây tre là biểu tượng cho sự cần mẫn, đức hi sinh, tinh thần đoàn kết bất diệt. Tre sống và chiến đấu cùng con người, tre ăn đời ở kiếp với con người, tre đi vào đời sống tinh thần, làm nên nét văn hóa làng quê đậm đà bản sắc dân tộc trong mấy nghìn năm qua. (Thuyết minh cây tre Việt Nam) ▪ Thân bài: Nguồn gốc cây tre Cây tre thuộc bộ hòa thảo, lớp thực vật hai lá mầm, tông tre. Cây tre vừa mang đặc tính của loài cây thân cỏ (thân rỗng), vừa mang đặc tính của các loài cây thân gỗ (thân cao). Cây tre được tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới. Phổ biến nhất là các nước nhiệt đới, vùng xích đạo và các khu vực cận xích đạo. Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Lào, Thái Lan, là những nước trồng nhiều tre. Phân loại Việc phân loại các loài tre khá phức tạp bởi số lượng loài được phát hiện là rất lớn. Đến nay, trên thế giwois người ta đã phát hiện khoảng 1300 loài thuộc 70 chi. vẫn còn rất nhiều loại được cho là có quan hệ họ hàng với tre chưa được đặt tên và nhiều loài khác chưa được phát hiện. Nước trồng nhiều tre nhất thế giới là Trung Quốc. Đặc điểm hình dáng, sinh thái - Khác với các loài cây thân cỏ, cây tre tỏ ra vượt trội về chiều cao và tuổi thọ. Một cây tre trưởng thành có thể cao từ 10 đến 20 mét. Về cơ bản, cây tre cũng có cấu tạo hình
  4. dáng bên ngoài và đặc điểm sinh trương, phát triển giống như các loài thân cỏ khác. Quan sát một cây tre ta thấy gồm: Gốc rễ, thân ngầm, thân chính, cành, lá, hoa, quả. - Dưới gốc cây là thân ngầm. Thân ngầm đặc, thường nằm trong đất, là cơ quan phát rễ, có chức năng giữ cho cây đứng vững và cũng là cơ quan sinh sản của cây. Trên thân ngầm thường mọc lên các chồi măng. Măng tre là cây con phát triển, bên trông mềm, bên ngoài được bọc một lớp áo vỏ cứng. Lá cẩm lớp vỏ ấy khi bóc ra được gọi là mo. Măng tre có hình nhọn, thường phát triển rất nhanh. - Thân ngầm của cây tre thường nằm trong đất, đôi khi cũng trồi lên. Thân ngầm là nơi phát triển của bộ rễ và những mầm măng. Thân ngầm đặc, rất cứng, giúp cây đứng vững. Trên thân ngầm là thân chính. Thân chính của cây tre có nhiều lóng rỗng và đốt đặc. Thân tre to ở gốc và nhỏ dần ở ngọn. Mỗi lóng tre dài khoảng 40 đến 60cm. Một số loài có đốt ngắn hơn như le, tre gai, Tuy nhiên có loài có lóng dài đến 120cm như trúc xanh, giang, nứa, lồ ô, Tại các lóng tre có rễ giả. Bộ rễ giả này nếu gặp điều kiện ẩm ướt sẽ phát triển thành rễ tre. Thế nên, người ta thường hay giâm cành để tạo vường ươm mới. - Đốt tre đặc mang chồi, có vòng mo và vòng đốt. Lóng và đốt khi non được mo thân che phủ. Khi già mo rụng đi, để lại dấu vết của mo thân, đó chính là vòng mo. Tại các mấu mắt phát triển cành tre. Cành nhánh hướng về phía trên, đều mang lá. - Lá và bẹ lá là cơ quan quan trọng của quá trình quang hợp. Lá tre thon nhỏ, thô cứng thường rụng sau một thời gian phát triển. Mo tre là cơ quan bẹ lá, sau rụng đi hoặc bám chạ vào thân tre. Mỗi năm, tre thay lá rất nhiều lần, đặc biệt vào mùa khô tre có thể rụng hết lá để tránh bị thoát nước. Vai trò, lợi ích, ý nghĩa cây tre trong đời sống con người - Cây tre là một vật dụng xây dựng rất hữu ích và tiết kiệm. Tre dựng nhà, xây cửa, làm cầu, chắn sóng, Lạt tre buộc chặt kết nối các vật với nhau không gì sánh bằng. Trên đan liếp, nông bồ, phên giậu che chắn cho không gian sống của con người. Tre làm hàng rào bảo vệ vườn cây, ao cá, ruộng đồng. Cây tre làm sào phơi đồ, mái chèo tre lướt sóng, thuyền tre bồng bềnh trên sông phản ánh sâu sắc sức mạnh khai thác tự nhiên của con người trong công cuộc chinh phục vĩ đại. - Măng tre vốn là một loại thực phẩm ưa thích của nhiều người Việt Nam. Món ăn từ măng tre đơn giản, dễ chế biến. Tuy không mang lại nhiều dinh dưỡng cho người dùng như nó làm cho bữa ăn thêm đậm đà, ý vị. - Cây tre cũng là nguyên liệu của ngành thủ công mỹ nghệ và các nông cụ sản xuất. Những phẩm vật được làm từ nan tre, cây tre nhiều không sao kể xiết. Từ cái cày, cái thúng, cái ghế, cái giường, cho đến những đồ vật làm đẹp không gian như gáo tre, nón tre, đèn lồng tre, kệ tre, Chiếc đũa tre bao đời đã gắn bó với người nông dân trong những bữa cơm gia đình đầm ấm tạo nên nét đẹp văn hóa thuần Việt hết sức độc đáo.
  5. - Hình ảnh cây tre còn gắn với lịch sử vĩ đại của dân tộc. Từ truyền thuyết Thánh Giống nhổ cụm tre đánh giặc đến sự kiện Ngô Quyền đóng cọc tre phá tan thủy quân Nam Hán đã làm nên những trang sử hào hùng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cây tre cũng góp một phần lớn làm nên chiến thắng hào hùng. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre xung phong vào trận mạc, anh dũng chiến đấu chống giặc. Ụ tre lật đổ xe tăng. Lũy tre chống đạn, che chắn nhân dân, gậy tre giúp chiến sĩ vượt đường xa, Có thể nói, chưa bao giờ tre thôi gắn bó với con người trên từng bước đường gian khổ. - Cũng giống như hình ảnh cây đa, bến nước, cây tre cũng đi vào đời sống con người như một người bạn chân tình, hồn hậu. Tre đi vào thi ca, nhạc, họa với tư thế vừa mềm mại, vừa kiêu hãnh, biểu trưng cho phẩm chất anh hùng và ý chí bất khuất của dân tộc. - Thơ về cây tre: “Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi? Ở đâu tre cũng xanh tươi Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu” “Măng non mọc giữa bờ tre Nắng mưa có mẹ chở che tháng ngày. Tre già chẳng quản khô gầy, Chắt chiu mầu mỡ đủ đầy nuôi con” “Tre xanh bạn với muôn nhà, Giúp đời giúp nước xông pha thân mình. Làng quê xanh luỹ tre xanh, Điểm tô cuộc sống yên lành tháng năm”. Cách trồng và chăm sóc - Muốn trồng tre trước hết phải chọn giống tre phù hợp với nhu cầu sử dụng. Cây con để trồng là cành chiết hoặc giâm hom. Có thể trồng cây tre quanh năm, tốt nhất là vào đầu mùa mưa để cây mới trồng sinh trưởng thuận lợi. - Trồng cây tre gần như không cần đầu tư nhiều. Cây tre thích hợp với nhiều điều kiện khí hậu, bộ rễ phát triển và ăn sâu, thích hợp với các loại đất, có khả năng chịu hạn và úng, trồng được ở nhiều nơi từ miền núi cao đến vùng đồng bằng. - Khi cây tre đã bén rễ ta cần tưới nước vào mùa khô để cây phát triển tốt. Khi cây lớn phải thường xuyên dọn cành để bụi tre thông thoáng, tránh sâu bọ giúp cây phát triển tốt. Kết bài: Ở các nước Đông Á, nơi được coi là quê hương của cây tre, đang có xu hướng quay trở lại sử dụng loại vật liệu có nhiều đặc tính quý báu này trong mọi mặt của đời
  6. sống. Dù ngày nay, nền công nghiệp phát triển cao nhưng mãi mãi, cây tre vẫn giữ vững vai trò của mình trong đời sống con người. Càng phát triển con người có xu hướng tìm về với các giá trị tự nhiên nguyên thể, có ý nghĩa bảo vệ và phát triển môi trường sống ngày càng thân thiện, bền vững như đất mẹ đã ban tặng. THUYẾT MINH CON LỢN Bài mẫu "Ba bà đi bán lợn con Bán đi chẳng được lon ton chạy về Ba bà đi bán lợn sề Bán đi chẳng được chạy về lon ton" Từ xa xưa, lợn là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam, nó là nét đặc trưng của vùng quê lam lũ, con vật hiền lành và được nuôi phổ biến trong những hộ gia đình. Nó đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó. Con lợn hay con heo là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa, con lợn cũng được cọi với nhiều tên như con heo, chú ỉn, trư, hợi. Trong văn hóa phương Đông, lợn đứng cuối cùng trong 12 con giáp (Hợi) và cũng đứng cuối cùng trong lục súc. Lợn được thuần hóa từ lợn rừng. Trước đây, các nhà khảo cổ học dựa vào những di chỉ khảo cổ đã cho rằng lợn được thuần hóa vào khoảng 9000 năm về trước ở vùng mà ngày nay thuộc miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ hoặc cùng khoảng thời gian này tại Trung Quốc. Ở một số nước phát triển và đang phát triển, lợn thuần hóa là loài bản địa thường được nuôi thả ngoài trời hoặc trong chuồng. Ở các quốc gia công nghiệp nuôi lợn thuần hóa được chuyển từ việc nuôi chuồng trại truyền thống sang hình thức nuôi công nghiệp. Cho đến ngày này, lợn càng ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở thành con vật nuôi quen thuộc trong mỗi gia đình làng quê Việt Nam. Ở Việt Nam ngày nay có rất nhiều giống lợn phổ biến như lợn ỉn, lợn xề, lợn máng, lợn cắp nách, Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triện mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Toàn thân màu đen, chân ngắn, bụng sệ khiến cho lưng lúc nào cũng võng xuống trông rất nặng nề khó di chuyển. Lợn ỉ sau bảy, tám tháng nuôi, lúc trưởng thành nặng khoảng sáu, bảy mươi ki lô gam. Mỗi lứa lợn có thể đẻ tới hàng chục con. Mỗi con sinh ra nhỏ nhắn khoảng ba, bốn ki lô gam, thường có màu hồng trông rất đẹp. Những con lợn nằm thành từng đàn nung núc vây quanh mẹ. Đôi mắt lợn tròn, to đen, cái miệng dài khi ăn thức ăn thì nó sục vào máng húp tạo ra tiếng kêu rất to. Trong ngành chăn nuôi gia súc, lợn là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi như: lợn ỉn, lợn xề, lợn máng, lợn cắp nách, Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triện mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng có thân màu đen , hoặc đen khoang trắng, lông chúng thưa, mõm ngắn, bụng sệ khiến lưng của chúng cũng võng xuống theo, có bốn chân nhỏ và thấp chính vì thế mà chúng di chuyển khá chậm chạp, ì ạch và nặng nhọc. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60-70 ki lô. Khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoắc tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.
  7. Lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối. Chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ , đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ, chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng , dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung. Trong các gia đình nông thôn, thường hộ nuôi hai lứa lợn, mỗi lứa dăm chục con, không chỉ nuôi láy thịt, phân của chúng còn được tận dụng bón cho cây trồng. Ngoài lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc như : lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ , mõm dài ,lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán. Hiện nay , khi Việt Nam càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới , quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân. Ví dụ như giống lợn Y-óoc-sai của nước Anh, chúng có thân trắng hồng, lông mượt, đầu nhỏ và hai tai dựng, thân dài bụng thon gọn và bốn chân cao. Trọng lượng của một con lợn trưởng thành có thể lên tới 100 ki lô, cơ thể khá săn chắc do quy cách chăn nuôi được nâng cao và đổi mới. Giống lợn này hiện nay hầu như đáp ứng nhu cầu của mọi người tiêu dùng trên thị trường, Từ thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như: Thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng, Hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết, Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam. Trong văn hóa dân gian Việt Nam, con lợn được thể hiện qua các bức tranh dân gian Đông Hồ, hình ảnh con lợn hiện hữu trên tấm lịch tường gia đình để thiể hiện sự sung mãn, phồn thực, vui vẻ hạnh phúc. Con lợn trong quan niệm văn hóa cổ truyền thuộc dòng Âm ôn hòa nhã nhặn, sinh nở đầy đàn nên yếu tố phồn thực được đề cao trong loại tranh dân gian, chúc tụng năm mới gặp nhiều may mắn, con cháu đông vui, phúc lộc. Trư Bát Giới là nhân vật mang tính cách phát triển và phức tạp. Bát Giới có hình hài như một quái vật gớm ghiếc, "nửa lợn, nửa người" Tên gọi khác của Bát Giới là Trư Ngộ Năng do Quan Thế Âm Bồ Tát đặt cho nghĩa là: "con lợn (tái sinh) nhận ra, ngộ ra khả năng của mình" để ám chỉ việc Bát Giới luôn tự đánh giá mình quá cao mà quên mất mình mang một hình hài kinh khủng.Bức tranh lợn đàn là biểu tượng của sự sung túc, no đủ. Có rất nhiều bài ca dao có sử dụng hình ảnh con lợn: “"Yêu nhau chả lấy được nhau Con lợn bỏ đói buồng cau bỏ già Bao giờ sum họp một nhà Con lợn lại béo cau già lại non."
  8. “Nuôi heo thì phải vớt bèo Lấy vợ thì phải nợp cheo cho làng Lựa được một con dâu sâu con mắt Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng”. "Con gà cục tác lá chanh Con lợn ụt ịt (ủn ỉn) mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi Bà (Mẹ) ơi đi chợ mua tôi đồng riềng" Lợn là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người , gắn bó thân thiết với người nông dân , gắn bó với xóm làng, vườn tược , quê hương Việt Nam.