Sổ tay văn học – Phương pháp ôn văn thông minh thời 4.0 - Ngữ văn Lớp 11

pdf 97 trang thaodu 5931
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sổ tay văn học – Phương pháp ôn văn thông minh thời 4.0 - Ngữ văn Lớp 11", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfso_tay_van_hoc_phuong_phap_on_van_thong_minh_thoi_4_0_ngu_va.pdf

Nội dung text: Sổ tay văn học – Phương pháp ôn văn thông minh thời 4.0 - Ngữ văn Lớp 11

  1. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 SỔ TAY VĂN HỌC CUỐN SÁCH NÀY CỦA: NGỮ VĂN 11 | 1
  2. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 MỤC LỤC Vội vàng. 3 Tràng giang. 33 Đây thôn Vĩ Dạ 54 Chiều tối. 76 Từ ấy. 85 NGỮ VĂN 11 | 2
  3. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 VỘI VÀNG – XUÂN DIỆU CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP BÀI TẬP SỐ 1 ĐỀ BÀI: Phân tích đoạn 1 (1-13) bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “ Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, những quan điểm sống mới mẻ và những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Xuân Diệu cũng là cây bút có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Nổi bật trong các sáng tác của ông là đoạn đầu bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ Thơ ( 1938) nói về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, đắm say. “ Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” Ước muốn táo bạo, muốn đoạt quyền tạo hóa cuả thì sĩ được thể hiện rất rõ ở bốn câu thơ đầu tiên: “ Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Mở đầu bài thơ Xuân Diệu đã bắt đầu bằng một thể thơ năm chữ tạo nên sự độc đáo, mới mẻ thể hiện rõ sự dồn nén cảm xúc. Điệp ngữ “ tôi muốn” được lặp đi lặp lại hai lần ở đầu câu thơ đã chia đoạn thơ thành hai cặp câu với những ước muốn rất cụ thể mà ngông cuồng: nhà thơ muốn “ tắt nắng” và “ buộc gió”. Thoạt đầu, ta nghe thấy thật phi lí bởi làm sao có thể tác động đến những sự vật vô hình như thế? Huống hồ, nắng vốn đẹp, vốn sáng, gió vốn mát vốn nhẹ, toàn những thứ làm đẹp thêm cho cuộc sống vậy mà thi sĩ lại muốn “ tắt”, muốn “ buộc” lại. Phải chăng, Xuân Diệu NGỮ VĂN 11 | 3
  4. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 cũng giống Chế Lan Viên muốn “ Chán nẻo xuân sang” để giam giữ tâm hồn mình trong tháp ngà văn chương? Nhưng khi đọc đến câu thơ thứ hai và câu thơ thứ tư, ta mới hiểu ước muốn muốn đoạt quyền tạo hóa của thi sĩ lại chân thành đến tội nghiệp. Nhà thơ muốn “ tắt nắng” để màu đừng nhạt, để những gam màu của cuộc sống không bị phai nhạt đi và “ buộc gió” để giữ cho hương đừng bay, để hương thơm của cuộc sống vẫn được lưu giữ cùng với các từ “ đừng”, “ cho” như một lời cầu xin, khẩn khoản, cầu xin tạo hóa hãy dừng lại bản năng vô biên để cuộc sống luôn tươi đẹp. Điều đó đã cho thấy Xuân Diệu muốn vĩnh viễn hóa hương sắc của cuộc đời, ước muốn táo bạo, ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vì sao con người lại có ước muốn ngông ngạo như vậy? Phải chăng thi nhân phát hiện ra rằng thiên đường không ở đâu xa mà luôn ngự trị trên mặt đất: “ Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” Điệp ngữ này đây được lặp đi lặp lại nhiều lần trong năm câu thơ cùng với thủ pháp liệt kê “ong bướm”, “ hoa”, “ lá”, “ yến anh”, đã mở ra một thế giới tràn đầy xuân tình như một bàn tiệc đầy màu sắc mà ở đó tất cả dường như thừa thải thể hiện sự phong phú và bất tận của thiên nhiên như đang phơi bày ra trước mắt, quyến rũ tạo vật. “ Của ong bướm này đây tuần tháng mật” “ Tuần tháng mật” là mật ngọt của thiên nhiên hoa trái nhưng nó cũng gợi lên một tuần trăng mật ngọt ngào, hạnh phúc. Vào mùa xuân, ong bướm rập rờn hút mật tìm hoa vì đó là khoảng thời gian đẹp nhất của năm. Xuân Diệu vốn là ông hoàng thơ tình yêu nên vạn vật trong con mắt thi sĩ lúc nào cũng có sự tương giao, lúc nào cũng được nhìn qua đôi mắt “ xanh non”, “ biếc rờn” để thấy chúng ngọt ngào. Thiên nhiên đang chìm trong ái tình hay cái tôi cá nhân đang cuồng si trong mảnh vườn tình ái, thấy nó quyến rũ chẳng khác gì người tình mong đợi. “ Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất” Bức tranh với những hoa đồng nội, lá non búp nõn là sự mượt mà căng tràn nhựa sống. Trên nền màu xanh của đồng nội “ xanh rì” muôn màu muôn sắc. Hình ảnh “ cành tơ phơ phất” gợi lên trạng thái mềm mại, lay động nhẹ nhàng của cây lá trước gió xuân. Những bông hoa bé nhỏ, những cành lá nõn nà, chồi non đã bắt đầu nở càng khiến con người ôm ấp, nhẹ nhàng, trân trọng. “ Của yến anh này đây khúc tình si” Không chỉ mở ra một thế giới đầy màu sắc, mảnh vườn xuân còn vang vọng tiếng chim ca. “ Yến – anh” là những loài chim biểu tượng cho tình yêu lứa đôi, chim chóc cũng đang vang vọng lên tiếng ca gọi bầy, cũng là khúc tình si mê đắm của lứa đôi. Đất trời vạn vật vào mùa xuân đều có đôi có cặp, Xuân Diệu để mở rộng cả tâm hồn và trái tim của mình để “lắng nghe tiếng đời lăn náo nức” đang phơi bày trước mắt. Nhưng đó còn là cái tôi ham hố khi muốn ôm trọn cả cả sự sống tươi ròng, biếc rờn trong vòng tay. “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” NGỮ VĂN 11 | 4
  5. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Trong thơ xưa thiên nhiên là chuẩn mực của con người. Cái đẹp của con người luôn được so sánh với các tuyệt mỹ của tự nhiên. Nhưng với Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” ông lại coi con người là chuẩn mực của cái đẹp. Vạn vật dù có đẹp bao nhiêu thì cũng chỉ là thứ vô tri, vô giác. Ánh sáng bình minh tràn đầy sức sống được tạo ra từ cái chớp mắt trên hàng mi của người thiếu nữ. Trong niềm vui ấy, thi nhân có sự liên tưởng bất ngờ, thú vị: “Mỗi buổi sớm thân vui hàng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Có lẽ trong suy nghĩ của con người “thần vui” luôn là vị thần mang đến niềm vui cho mọi nhà. Cái tôi thi sĩ bồn chồn, mong chờ đến ngày mới và vui mừng khôn xiết khi ngày mới đã sang. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” “Tháng giêng” là khởi đầu cho mùa xuân khi đất trời thấy chiếc áo mới để khoác lên mình nó vẻ “xanh non”, “biếc rờn” và có lẽ chính sự non tơ, mơn mởn ấy đã khiến thi nhân cảm nhận bằng so sánh táo bạo, độc đáo. Lấy cái vô hình là thời gian để so sánh với cái hữu hình là đôi môi. “Cặp môi” là dấu vết của người tình, “gần” là khoảng cách đủ xa cho những mong đợi, khát khao. Mùa xuân đẹp, mang cảm giác ái ân tình tứ khiến nhà thơ đợi chờ. Điều đó đã làm nổi bật quan niệm mới hết sức hiện đại và mới mẻ của Xuân Diệu: xem mùa xuân là giai nhân, thi sĩ là tình nhân. Xuân Diệu đã lấy vẻ đẹp của con người làm vẻ đẹp cho thiên nhiên, chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Thế nhưng bên cạnh những phút giây mê đắm là tâm trạng vội vàng, giục giã: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” Câu thơ với nhịp ngắt đột ngột, kết cấu đối lập tương phản với hai trạng thái khác nhau trong cảm xúc: một bên là sung sướng say mê, niềm vui dâng trào, một bên là sự vội vàng, lo lắng, cuống quýt. Dấu chấm giữa câu thơ chia đôi trạng thái tình cảm: trước cụm từ “tôi sung sướng” là mảnh vườn đầy ái ân, còn sau đó là những dồn dập của vội vàng. Làm sao mà không vội vàng cho được, làm sao mà nắng hạ phải tiếc xuân qua? Phải chăng tiếc xuân khi xuân đang ở độ đẹp nhất, đang rực rỡ, tươi đẹp bởi một phút giây thời gian qua là xuân đã tàn phai một khoảnh khắc rồi. Người ta hay nhớ tiếc những gì vì cho rằng quá khứ đẹp và không thể quay trở lại mà không biết rằng hiện tại là đáng quý. Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông không quan niệm về thời gian theo lối cổ của thơ văn trung đại mà ông luôn có quan điểm mới về thời gian cho mình. Xuân Diệu nhận ra một hiện thực mùa xuân trở lại đồng nghĩa với tuổi xuân vĩnh viễn ra đi, mùa xuân trở lại những tuổi xuân không bao giờ trở lại. Nhà thơ cũng có cảm nhận vạn vật cũng có những cảm xúc như con người, cũng biết buồn đau, nuối tiếc cho sự chia li, trắc trở “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Không chỉ có quan niệm mới mẻ về thời gian, Xuân Diệu cũng bày tỏ quan niệm sống của chính mình, Xuân Diệu tự nhận thức thời gian qua nhanh nên nhà thơ đã tự giục giã. Qua đó còn hiện lên một bức tranh xuân tươi mới, đầy sức sống, đầy hương sắc như một thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung, tình tứ, quyến rũ, gợi cảm. Từ đó ta có thể hiểu quan niệm sống của Xuân Diệu là muốn chạy đua với thời gian để tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan. Đây là quan niệm nhân sinh hết sức mới mẻ của Xuân Diệu. NGỮ VĂN 11 | 5
  6. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Bằng việc sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, quan niệm con người là chuẩn điểm của cái đẹp, Xuân Diệu đã làm bức tranh xuân tràn đầy âm thanh, màu sắc, mật ngọt. Điểm tích cực của Xuân Diệu là thi sĩ không tìm kiếm một thiên đường mà lại gắn bó mật thiết với mùa xuân, vườn xuân, tuổi xuân của cuộc đời này. Thơ Xuân Diệu đẹp cả hình ảnh, giai điệu và thôi thúc con người đừng ngại ngần hãy bước chân vào bữa tiệc đời xung quanh mình. Cả bài thơ là một thông điệp: không phải đi tìm thiên đường đâu xa mà chính sự sống này tự nó sẽ phơi bày ra tất cả sức hấp dẫn vốn có. Tóm lại, với bài thơ “Vội vàng” Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “thơ mới”. Mới lạnh lùng, táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là các cảm nhận cuộc sống bằng tất cả giác quan với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu thương con người, yêu cuộc đời. Qua đó đã làm nổi bật tình yêu thiên nhiên yêu cuộc sống tha thiết đắm say. Bài mẫu 2: Xuân Diệu là nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn có sức sáng tạo mãnh liệt, bền bỉ và sự nghiệp văn học phong phú. Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say yêu đời tha thiết. Tiêu biểu cho giọng thơ ấy là bài thơ “Vội vàng”. Bài thơ có nội dung sâu sắc, nghệ thuật độc đáo, mà tiêu biểu là đoạn thơ sau: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành thơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng, in trong tập “Thơ thơ” (năm 1938), là bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà thơ. Bài thơ gồm bốn đoạn thơ, có thể chia làm hai phần. Phần một gồm ba đoạn thơ đầu, là niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và nêu những lí giải vì sao phải sống vội vàng; phần hai là đoạn thơ cuối, nêu cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”. Đoạn thơ trên thuộc khổ thơ đầu và khổ thơ thứ hai của bài thơ. NGỮ VĂN 11 | 6
  7. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Khổ thơ ngũ ngôn đầu bài thơ thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ – ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi.” Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” là những ước muốn kì lạ, chỉ có ở Xuân Diệu. Bởi thi sĩ sợ “màu nhạt mất”, “hương bay đi” – sợ rằng hương sắc, vẻ đẹp của trần gian sẽ phai nhạt mất. Ông muốn níu giữ tất cả hương sắc, vẻ đẹp của trần gian. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao con người tắt được nắng và buộc được gió, đó thật sự là một ước muốn không thể. Cái ước muốn lạ lùng, kì dị ấy đã hé mở một tình yêu vô bờ với trần gian thắm đượm hương sắc này. Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ phát hiện và say sưa ca ngợi một thiên đường ngay trên mặt đất với bao nguồn hạnh phúc kì thú: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành thơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Bảy câu thơ đầu khổ thơ là cảnh sắc trần gian: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;” Bằng những điệp từ “này đây”; nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, trần gian hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp, sắc hương của nó. “Này đây” là “tuần tháng mật” của ong bướm, là thời gian chúng hút nhụy hoa để lấy mật, thời gian chúng vui sống mãnh liệt nhất. “Này đây” là “hoa” của đồng nội “xanh rì”. Đó là hoa cỏ tươi thắm giữa một cánh đồng xanh mơn mởn, tràn đầy sức sống. “Này đây” nữa là “lá” của một “cành tơ” căng tràn nhựa sống, phơ phất trong gió xuân. Còn những đôi chim “yến NGỮ VĂN 11 | 7
  8. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 anh” đang say đắm trong “khúc tình si”. “Và này đây” nữa là “ánh sáng chớp hàng mi”. Một liên tưởng độc đáo: ánh sáng trần gian tựa như hàng mi của một cô gái đẹp, mỗi khi cô gái chớp mắt thì cả trần gian như si mê. Còn nữa, mỗi sáng sớm, thần Vui lại gõ cửa trần gian, mang đến niềm vui cho nhân loại. Bởi vì thế mà “tháng giêng” “ngon” như “cặp môi gần”. Tháng giêng mơn mởn non tơ, tháng giêng quyến rũ như một người tình rạo rực. Trần gian hiện lên trong cảm nhận của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” là như thế: tươi đẹp, mơn mởn sức sống, chan chứa niềm vui, niềm hạnh phúc, ngập tràn tình yêu. Trần gian này chính là một thiên đường thực thụ, không phải tìm đâu xa. Trần gian này lúc nào cũng tươi xanh mơn mởn như đang giữa mùa xuân. Thi sĩ như ngất ngây, say đắm trong hương sắc của nó. Trần gian là một thiên đường, vì thế mà Xuân Diệu tuyên bố: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Tôi không “sung sướng” sao được khi được sống giữa một thiên đường như thế? Nhưng cũng vì thế mà tôi phải “vội vàng một nửa”. Không vội vàng thì sợ không kịp mất. Tôi “không chờ” cho đến “nắng hạ” mới tiếc nhớ “mùa xuân”, tôi sẽ không để cho tuổi xuân qua đi rồi mới tiếc nhớ thời tươi đẹp ấy. Tôi phải sống ngay từ bây giờ, ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, khi tâm hồn còn ngập tràn tình yêu. Lời tuyên bố này thể hiện một quan niệm mới: trong thế giới này, đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Cả đoạn thơ, với phép điệp, nhịp thơ sôi nổi, dồn dập, hình ảnh thơ sáng tạo, cảm nhận mới lạ độc đáo, nhà thơ đã vẽ ra khung cảnh một thiên đường ngay trên chính mặt đất, bởi thế mà nhà thơ muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Tóm lại, đoạn thơ đầu bài thơ hé mở lòng yêu tha thiết với cuộc đời, cũng là một trong những nguyên nhân khiến Xuân Diệu tuyên bố sống “Vội vàng” : cuộc sống trần gian thật tươi đẹp, vì thế mà con người phải vội vàng lên ngay khi đang còn trẻ. Đoạn thơ thể hiện một quan niệm mới: trong thế giới này, đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung cho ta hiểu được : Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. ( Sưu tầm: Cô Thu Trang). BÀI TẬP SỐ 2 ĐỀ BÀI: Phân tích đoạn 2 (14-29) bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “ Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, những quan điểm sống mới mẻ và những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Xuân Diệu cũng là cây bút có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Nổi bật trong các sáng tác của ông là đoạn đầu bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ Thơ ( 1938) nói về quan điểm mới của Xuân Diệu về thời gian: “Câu 14-Câu 29” Ước muốn táo bạo muốn đoạt quyền của tạo hóa qua hành động “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là ước muốn lưu giữ hương thơm của cuộc đời để cho màu đừng nhạt, hương đừng bay đi. Thi nhân dường như muốn vĩnh viễn hóa hương sắc của cuộc đời. NGỮ VĂN 11 | 8
  9. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Vẻ đẹp của khu vườn trần thế tràn ngập màu sắc, hương hoa, ánh sáng. Vào mùa xuân ong bướm bay đi hút mật tìm hoa. Khu vườn mùa xuân có màu xanh mơn mởn non tơ của đồng nội, chồi non bắt đầu nở khoe sắc hương thơm trong không gian ấy vang vọng từng tiếng chim yến, chim anh ríu rít gọi bầy. Đôi mắt ngỡ ngàng của thi nhân choáng ngợp trước vẻ đẹp của thiên đường trên mặt đất với cái chớp hàng mi trước ánh nắng ban mai. Thiên nhiên trở nên có màu sắc hơn khi nhà thơ lấy cái vô hình là thời gian để so sánh với cái hữu hình là đôi môi. Điều đó đã làm nổi bật lên quan điểm mới của Xuân Diệu: lấy vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực cho cái đẹp. Tâm trạng vội vàng, giục giã của nhà thơ khi nhà thơ nhận ra và nuối tiếc mùa xuân ngay khi nó còn đang ở độ rực rỡ tươi đẹp nhất. Quan niệm mới mẻ về thời gian của Xuân Diệu thể hiện rất rõ ở những dòng thơ sau: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” Những người trẻ họ có quan niệm thời gian riêng của mình chứ không phải thời gian vĩnh cửu, tuần hoàn như xưa: “Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai” Những người trẻ họ không cảm thấy thời gian luân hồi để rồi an phận sống và chết ung dung, bình thản như người xưa. Họ xác là thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại, đời người ngắn tựa bóng câu qua cửa sổ nên mọi phút giây thời gian qua là ngay lập tức bị đẩy về quá khứ. Xuân Diệu đưa vào trong thơ mình lối thơ định nghĩa với cấu trúc tương phản, tương đồng: “đương tới - đương qua”, “còn non - sẽ già”, “xuân - hết”. Điệp từ “xuân”, “nghĩa là” được lặp lại nhiều lần nhưng một ám ảnh, nó không chỉ là ẩn dụ của thời gian mà còn là bước đi của đời người. Mùa xuân trở lại đồng nghĩa với việc tuổi xuân của con người vĩnh viễn ra đi, mùa xuân trở lại nhưng mãi mãi tuổi xuân không bao giờ trở lại. Thời gian là vô hình, vô hạn nhưng tuổi xuân của con người thì hữu hạn, ngắn ngủi. Không có thời gian tồn tại vĩnh hằng cũng như tuổi trẻ không bao giờ ngự trị, sự vật đang ở thời khắc đẹp nhất nhưng vẫn tìm ẩn sự tàn tạ trong tương lai. Xuân Diệu lo lắng trước sự tàn phai của cuộc sống ngay cả lúc nó chưa đến. Đó là cảm giác bất an ngấm ngầm của cái tôi thơ mới, là những dự cảm mong manh, ngắn ngủi của mùa xuân. Thi sĩ là tiếp tục khắc họa thời gian trong lòng của con người: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” NGỮ VĂN 11 | 9
  10. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Thi sĩ Xuân Diệu tiếp tục sử dụng lối nói tương phản, đối lập rất quen thuộc trong thơ tượng trưng của Pháp: “lòng tôi rộng - lượng trời cứ chật”, “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại - xuân tuần hoàn”, “chẳng còn tôi mãi - còn trời đất”. Xuân Diệu khẳng định “lòng tôi rộng” nghĩa là Xuân Diệu đã khéo léo bộc lộ khát vọng tuổi trẻ sẽ tồn tại mãi mãi nhưng ngay lập tức nhà thơ nhận ra “lượng trời cứ chật” để chỉ những quy luật khách quan không cho phép có người sống mãi. Trong quy luật ấy tuổi trẻ của con người thường mong manh, ngắn ngủi. Nhà thơ đã lấy cái hữu hạn của kiếp người để so sánh với cái vô hạn của thời gian. Đó chính là cơ sở để Xuân Diệu cảm thấy tiếc nuối, thấm thía “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Câu thơ là sử dụng đến hai từ rất giàu giá trị cảm xúc “bâng khuâng”, “tiếc”, nó vừa gợi ra một nỗi buồn da diết, nỗi niềm tiếc nuối dành cho cả đất trời, nỗi run rẩy lo sợ của thi nhân đã thấm sâu vào từng chi tiết, sự vật để cả một khu vườn xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống bỗng trở nên u buồn, lặng lẽ. Ở những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã làm nổi bài thời gian ở trong lòng tạo vật: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ nữa” Thi sĩ sử dụng biện pháp nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” để cụ thể hóa một khái niệm cụ thể. “Tháng năm” là thời gian cho thời gian, lại có thể cảm nhận bằng khứu giác: mùi tháng năm, mùa li biệt, vị chia phôi. Thời gian có sức tàn phá cuộc đời, hủy hoại cả những sự vật tưởng chừng như tồn tại vĩnh cửu đến mức “Khắp sông núi” vẫn có những âm thanh đầy đau khổ, đang chất chứa trong lòng “than thầm tiễn biệt”. Dù chỉ mới chớm xuất hiện những sự chia ly dường như đã ẩn mình trong mỗi phạm vi thời gian, trong từng không gian. Đó cũng là cảm nhận về sự chia li đang diễn ra ở mọi nơi, đang lan tỏa trong khắp đất trời. Nhà thơ câu cảm nhận vạn vật cũng có những xúc cảm như con người, cũng biết buồn đau, nuối tiếc trước sự chia li. “Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” Cả một thế giới đang xáo động qua biện pháp nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, điệp ngữ “thì thào”, “rớm vị chia phôi”, “phải chăng”. “Con gió xinh” là những con gió vô hình cũng trở nên cụ thể, mang vẻ đẹp của thiếu nữ, đầy sức hấp dẫn cũng “phải bay đi”. Sự chia lìa đang diễn ra như một quy luật khách quan, không thể cưỡng lại. Từ láy “thì thào” diễn tả những âm thanh nhỏ bé và đầy sợ hãi. “Chim rộn ràng” âm thanh náo nức, rộn rã, tràn đầy niềm vui của lũ chim đang mải mê ca hát cũng luôn ẩn chứa “độ phai tàn sắp sửa”, những sự cảm về sự tàn phai đang chuẩn bị diễn ra ở trong tương lai. Tiếng gió “thì thào” đầy sợ hãi trong lá biếc như thể hiện nỗi buồn vì sắp “phải bay đi”. Sự tàn phai, rơi rụng, chia li đã thấm đẫm trong từng tiếng chim, tiếng gió, đã hiện diện trên NGỮ VĂN 11 | 10
  11. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 khắp đất trời, đã ăn sâu vào cảnh vật. Tiếng chim náo nức, rộn ràng bỗng ngưng bặt bất ngờ, đột ngột như thể hiện nỗi “sợ” trước sự tàn phai đang chuẩn bị diễn ra. Những dự cảm đầy phấp phỏng lo âu trước sự tàn phai, rơi rụng, chia li, trước áp lực của thời gian trôi chảy. “Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ nữa” Thi sĩ đã thông qua việc sử dụng điệp cấu trúc câu “chẳng bao giờ” cùng với việc sử dụng từ ngữ cảm thán “ôi” thể hiện sự đau đớn, tiếc nuối. Nhà thơ như sực tỉnh và nhận ra rằng nếu không nhanh chóng tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc đời thì sẽ không bao giờ còn có cơ hội nữa. Không chỉ có quan niệm mới mẻ về thời gian, Xuân Diệu cũng bày tỏ quan niệm sống của chính mình, Xuân Diệu tự nhận thức thời gian qua nhanh nên nhà thơ đã tự giục giã. Qua đó còn hiện lên một bức tranh xuân tươi mới, đầy sức sống, đầy hương sắc như một thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung, tình tứ, quyến rũ, gợi cảm. Từ đó ta có thể hiểu quan niệm sống của Xuân Diệu là muốn chạy đua với thời gian để tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan. Đây là quan niệm nhân sinh hết sức mới mẻ của Xuân Diệu. Bằng việc sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, quan niệm con người là chuẩn điểm của cái đẹp, Xuân Diệu đã làm bức tranh xuân tràn đầy âm thanh, màu sắc, mật ngọt. Điểm tích cực của Xuân Diệu là thi sĩ không tìm kiếm một thiên đường mà lại gắn bó mật thiết với mùa xuân, vườn xuân, tuổi xuân của cuộc đời này. Thơ Xuân Diệu đẹp cả hình ảnh, giai điệu và thôi thúc con người đừng ngại ngần hãy bước chân vào bữa tiệc đời xung quanh mình. Cả bài thơ là một thông điệp: không phải đi tìm thiên đường đâu xa mà chính sự sống này tự nó sẽ phơi bày ra tất cả sức hấp dẫn vốn có. Tóm lại, với bài thơ “Vội vàng” Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “thơ mới”. Mới lạnh lùng, táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là các cảm nhận cuộc sống bằng tất cả giác quan với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu thương con người, yêu cuộc đời. Qua đó đã làm nổi bật nỗi băn khoăn, trăn trở khi đứng trước dòng chảy của cuộc đời. BÀI TẬP SỐ 3 ĐỀ BÀI: Phân tích đoạn 3 (30-39) bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “ Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông đã đem đến cho thơ ca một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, những quan điểm sống mới mẻ và những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Xuân Diệu cũng là cây bút có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Nổi bật trong các sáng tác của ông là đoạn đầu bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ Thơ ( 1938) nói về lời giục giã, quan niệm sống của Xuân Diệu: “Câu 30-39” Ước muốn táo bạo muốn đoạt quyền của tạo hóa qua hành động “tắt nắng” và “buộc gió”. Đó là ước muốn lưu giữ hương thơm của cuộc đời để cho màu đừng nhạt, hương đừng bay đi. Thi nhân dường như muốn vĩnh viễn hóa hương sắc của cuộc đời. Vẻ đẹp của khu vườn trần thế tràn ngập màu sắc, hương hoa, ánh sáng. Vào mùa xuân ong bướm bay đi hút mật tìm hoa. Khu vườn mùa xuân có màu xanh mơn mởn non tơ của đồng nội, chồi non bắt đầu nở khoe sắc hương thơm trong không gian ấy vang vọng từng tiếng chim yến, chim oanh ríu NGỮ VĂN 11 | 11
  12. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 rít gọi bầy. Đôi mắt ngỡ ngàng của thi nhân choáng ngợp trước vẻ đẹp của thiên đường trên mặt đất với cái chớp hàng mi trước ánh nắng ban mai. Thiên nhiên trở nên có màu sắc hơn khi nhà thơ lấy cái vô hình là thời gian để so sánh với cái hữu hình là đôi môi. Điều đó đã làm nổi bật lên quan điểm mới của Xuân Diệu: lấy vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực cho cái đẹp. Tâm trạng vội vàng, giục giã của nhà thơ khi nhà thơ nhận ra và nuối tiếc mùa xuân ngay khi nó còn đang ở độ rực rỡ tươi đẹp nhất. Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Ông không quan niệm về thời gian theo lối cổ của thơ văn trung đại mà ông luôn có quan điểm mới về thời gian cho mình. Xuân Diệu nhận ra một hiện thực mùa xuân trở lại đồng nghĩa với tuổi xuân vĩnh viễn ra đi, mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân không bao giờ trở lại. Nhà thơ cũng có cảm nhận vạn vật cũng có những cảm xúc như con người, cũng biết buồn đau, nuối tiếc cho sự chia li, trắc trở “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Lời giục giã, quan niệm sống của Xuân Diệu được thể hiện rất rõ ở câu thơ sau: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” Ba chữ” mau đi thôi” tách ra thành một câu ngắn với dạng thức mệnh lệnh tạo nên một giọng thơ khỏe khoắn mang tính thúc , hiệu lệnh. Ý thức được “mùa chưa ngả chiều hôm” nghĩa là mùa xuân chưa kết thúc, nhà thơ đã tự thúc giục chính bản thân và mọi người phải sống vội vã, gấp gáp. Không giữ được thời gian ngừng trôi, Xuân Diệu tăng tốc độ sống để chạy đua với thời gian. Nhà thơ cất lên lời giục giã chính mình, giục giã mọi người hãy tăng nhanh tốc độ sống, hãy sống nhanh, sống gấp để tận hưởng từng giây phút ngắn ngủi của cuộc đời, tận hưởng thời gian tươi đẹp của tuổi trẻ, của mùa xuân ngay khi những vẻ đẹp ấy chưa ngả về chiều, chưa bị tàn phai. Trong một bài thơ có nhan đề là “Giục giã” Xuân Diệu có viết: “Mau với chứ vội vàng lên với chứ Em, em ơi tình non sắp già rồi” Khao khát cháy bỏng của thi nhân, phát huy mọi giác quan để tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc đời được thể hiện rất rõ ở câu thơ sau: “Ta muốn ôm” Ngay từ đầu đoạn thơ tác giả đã mở ra một điểm nhấn quan trọng với một câu thơ chỉ có ba chữ “Ta muốn ôm”, ba chữ ngắn gọn mà chắc nịch này giống như một lời tuyên ngôn của tác giả, vừa dõng dạc, vừa đầy kiêu hãnh, trong lời tuyên ngôn ấy sẽ nhận thấy sự thay đổi đại từ nhân xưng, nếu từ đầu thi nhân sử dụng đại từ “tôi” thì đến đây đã đổi thành “ta”. Sự thay đổi này là hoàn toàn hợp lí, nó không còn là mong muốn hưởng thụ ích kỉ của cái “tôi” cá nhân nữa mà mong muốn được hòa nhập vào cái “ta”, dâng lên những gì đẹp nhất trong cuộc đời, muốn hòa hợp với mong muốn của cộng đồng. Tình yêu cuộc đời, yêu cuộc sống một cách vội vàng, cuống quýt, cuồng si được thể hiện rất rõ ở những câu thơ sau: “Câu 31-39” Cùng với sự thay đổi của đại từ nhân xưng là sự xuất hiện liên tiếp điệp khúc “ta muốn” khiến khát vọng cá nhân chủ quan của nhà thơ được bộc lộ ngày càng mạnh mẽ, mãnh liệt, càng dồn dập, thiết tha bằng việc sử dụng nghệ thuật liệt kê, điệp từ, lặp cấu trúc và nhất là việc sử dụng các động từ NGỮ VĂN 11 | 12
  13. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 được sắp xếp theo trình tự tăng dần về cường độ như “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” Xuân Diệu đã bộc lộ hàng loạt tư thế và động tác chỉ sự hưởng thụ. Nhà thơ như muốn tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan, bằng toàn bộ cơ thể “Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/ Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”. Nhờ nghệ thuật liệt kê, lời thơ gợi ra vô vàn những vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân mà cũng là hiện thân cụ thể cho cái đẹp cùng với việc sử dụng những danh từ miêu tả hình ảnh sự sống Tôn chào căng tràn như “Sự sống mơn mởn”, “mây đưa gió lượn”, “cánh bướm tình yêu”, “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc”, “thời tươi”, “xuân hồng” kết hợp với nhịp thơ dồn dập, hối hả, gấp gáp. Nhà thơ như muốn tận hưởng tất cả, không muốn bỏ sót bất kỳ một vẻ đẹp nào của cuộc đời, của mùa xuân và sự sống. Điều đó đã gợi mở một bức tranh xuân tươi mới, đầy sức sống, đầy hương sắc như một người thiếu nữ xinh đẹp, trẻ trung, tình tứ, quyến rũ, gợi cảm cùng với tình yêu cuộc sống một cách cuồng nhiệt của nhân vật trữ tình. “Câu 37-39” Dù đã tận hưởng đến mức cao nhất, đầy đủ nhất, đến mức độ “chếnh choáng”, “đã đầy” những cái tôi của Xuân Diệu vẫn không nguôi ngoai, thèm khát. Vì vậy, hồn thơ ấy đã bồng bột thốt lên “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Với Xuân Diệu, “hôn:, “riết”, “say”, “thâu” cho thấy cần phải “cắn” nữa. Đó là khát vọng cá nhân của một hồn thơ khát khao ham sống, luôn cuồng nhiệt, vội vã trước sự sống. Điều đó đã làm nổi bật quan niệm sống của Xuân Diệu: muốn chạy đua với thời gian để tận hưởng cuộc sống bằng mọi giác quan. Đây là quan niệm nhân sinh mới mẻ, độc đáo. Bằng việc sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, quan niệm con người là chuẩn điểm của cái đẹp, Xuân Diệu đã làm bức tranh xuân tràn đầy âm thanh, màu sắc, mật ngọt. Điểm tích cực của Xuân Diệu là thi sĩ không tìm kiếm một thiên đường mà lại gắn bó mật thiết với mùa xuân, vườn xuân, tuổi xuân của cuộc đời này. Thơ Xuân Diệu đẹp cả hình ảnh, giai điệu và thôi thúc con người đừng ngại ngần hãy bước chân vào bữa tiệc đời xung quanh mình. Cả bài thơ là một thông điệp: không phải đi tìm thiên đường đâu xa mà chính sự sống này tự nó sẽ phơi bày ra tất cả sức hấp dẫn vốn có. Tóm lại, với bài thơ “Vội vàng” Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “thơ mới”. Mới lạnh lùng, táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là các cảm nhận cuộc sống bằng tất cả giác quan với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu thương con người, yêu cuộc đời. Qua đó đã làm nổi bật lời giục giã, quan niệm sống của Xuân Diệu. PHÂN TÍCH VỘI VÀNG – XUÂN DIỆU – AUDIO HỌC VĂN CHỊ HIÊN. Ngay từ đầu bài thơ, Xuân Diệu đã rất khéo léo và tinh tế độc đáo khi mở đầu bài thơ của mình với bốn câu thơ ngũ ngôn: “ Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Có thể thấy rằng, chỉ mới bắt đầu thi phẩm của mình thế nhưng cái “ tôi” của Xuân Diệu đã được bộc lộ một cách rõ ràng và mãnh liệt. Xuân Diệu đã thể hiện như một lời tuyên bố vô cùng dõng dạc và đường hoàng của mình, những cái khát khao thể hiện những cái mong muốn của mình với cấu NGỮ VĂN 11 | 13
  14. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 trúc điệp “ Tôi muốn”. Xuân Diệu muốn “ tắt nắng” và “ buộc gió”, dường như đây là những khao khát rất là phi lý bởi lẽ rằng có ai ở trên đời có thể tắt được nắng đi, buộc gió lại. Chỉ có mình Xuân Diệu, Xuân Diệu đang mong muốn như thế nhưng chính khao khát phi lí của Xuân Diệu lại tạo nên một cái tôi ấn tượng và lôi cuốn. Tác giả không dùng đại từ “ ta” mà tác giả dùng đại từ “ tôi” như để khẳng định chính mình, khẳng định đây là những khát khao cháy bỏng của riêng bản thân thi sĩ, và thi sĩ sẽ làm được điều đó, đoạt được những thứ tươi đẹp của thiên nhiên đất trời. Tác giả muốn “ tắt nắng” để “ màu đừng nhạt”, để giữ lại màu của ánh nắng, “ buộc gió” để “ hương đừng bay đi” để giữ lại những hương sắc, hương thơm của trên cuộc đời này. Dường như là Xuân Diệu đang muốn cưỡng lại tất cả quy luật thiên nhiên, những vận động của đất trời bởi lẽ ông hiểu sâu sắc một điều rằng: sắc thắm nào cũng sẽ phai nhạt, hương đồng nào rồi cũng sẽ nhạt phai và Xuân Diệu thì không muốn những vẻ đẹp của tự nhiên, của đất trời mất đi, không muốn dòng thời gian trôi chảy một cách vô tình như thế, ông giữ lại nó ở bên mình, ông muốn giữ lại để được có thể tận hưởng và thưởng thức trọn vẹn và mãi mãi. Chúng ta thấy rằng là đọc những vần thơ đầy nhiệt huyết và tuổi trẻ, tình yêu như thế, người đọc dường như cũng đang say trong những khao khát của tác giả. Xuân Diệu nhận ra được dòng thời gian trôi chảy của thời gian là vô hạn, đời của mình thực sự là hữu hạn. Chính vì vậy mà Xuân Diệu lưu giữ lại những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời mình, trong cuộc sống này vào trong chính trái tim của mình. Chính vì vậy Xuân Diệu đã đưa ra những khao khát mong muốn vô cùng phi lí thế nhưng cũng vô cùng độc đáo nhưng áp dụng vào bản thân suy nghĩ của Xuân Diệu mặc dù là phi lí như vậy nhưng lại vô cùng hợp lí với tính cách, suy nghĩ, nỗi trăn trở của Xuân Diệu về cuộc đời, cuộc sống. Từ những câu thơ đầu tiên, với ngôn ngữ vô cùng ngắn gọn với nhịp điệu chắc khỏe mở đầu cho bài thơ thì biên độ của câu thơ cho đến đoạn này đã được mở rộng. Ta thấy rằng, bốn câu thơ đầu là thể thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn, thì đến đoạn thơ này biên độ của mỗi câu thơ đều đã mở rộng để thành những dòng thơ tám chữ kết hợp với câu thơ liệt kê xen kẻ miêu tả đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên, đầy sắc xuân và tình tứ. Mùa xuân là mùa của tình yêu, mùa của sự sống đã đi vào trong thơ ca hàng ngàn năm nay nhưng chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam mùa xuân lại hiện ra với một khung cảnh xôn xao đến như thế. Mùa xuân bây giờ không còn bóng dáng mà đã được hiện hình bằng chi tiết vô cùng cụ thể. Vẻ đẹp ngọt ngào của tuần tháng mật, của ong bướm, rực rỡ trong hoa đồng nội xanh rì, mơn mởn trong cành tơ phơ phất và mê đắm trong khúc tình si của yến anh. Chúng ta ngất ngây với thần vui đang gõ cửa vào buổi sáng trong mọi tâm hồn đang bừng sáng lên sức sống của ngày mới. Nếu như chúng ta phát hiện trong thơ xưa, các nhà thơ thường sử dụng thính giác, thị giác để có thể cảm nhận được vẻ đẹp của ngoại cảnh, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của ngoại giới thì khi đến với Xuân Diệu, ta thấy rằng dường như bản thân nhà thơ này đã lay động tất cả các giác quan từ các góc độ khác nhau để có thể cảm nhận được vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say của cảnh vật và đất trời lúc sang xuân. Điệp ngữ “ này đây” kết hợp với những câu thơ có cấu trúc giống nhau và các tính từ miêu tả sử dụng đã khiến cho nhịp của những câu thơ trở nên dồn dập, vừa như là ngơ ngác, vừa như là ngạc nhiên, vừa như là lạ lẫm thế nhưng nó cũng có những hình ảnh giống như một tiếng reo vui đầy vui sướng đến tột cùng rồi chìm ngập đắm say vào vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của mùa xuân. Bức tranh thiên nhiên của mùa xuân không chỉ có vẻ đẹp quyến rũ và mê hồn mà còn ngập tràn sức sống bất tận. Đó là sức sống của mùa xuân làm vạn vật linh hồn quấn quýt bên nhau, giao cảm đến độ cuồng nhiệt. “ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” NGỮ VĂN 11 | 14
  15. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Mỗi buổi sáng thức dậy chỉ cần mở mắt ra thôi là đã được chứng kiến những cảnh tượng của thiên nhiên diễm lệ. Với ánh sáng bình minh soi sáng rực rỡ xuống thế gian và chính nguồn ánh sáng của mùa xuân trong trẻo và giọt lành ấy tưởng chừng vẫn là vẻ đẹp rạng ngời tỏa ra từng đôi mắt huyền diệu của người thiếu nữ mỗi lần chớp mi. Trong một bài thơ Xuân Diệu đã miêu tả bằng một hình ảnh vô cùng gợi cảm: “ Tà áo mới cũng say mùi gió nước Rặng mi dài xao động ánh dương vui”. Không chỉ miêu tả vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên mà rõ ràng câu thơ của Xuân Diệu còn chứa đựng một vẻ đẹp, quan điểm mĩ học về nhân bản của Xuân Diệu. Đối với người thi sĩ này thì vẻ đẹp của giai nhân, vẻ đẹp của con người mới là chuẩn mực của vẻ đẹp trên thế giới này. Vì vậy “ Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”, hình ảnh gợi cho chúng ta đến rất nhiều liên tưởng gần gũi, đó có thể là thần mặt trời trong thần thoại Hi Lạp xưa – một vị thần mà mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc, mang tới ánh sáng cho con người. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ như khiến cho ngòi bút của Xuân Diệu tràn ngập tình yêu thương và hạnh phúc, tràn ngập niềm vui và chính vì thế Xuân Diệu đã tạo nên một câu thơ tuyệt bút ở trong tác phẩm của mình “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Chỉ với một chữ “ ngon” thôi, ấy vậy mà đã truyền cảm giác thần tình, một cảm giác lạ lẫm. “ Tháng giêng” cũng chính là mùa xuân đang mời gọi đang quyến rũ thi nhân là hãy thưởng thức phần “ ngon” nhất của cuộc đời, đây cũng chính là câu thơ hay nhất, mới lạ nhất cho cảm quan tinh tế của Xuân Diệu. Qua đó chúng ta cũng thấy sự ràng buộc của tâm hồn Xuân Diệu là tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt, cuống quýt. Nếu như chúng ta thấy rằng Huy Cận là một người gợi ra cái ám ảnh, khắc khoải về thời gian. Xuân Diệu là một thi sĩ luôn nhạy cảm với bước đi của thời gian bởi lẽ Xuân Diệu hiểu một điều rằng dòng thời gian là dòng vô hạn, còn dòng đời của con người là dòng hữu hạn, đó là sự hữu hạn mà dường như chỉ chừng ấy năm tháng của cuộc đời để sống. Đang bước vào thời điểm đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên sự lo lắng mong manh rằng sắc xuân sẽ phai và sự đan xen của hai luồng gió trái ngược nhau là điều mà chúng ta thường thấy ở trong thơ tình của Xuân Diệu trước Cách mạng, nó thường dẫn nhà thơ tới những quan niệm về nhân sinh mang tính triết lí, nhà thơ nhận ra một điều rằng dòng thời gian là một dòng trôi chảy vô hạn và vô cùng khắc nghiệt rằng tất cả sẽ qua đi và tất cả sẽ lụi tàn. “ Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa/ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Dấu chấm ở giữa dòng thơ đã chia cắt câu thơ thành hai trạng thái cảm xúc khác biệt nhau, một bên thi nhân sung sướng tận hưởng mùa xuân của cuộc đời, những gì tươi đẹp nhất nhưng qua đó nhà thơ cũng vội vàng níu giữ, muốn tận hưởng mùa xuân một cách trọn vẹn nhất, nuối tiếc mùa xuân khi nó vẫn đang ở độ tươi đẹp nhất. Hai câu thơ trái ngược nhau dường như khiến bản thân thi sĩ tự dồn mình vào góc tường và để rồi thi sĩ bộc bạch một câu thơ như thế này “ Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa/ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, khi về già người ta thường nuối tiếc những điều trong quá khứ trong khi Xuân Diệu đang ở trong độ tuổi đẹp nhất của cuộc đời mình, đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung ấy vậy mà đã tiếc nuối, vội vàng, tiếc nuối một nửa mong chờ “ nắng hạ mới hoài xuân”. Đoạn 2: Thời gian trong vũ trụ bao đời xưa nay vẫn thế chẳng có gì khác biệt thế nhưng ở trong cách nhìn nhận của Xuân Diệu về thời gian và con người lại có những biến đổi. Chúng ta thấy rằng người xưa quan niệm thời gian là tuần hoàn, thời gian là vĩnh cửu. Sở dĩ họ có thái độ như vậy là vì họ thấy con người luôn luôn gắn với vũ trụ và với người xưa chết chưa phải đã hết, con người cũng sẽ cùng với trời đất tuần hoàn thế nhưng với Xuân Diệu, ta lại thấy một quan niệm rất mới mẻ về thời gian, NGỮ VĂN 11 | 15
  16. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 về sự tuần hoàn của đất trời bởi vì là Xuân Diệu chỉ ra rằng dòng thời gian là một dòng hữu hạn. Thậm chí, quan niệm của Xuân Diệu có thể thấy rằng quan niệm này của Xuân Diệu khác và trái ngược hoàn toàn với quan niệm của thời xưa không còn thấy rằng thời gian là một dòng định tính nữa mà dòng chảy ấy giống như một dòng chảy đi mà không bao giờ quay trở lại. Đó là một cách rất động và rất biện chứng về thời gian không còn là một vòng tuần hoàn liên tục của cuộc đời con người nữa. Đó là một dòng chảy xuôi một chiều không bao giờ có thể quay lại, là một dòng tuyến tính trong khi cuộc đời con người lại là một dòng định tính. “ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” Giọng thơ sôi nổi và cũng từ mạch nguồn tuôn ra, một hệ thống những từ ngữ tương phản và đối lập đã được Xuân Diệu đưa ra trong những câu thơ của mình “ tới”, “ qua”, “ non”, “ già”, “ rộng”, “ chật”, “ tuần hoàn”, bất tuần hoàn, vô hạn, hữu hạn kết hợp với những điệp ngữ “ nghĩa là” đã tạo thành những câu thơ định nghĩa giải thích để tìm ra bản chất của quy luật tự nhiên và sự sống và nó đã mang trong mình tính cách khẳng định, phát hiện ra một chân lí: tuổi xuân một lần đi qua không bao giờ trở lại. Qua cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian, chúng ta có thể thấy đây là một sự cảm nhận về sự mất mát, thấm thía thời khắc vô cùng quý giá, vô cùng tươi đẹp của tuổi trẻ, mỗi khoảnh khắc trôi qua đều là một sự mất mát. Đó là một phần của cuộc đời, sinh mệnh, một đời cá thể sẽ mất đi vĩnh viễn, quan niệm này xuất phát từ cái nhìn rộng lớn, biện chứng về vũ trụ, về thời gian, nuối tiếc về dòng thời gian trôi chảy và niềm vui ngắn ngủi của thời gian sẽ mau chóng trôi qua sẽ khiến cho thi sĩ đau đớn đến tột cùng. Nhà thơ cho rằng mình sẽ chết đi cùng với mùa xuân khi vẻ đẹp của cuộc đời này sẽ không còn nữa “ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian” Nếu như ngày xưa người ta lấy sinh mệnh của vũ trụ làm thước đo thời gian thì Xuân Diệu bây giờ lấy sinh mệnh của cá thể, của con người, của cá nhân làm thước đo, lấy quỹ thời gian hữu hạn của sinh mệnh để đo thời gian trong vũ trụ và trong quãng thời gian hữu hạn ấy. Nhà thơ đã chọn đoạn thời gian ý nghĩa nhất, dù là ngắn nhất dù đó chính là tuổi trẻ, mà tuổi trẻ thì luôn gắn liền với tình yêu “ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Đoạn 2 : 23-29 “ Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi NGỮ VĂN 11 | 16
  17. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa Chẳng bao giờ, ôi chẳng bao giờ nữa” Chúng ta thấy rằng tất cả những cảnh vật mà Xuân Diệu vẽ lên trước mắt chúng ta bây giờ đều là những tủi hờn, đều là những nỗi buồn thương và dường như cái mối thời gian màu nhiệm của tâm hồn con người là mối trăn trở. Những hình ảnh gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng khác nhau, liên tưởng tới không gian cảnh vật trong bài “ Đây mùa thu tới” khi nhìn đâu, nhìn đâu cũng thấy chia lìa. Trong vườn hoa lá rụng, trên sông con đò vắng khách, trên nền trời là những cái hình ảnh của những khu chung cư và người xưa thì vẫn dùng cái hữu tình để diễn tả cái vô tình của thời gian nhưng Xuân Diệu lại dùng những cái vô hình như là cơn gió để diễn tả về cái vô tình của thời gian và dòng thời gian bây giờ giống như một chuỗi vô tận của mất mát, của sự chia lìa. Cũng chính vì sự mất mát, sự chia lìa ấy mà đã dẫn tới một không khí buồn thương của cảnh núi sông với những lời thở than và tiễn biệt. Đó là lời than thở của tạo vật hay chỉ là lời than của thi nhân, là lời ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó và ta thấy rằng, cái cảm nhận về thời gian như vậy, của Xuân Diệu xuất hiện như vậy vốn là xuất phát từ ý thức sâu xa về sự sống, về khao khát của cuộc đời đều vô cùng quý giá. Xuân Diệu hiểu được một điều rằng thời gian vô cùng quý giá đặc biệt là quãng thời gian tuổi trẻ của con người, là quãng thời gian vô cùng quý giá. Nếu như chúng ta một lần mất đi rồi thì sẽ không bao giờ, vĩnh viễn không bao giờ có thể quay trở lại được. Quan niệm ấy của Xuân Diệu đã thúc đẩy chúng ta và khiến cho mỗi chúng ta cần có những định hướng và suy nghĩ cho chính bản thân mình, chúng ta cần phải biết quý trọng những phút giây chúng ta có trong cuộc đời này và làm cho mỗi khoảnh khắc ấy trở nên quý giá và ý nghĩa hơn. Chỉ có như vậy thì mới là biết sống và sống đúng nghĩa. Đây cũng chính là một trong những cơ sở sâu xa để giải thích về thái độ sống vội vàng, quan niệm sống vô cùng mới mẻ của Xuân Diệu đưa ra thi phẩm. Đoạn 3: Trong những lời suy ngẫm, những lo âu, những cái phảng phất sự trăn trở rằng thời gian ngắn ngủi của cuộc đời, của mùa xuân sẽ nhanh chóng trôi qua thì bài thơ bây giờ lại hướng con người ta đến một lối sống tích cực, sống hết mình, sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng trọn vẹn những cái đẹp đẽ nhất của trần thế đang bày ra trước mắt chúng ta và đoạn thơ này được mở đầu với một lời giục gũa mang theo sự hối hả, cuồng nhiệt: “ Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm” Mùa ở đây là mùa xuân của đất trời, mùa xuân của mọi người, mùa xuân của cuộc đời nhưng chưa khép lại bằng hoàng hôn thì nó vẫn luôn là cơ hội. Chính vì vậy nhà thơ giục giã chúng ta phải nhanh lên, vội vàng lên để tận hưởng những bữa tiệc trần gian đang bày ra trước mắt và cách tận hưởng của Xuân Diệu: “ Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn NGỮ VĂN 11 | 17
  18. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều” Tác giả xưng “ tôi” để được đối thoại với đồng loại thì ở dưới lại xưng “ ta” để đối diện với sự sống. Giữa những câu thơ dạt dào đan xen vào đó là câu thơ chỉ có ba chữ “ ta muốn ôm”. Câu thơ ngắt quãng khiến cho cả đoạn thơ này bị ngắt quãng và nó cũng tạo ra như một nốt lặc trong thơ. Câu thơ như ngắt quãng cả đoạn thơ khiến cho người đọc liên tưởng đến một vòng tay đang quấn riết, níu giữ, đang bao trùm lấy cả sự sống nên mơn mởn, non tơ ở ngoài cuộc đời và những câu thơ này gợi cho ta liên tưởng đến nhiều bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu. “ Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn Làm dây ra quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất” Theo chân vội vàng và vòng tay cuồng nhiệt cùng với lòng khát sống của thi nhân, chúng ta bó vào một thế giới tràn ngập của những cảm xúc của cuộc đời. “ Hỡi xuân hồng tôi muốn cắn vào ngươi” Điệp ngữ “ tôi muốn” được lặp đi lặp lại mang theo một nhịp điệu hối hả, giống như một hơi thở gấp gáp của thi nhân nó đã giúp cho thi nhân nói lên cái ham muốn của mình, đó là cái mong muốn thèm khát đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ nhất là mỗi lần điệp lại, sử dụng động từ mạnh và để thể hiện trạng thái yêu đương mỗi lúc một nồng nàn, một mãnh liệt “ ôm”, “ riết”, “ say”, “ thâu”, “ cắn”. BÀI TẬP SỐ 5 ĐỀ BÀI: Phân tích bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Đến với Thơ mới là đến với thế giới cảm xúc muôn cung nghìn bậc, thế giới nghệ thuật muôn hình vạn trạng. Một Thế Lữ “rộng mở”, một Lưu Trọng Lư “mơ màng”, một Nguyễn Bính “quê mùa”, một Hàn Mặc Tử “kì dị” Họ đều là những cái tên không thể bỏ quên khi nhắc về Thơ mới. Nhưng sẽ mãi mãi là thiếu sót, là chưa đủ nếu không có sự góp mặt của Xuân Diệu. Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu – một trong ba đỉnh cao của thơ mới. Những tên gọi đầy trân trọng ấy đã xác lập một chỗ đứng riêng cho Xuân Diệu trong làng thơ, để đến tận hôm nay người đời vẫn không thôi nhắc đến và ngưỡng mộ. “Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. “Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”. “Vội vàng” bắt đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn tưởng như lệch nhịp so với toàn bài, nói lên một ước muốn lạ thường: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho hương đừng bay đi.” Ngay những câu mở đầu, Xuân Diệu đã bộc bạch thổ lộ lòng mình trực tiếp bằng hai chữ “tôi muốn” đầy chủ động. Ước muốn ấy không phải dời non lấp bể, đắp lũy xây thành, đi “phù địa trục” NGỮ VĂN 11 | 18
  19. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 như những bậc trí chủ thời xưa, mà là một ước muốn tưởng như dị thường: tắt nắng, buộc gió. Thi sĩ muốn tắt nắng để màu không nhạt, muốn buộc gió để hương đừng bay – những ước muốn đoạt quyền tạo hóa. Vậy là hóa ra chẳng có ước muốn dị kì nào ở đây, điều thi sĩ muốn là níu giữ màu và hương bên đời để những gì tươi đẹp nhất không bị nhạt phai – một mong muốn chính đáng. Nhịp thơ nhanh, cách điệp câu nhịp nhàng, những câu thơ tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi của một tâm hồn nồng nàn nhựa sống. Những câu thơ sau lí giải sâu hơn về lí do mà tâm hồn thi sĩ nảy sinh những ước muốn ấy. Bằng con mắt “xanh non biếc rờn” cùng lòng yêu cuộc sống, bằng “toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”, Xuân Diệu đã phát hiện ra cả một thiên đường trên mặt đất với bao màu sắc, âm thanh và ánh sáng: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” Bức tranh cuộc sống hiện ra tựa như một bữa tiệc trần gian với chân thực sẵn bày, mời gọi hấp dẫn. Hai chữ “Này đây” được nhắc đến nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây. Nơi đây – nơi cuộc sống trần thế với bao điều hấp dẫn, chính là cái phần ngon nhất mà nhà thơ muốn ôm trọn vào lòng. Nơi có bướm ong dập dìu, yến anh tình tự. Nơi có màu xanh đồng nội, màu lá phất phơ. Nơi có âm thanh của khúc tình si, có ánh sáng của bình minh tựa như hàng mi chớp dịu. Tất cả đều gợi ra một bức tranh thiên nhiên ngồn ngộn sự sống, dạt dào sắc xuân. Qua lăng kính luyến ái của thi sĩ, mọi thứ đều hiện lên có đôi có lứa, tươi ròng sự sống. Chính Xuân Diệu chứ không phải ai khác, đã “đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới”, người “xây lầu thơ trên một tấm lòng trần gian”, luôn gắn bó sâu sắc với cuộc đời trần thế. Không “thoát lên tiên” mơ theo cảnh bồng lai như Thế Lữ, không tìm về chốn thôn quê để ủ mình trong yên bình như Nguyễn Bính, không lẩn trốn vào quá khứ nơi có những “bóng ma sợ soạng” như Chế Lan Viên, trong mắt Xuân Diệu, thế giới đẹp nhất là cuộc sống trần thế, tại đây và ngay lúc này. Chẳng thế mà từng có lần nhà thơ tự bộc bạch: “Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất” Nhưng có lẽ cái đặc sắc và để lại ấn tượng sâu nhất trong mỗi người là câu thơ: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” – một câu thơ “hoàn toàn Xuân Diệu”. Thi sĩ đã hữu hình hóa cái vô hình, đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng vị cảm. Và còn đặc biệt hơn, cái điều thi sĩ cảm được từ tháng giêng lại là một cặp môi gần của phụ nữ – nó vừa quyến rũ, vừa tươi hồng, vừa mời gọi. Ta chợt ngộ ra, cái đẹp của con người trong mắt nhà văn mới là cái đẹp chuẩn mực. Chính con người mới là trung tâm cho mọi sự so sánh. Rõ ràng ở đây có cả một sự thay đổi lớn về quan niệm thẩm mỹ. Người xưa ví vẻ đẹp người con gái với hoa, núi, nước, mây, ví khí phách người anh hùng như mai, trúc, phượng, điểu. Còn Xuân Diệu trong cái nhìn của một con người hiện đại lại chỉ luôn mong muốn tôn vinh con người. Chính niềm say mê tha thiết với hương sắc trần thế mà trong thi sĩ đã nảy sinh một xúc cảm khác: Lo sợ thời gian trôi sẽ làm nhạt phai thanh sắc của đời. Bởi thế mà ngay sau những câu thơ tươi vui kia, mạch thơ chuyển ngay sang những điệu thơ trầm lặng, trĩu nặng suy tư: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Không cho dài thời trẻ của nhân gian” Xuân Diệu bằng nhãn quan tinh nhạy của mình, đã nhìn thấy cái đương qua ngay trong cái đương tới, cái sẽ già ngay trong cái còn non. Không phải ngẫu nhiên mà thi sĩ có những cảm xúc ấy. Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ Em, em ơi. Tình non sắp già rồi” Nhưng nghĩ một cách sâu hơn, thì có thể thấy tình yêu cuộc sống và nỗi ám ảnh thời gian của nhà thơ là hoàn toàn biện chứng. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, con người càng tiếc thời gian và tuổi trẻ bấy nhiêu, huống chi là Xuân Diệu – một người có khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời. Với Xuân Diệu cái đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người là mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Trôi qua những cái đó, cuộc đời chỉ còn là vô nghĩa. Nỗi ám ảnh và sự hối thúc về thời gian của nhà thơ NGỮ VĂN 11 | 19
  20. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 còn cho ta một nhận thức về nhân sinh: Cuộc đời vô thủy vô chung, dòng đời trôi không đứng đợi, tuổi trẻ chẳng thắm lại lần hai và mùa xuân chẳng bao giờ quay lại. Triết lí ấy lại là một bước tiến vượt bậc trong tư tưởng của nhà thơ. Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn, lấy sinh mệnh vũ trụ để tính vòng đời, họ tin đời người là kiếp luân hồi, đi rồi sẽ trở lại. Còn Xuân Diệu nhìn thời gian trong sự tuyến tính để có những nhận thức đúng đắn về đời người. Vậy là xét cho cùng, tiếc nuối thời gian âu cũng là một biểu hiện khác của lòng yêu cuộc sống. Và đúng như Hoài Thanh nói: “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Trước dòng đời ngược xuôi trôi dạt, đôi mắt tinh nhạy của người nghệ sĩ nhìn đâu cũng thấy chia li xa cách: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa ” Tháng năm được cảm nhận qua mùi, qua vị. Mùi và vị của nó chính là chia phôi. Câu thơ được chuyển đổi cảm giác, sự tương giao giữa các giác quan khiến cho ta tưởng như người thi sĩ nhìn đâu cũng thấy chia lìa, đi đâu cũng thấy chia phôi. Cả đoạn thơ man mác bâng khuâng, ngậm một nỗi tiếc nuối bùi ngùi. Tất cả hiện vật, sự vật trên thế gian đều không được vẹn tròn ngày vui. Núi sông thì buông lời than tiễn biệt, gió chim thì đều mang nỗi nợ phải bay đi, phải lìa tổ. Quả thật mọi cuộc vui đều có lúc tàn. Cảm nhận rất rõ được điều ấy, thi sĩ thốt lên trong sự tiếc nuối: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa ”, để rồi ngay sau đó là lời giục giã: “Mau đi thôi. Mùa chưa ngả chiều hôm”. Sau những tiếc nuối ngậm ngùi, nhà thơ bộc lộ một khao khát mãnh liệt – khao khát được giao cảm tận độ với đời, hưởng trọn thanh sắc của thời tươi, khao khát tận hưởng và tận hiến: “Ta muốn ôm Và non nước, và cây, và cỏ rạng” Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời. Từ xưng “tôi” ở đầu bài thơ, nhà thơ chuyển sang xưng “ta” như nói lên một khát vọng chung cho mọi người – khát vọng hòa nhập. Từ đó, một loạt cụm từ “ta muốn” xuất hiện trong mỗi dòng thơ – một cách bộc bạch lòng mình trực tiếp của một thi sĩ thơ mới có xúc cảm luôn nồng nàn. Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ ôm, riết, đến say, thâu, và sau cùng là cắn. Dường như thi sĩ muốn ôm cho hết, say cho tận, thâu cho cùng mọi điều đẹp nhất của cuộc đời, để được hưởng cảm giác “chếnh choáng, đã đầy, no nê”. Câu thơ cuối cùng như một sáng tạo đặc biệt, gợi cảm giác mạnh như một nốt vĩ thanh vút lên ở cuối bài trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc cảm giác: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. “Xuân hồng” vừa gợi màu, vừa gợi vị, vừa đập vào thị giác, vừa tác động đến cảm giác. Một lần nữa thi sĩ hữu hình hóa cái vô hình, coi xuân hồng như phần tươi ngon nhất của cuộc đời, muốn cắn và nuốt trọn nó. Một cái kết mạnh đã cho Xuân Diệu tổng kết triết lý nhân sinh của mình: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi mà con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, nhất là khi còn đang ở tuổi trẻ. Đó là triết lý bất diệt với thời gian, mang giá trị nhân sinh cao cả. Và một lẽ tất nhiên, để làm nên một chỉnh thể nghệ thuật không thể bỏ ngoài các yếu tố về hình thức nghệ thuật. Xuân Diệu “mới” không chỉ ở tư tưởng mà “mới” cả ở cách thể hiện. Thể thơ tự do với sự chuyển mạch, co duỗi linh hoạt theo cung bậc cảm xúc, các phép tương giao ảnh hưởng của thơ tượng trưng cũng sử dụng triệt để. Những câu thơ vắt dòng, từ ngữ táo bạo và hình ảnh tân kì cũng góp phần làm nên một thi phẩm “rất Xuân Diệu”. Xuân Diệu lại một lần nữa góp vào thi đàn Việt Nam một tuyệt phẩm. Bên cạnh những vần thơ rất hay về tình yêu, còn có những vần thơ nhân sinh sâu sắc. Vội vàng xứng đáng được coi là một tuyệt tác cho mọi thời. Bài mẫu 2: Xuân Diệu được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, được người đời gọi là “Ông hoàng của thơ tình”. Ông luôn khao khát giao cảm với đời với cuộc sống. Bài thơ “Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ” là tác phẩm tập trung cao độ nhất khát vọng cuộc sống của Xuân Diệu với nhiều NGỮ VĂN 11 | 20
  21. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 cung bậc cảm xúc khác nhau cho thấy những quan niệm mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ với những cách tân độc đáo của nhà thơ. Do đó phân tích tác phẩm ta chọn đi theo mạch cảm xúc của tác giả khi tự tin thể hiện ước muốn bản thân, khi hân hoan say đắm với vẻ đẹp thiên nhiên, khi nuối tiếc cho cuộc đời, khi hối thúc, giục giã để lại triết lí nhân sinh sâu sắc cho độc giả. Mở đầu bài thơ tác giả thể hiện cái tôi cá nhân với ước muốn táo bạo, kì lạ bằng bằng bốn câu thơ ngũ ngôn: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho hương đừng bay đi” Nắng, gió là hai hiện tượng của tự nhiên nhưng ở đây tác giả sử dụng điệp từ “Tôi muốn” để thể hiện nguyện ước ngông cuồng, phi lí của bản thân muốn can dự vào quy luật của tạo hóa. Điều đó dường như là không thể, không bao giờ nhưng qua vần thơ của Xuân Diệu nó được hiện lên với khát vọng có ý nghĩa cao đẹp. Tác giả muốn tắt nắng “Cho màu đừng nhạt mất”, muốn buộc gió “Cho hương đừng bay đi”, ông muốn muốn vĩnh viễn hóa khoảnh khắc của hiện tại, muốn bất tử hóa cái đẹp của thiên nhiên, muốn lưu giữ mãi hương sắc, vẻ đẹp của trần gian để đắm mình tận hưởng sự ưu ái, sự ban tặng của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, hàm súc cùng với điệp từ “tôi muốn” làm bật lên cái tôi cá nhân mạnh mẽ, cho thấy ông là một con người yêu say đắm thiên nhiên, yêu cái đẹp bình dị, say mê và trân trọng cuộc sống vô cùng. Từ ước muốn dạt dào, tác giả dùng con mắt và tâm hồn thi nhân để khám phá vẻ đẹp của tạo hóa với tâm trạng hân hoan, sung sướng. Xuân Diệu ông tìm thấy vẻ đẹp ở ngay tại đây, tại khoảnh khắc này đó là thực tại, là cuộc sống trần gian với sắc xuân của thiên nhiên căng tràn nhựa sống: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” Với điệp từ “này đây” được sử dụng nhà thơ lần lượt liệt kê từng hình ảnh cụ thể, rõ ràng của mùa xuân với cảm xúc vui sướng trước sự phong phú mà cuộc đời ban tặng. Đó là ong bướm với tuần tháng mật là tuần đầu tiên tận hưởng hạnh phúc của đôi vợ chồng mới cưới; là màu xanh mướt của hoa ở đồng nội; là lá của cành non tơ, phơ phất, mềm mại, uyển chuyển; là âm thanh của tiếng chim yến anh_loài chim tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Cuộc sống trong cảm nhận của tác giả đẹp kiều diễm với ánh sáng “chớp hàng mi”, người ta vui vì thần Tài gõ đến nhà còn với Xuân Diệu mỗi ngày của ông đều có “thần Vui hằng gõ cửa”. Mỗi ngày sống là trọn niềm vui. Tháng giêng_ tháng đầu tiên của mùa xuân, tháng khởi đầu của một năm. Nhắc đến mùa xuân là nhắc đến tuổi trẻ của đời người. Tháng giêng được thi sĩ so sánh thật độc đáo với “cặp môi gần”. Khác với thời kì trước thơ ca không nhắc đến hình ảnh thực trên cơ thể con người nhưng Xuân Diệu lại mạnh dạn thể hiện nó trong ý thơ của mình. Nhà thơ luôn nhìn vẻ đẹp của mùa xuân với con mắt của kẻ say tình. Tính từ “ngon” được sử dụng đã biến Tháng giêng vô hình hiện lên là một vật thể hữu hình với bao sức hấp dẫn, cuốn hút, quyến rũ. Câu thơ được coi là sáng tạo chỉ riêng Xuân Diệu mới có đồng thời nó cũng đổi mới về thi pháp. Nếu như trong thơ ca trung đại các tác giả thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp của con người_ người ta gọi đó là bút pháp ước lệ tượng trưng, ta thấy hiện lên rõ nét nhất khi Nguyễn Du tả nhan sắc của chị em Thúy Kiều là “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, là “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” còn Xuân Diệu thì ngược lại lấy ông con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp thiên nhiên. Đây là một cách tân độc, lạ để làm nổi bật lên tư tưởng mới mẻ, tiến bộ của “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Theo Xuân Diệu khoảng thời gian đẹp nhất của đời người là tuổi trẻ, giá trị lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. Ông đã từng phải thốt lên rằng: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không thương, không NGỮ VĂN 11 | 21
  22. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 nhớ một kẻ nào”. Cuộc đời của ông luôn tràn ngập tình yêu tuổi trẻ, tình yêu cuộc sống. Tác giả tập trung lắng mình để cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên khi xuân sang bằng tất cả các giác quan của mắt, tai, miệng và trái tim yêu tha thiết cuộc đời với hương vị tình yêu. Ta có thể hình dung nhà thơ đang đứng giữa đất trời dang rộng đôi tay và mở toang tầm hồn muốn ôm trọn, muốn đón nhận tất cả sức sống dào dạt của thiên nhiên. Thi nhân yêu tha thiết cái đẹp để rồi bồi hồi, tiếc nuối: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân” Dấu chấm giữa dòng ngắt đôi câu thơ thành hai vế với hai trạng thái cảm xúc khác nhau, tạo cảm giác hụt hẫng nó như một bản lề khép hờ vừa chốt lại tình yêu thiên nhiên say đắm, vừa mở ra những băn khoăn, trăn trở ở phía sau. Tác giả không phải chờ đến khi có nắng hạ mới hoài xuân mà ngay lúc ông đang ở trong mùa xuân, đang sung sướng tận hưởng xuân sang vẫn nuối tiếc khi ông nhận ra quy luật của tự nhiên: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” Đoạn thơ cho thấy quan niệm mới mẻ trước Xuân Diệu chưa từng có, chưa từng xuất hiện trong văn học khác với quan niệm truyền thống của thơ ca trung đại cho rằng thời gian tuần hoàn, xoay tròn, không bị mất đi mà quay trở lại nguồn gốc ban đầu. Đối với Xuân Diệu thời gian trong thơ ông là sự tuyến tính một đi không trở lại điều đó được thể hiện qua các cặp từ trái ngược nhau: “tới-qua”, “non-già” tô đậm sự trôi chảy mãi mãi ngay cả khi nó vừa mới bắt đầu, ngay cả khi nó vẫn đang hiện hữu tồn tại. Mùa xuân ở đây là mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của tuổi trẻ. Tuổi trẻ là quãng thời gian tươi đẹp, ý nghĩa, hạnh phúc nhất của đời người. Câu thơ mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc tác giả như muốn gửi gắm lời nhắn nhủ đến bạn đọc hãy biết trân trọng từng khoảnh khắc của thời gian, nhất là mấy năm ngắn ngủi thanh xuân, khoảng thời gian ấy ta có sức khỏe, có ý chí, có niềm tin và có cơ hội để thử thách bản thân, để cho mình “được thất bại” để thấy cuộc đời có ý nghĩa vô cùng đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.” Nhận thức được quy luật ấy ông tiếc nuối: “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” Thời gian của trời đất vẫn còn đó đến rồi lại đi nhưng thời gian của tuổi trẻ xa mãi xa, nhà thơ nuối tiếc nên nhìn mọi cảnh vật ông cũng thấy thấm đượm sự chia ly, từ biệt là mùi tháng năm, là lời than thầm tiễn biệt của sông núi, là con gió thì thào với lá biếc, là nỗi hờn vì sắp phải bay đi, là tiếng chim bỗng đứt tiếng reo thi vạn vật luôn luôn phải đối mặt với sự tàn phá của thời gian. Ngay trong phút giây hạnh phúc vẫn ngầm có sự chia li, “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”. Tất cả các sự vật trong cái nhìn của nhà thơ đều được nhân hóa hiện hữu lên như con người có cảm xúc biết buồn vui, tủi hờn, đều biết lo sợ bởi khoảnh khắc qua đi của mùa xuân. Nên kết thúc cho mạch cảm xúc của khổ thơ thán từ ôi và dấu chấm than, cùng với dấu ba chấm biểu đạt ý chưa nói hết thể hiện tâm trạng nuối tiếc đến tột cùng của tác giả: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa ” Khép lại đoạn thơ cũng như mạch cảm xúc bâng khuâng, lưu luyến tác giả khi đã nhận thức sâu sắc, mới mẻ về NGỮ VĂN 11 | 22
  23. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 thời gian của tuổi trẻ cho thấy cái tôi cá nhân Xuân Diệu luôn mang đầy ám ảnh về sự trôi chảy của thời gian. Tưởng chừng như đã khép lại mạch cảm xúc nhưng sau nỗi buồn đó là tình yêu cuộc sống mãnh liệt, là sự hối thúc, giục giã chúng ta: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Ta đã từng bắt gặp nhịp điệu ấy, lời thúc giục ấy trong hai câu mở đầu bài thơ “Giục giã” của Xuân Diệu: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em em ơi! Tình non đã già rồi”. Đến đây tác giả muốn ôm trọn, muốn hòa mình tan chảy vào vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời để tận hưởng vĩnh viễn, mạch thơ đang băn khoăn, buồn tủi bỗng bừng lên, tươi vui với hình ảnh sống động: “Ta muốn ôm Cho no nê thanh sắc của thời tươi” Nếu ở hai khổ thơ đầu tác giả liên tiếp xưng tôi và sử dụng điệp từ “tôi muốn” thì đến với khổ thơ cuối nhà thơ đổi cách xưng hô từ tôi sang ta, với điệp từ “ta muốn” và sự đan xen câu thơ ba chữ “Ta muốn ôm” tạo nên sự tăng tiến càng lúc càng cao trào của nhịp điệu, hình ảnh thơ. Đổi cách xưng hô như vậy một mặt thay đổi hệ thống cảm xúc, một mặt thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Xưng tôi là để đối thoại với mọi người, xưng ta là để đối thoại với tất cả sự sống cho thấy khao vọng sống, khao khát yêu thương và tận hưởng mãnh liệt của thi nhân. Điệp khúc “ta muốn” với nhịp điệu nhanh, gấp và cách sử dụng động từ trạng thái tăng tiến từ mạnh đến nhẹ: ôm, riết, say, thâu như nhà thơ đang giục giã chính mình và giục giã chúng ta hãy cố gắng từng giây phút để tận hưởng sự ưu ái mà tạo hóa ban tặng cho cuộc đời của mỗi con người, để thấy rằng cuộc sống tươi đẹp và ý nghĩa vô cùng. Tuy nhiên vội vàng sống, vội vàng tận hưởng ở đây mang ý nghĩa tích cực vừa làm, vừa sống, vừa hưởng chứ không phải là lối sống thụ động chỉ biết hưởng thụ, trông chờ, ỷ lại vào người khác mà lười lao động, sống lối sống vị kỉ cá nhân. Đó là lối sống thực dụng, vô nghĩa không giống như ý thơ của thi sĩ bởi theo Xuân Diệu đó là: “Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn!/ Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan” Từng khoảnh của tuổi trẻ cứ qua đi con người ta lại càng nuối tiếc cho điều đó để rồi nhà thơ phải thốt lên: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Đây cũng là một ý thơ rất độc đáo thể hiện cho ý muốn táo bạo của tác giả bật lên nỗi khát khao cháy bỏng, muốn chiếm trọn tất cả giữ lấy cho riêng mình mùa xuân của tuổi trẻ, muốn tận hưởng một cách nhục cảm chân thực nhất về hương vị cuộc đời. Bài thơ đã khép để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả đó là sự chiêm nghiệm về thời gian, về tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ muốn dành lời khuyên cho các bạn trẻ hãy biết quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời, hãy biết sống để yêu thương và cống hiến làm đẹp cho đời, góp công sức cho công cuộc phát triển đất nước đừng để tuổi trẻ qua đi một cách lãng phí, vô bổ. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị của nó bởi ý thơ sâu sắc đến từng con chữ. Như vậy với sự cách tân nghệ thuật và sự thay đổi quan niệm mới mẻ, táo bạo cùng với trí tưởng phong phú, tác giả đã để lại cho đời một tác phẩm giàu triết lí sống, dạt dào quan niệm nhân sinh. “Vội vàng” là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống mãnh liệt khiến cho không ít người phải ngỡ ngàng về tuyên ngôn thời gian và tuổi trẻ của Xuân Diệu. Bài mẫu 3: Nếu như trong thơ Huy Cận đầy những hình ảnh không gian thì trong thơ Xuân Diệu lại là cái vội vàng, giục giã trong nhịp điệu của thời gian, như một đại lượng lăng trụ vừa “thổi tình yêu lên NGỮ VĂN 11 | 23
  24. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 phơi phới”, lại vừa “từng giọt từng giọt” làm mất đi những gì là đẹp nhất mà tạo hoá ban tặng cho con người, “hết ngày hết tháng em ơi! – kinh hãi không gian quặn tiếng còi”. Bởi thế thời gian là nỗi ám ảnh trong thơ Xuân Diệu. Cảm thức thời gian đã làm Xuân Diệu – một ông hoàng của thơ tình, triết lí về một quan niệm sống, không phải là sống gấp mà đầy giá trị nhân văn, một “thơ tặng bạn bây giờ”, một tình mai sau, một giục giã và ở đây là “Vội vàng”. “Vội vàng” đã gắn liền với triết lý thời gian ấy. Chỉ có điều những câu thơ triết lý này lại được thể hiện bằng một tình yêu cháy bỏng với cuộc đời, bằng sự cảm nhận vô cùng tinh tế, tinh vi của Xuân Diệu. “Vội vàng” đã được mở đầu bằng những câu thơ hết sức cô đọng, hàm xúc như một tuyên ngôn cho khát vọng sống của nhà thơ: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Đó là điều khát khao cuồng nhiệt của hồn thơ luôn khao khát sống, sống mãnh liệt từ một tình yêu đến bồng bột đối với thiên nhiên tạo vật cũng như đối với con người. Câu thơ tưởng như hết sức mộc mạc giản dị nhưng sức lay động tâm hồn thật lớn bởi nó khơi dậy tình yêu của tuổi trẻ nói riêng và khát vọng của con người nói chung. Không chỉ điệp từ “tôi muốn” như tiếng nói của mỗi cá nhân vang lên giữa cuộc đời khi mơ ước muôn thưở của con người bật ra thành tiếng, mà còn là sự sử dụng những động từ chỉ hành động mạnh mẽ dứt khoát như “tắt, buộc”. Cái cuồng nhiệt trong tình yêu của con người là ở sự tương phản giữa hành động cụ thể lại hướng tới cái trìu tượng, đó là hành động “tắt nắng, buộc gió”. Khát vọng của con người như muốn “tắt nắng buộc gió” đâu phải bắt nguồn từ sự tham sống mà là ham sống, “ham yêu” để vĩnh viễn hoá tuổi trẻ tình yêu, để mãi mãi tận hưởng hương sắc của thiên nhiên tạo vật của cuộc đời. Và nói như Xuân Diệu là để “màu đừng nhạt mất”, “hương đừng bay đi”. Đó là màu, là hương của thế giới xung quanh mà cũng là của chính mình. Chưa ở đâu trong thơ Xuân Diệu khát vọng đối với tuổi trẻ, tình yêu lại trở thành một tuyên ngôn mãnh liệt đến thế. Con người muốn chế ngự cả thiên nhiên. Những chữ “mất đi” tuy thế vẫn gợi một sự tiếc nuối trong tâm trạng của nhà thơ, những tiếc nuối thổi bùng lên thành trạng thái cảm xúc sôi nổi bồng bột và nhiệt cuồng. “Vội vàng” đã dành một phần hết sức quan trọng, những câu thơ hết sức mới mẻ, tinh tế của Xuân Diệu để dựng lên bức tranh của một cõi vườn trần đầy sức sống của mùa xuân, một thế giới với những tiếng than thầm tiễn biệt để cắt nghĩa bằng niềm xúc động của tâm hồn Xuân Diệu. Ở một cõi vườn trần trong thơ Xuân Diệu như giục giã sự sống của muôn loài. Bằng một sự gắn bó thiết tha với cuộc sống, bằng một khát vọng được hoà nhập với đời trong những tình cảm nồng nàn, sôi nổi nhất, Xuân Diệu đã dựng lên trước mắt người đọc cả một thế giới đầy sức xuân với những giao hoà, giao cảnh, cho nên thế giới ấy tràn đầy hương sắc, tràn đầy âm thanh và ánh sáng, rạo rực những bướm ong say đắm khúc tình si của yến oanh, sự sống dâng đầy lên trong đầu cành ngọn lá. Cả một cõi vườn trần trong sức sống mãnh liệt như đang “bày” ra trước mắt người đọc bởi những chữ “của”, “này đây”, nhà thơ như chào, như mời chân thực nồng nàn và tha thiết. NGỮ VĂN 11 | 24
  25. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Trong cõi vườn trần ấy cuộc sống là “tuần tháng mật”, là mùa xuân vĩnh viễn của ong bướm, của lá non lộc biếc. Sức sống từ hồn thơ Xuân Diệu như trào ra từ từng chữ, từng chữ. Nhà thơ đã lấy sự sống của con người, khát vọng của con người làm chuẩn mực cho sự sống của vũ trụ. Cho nên, mùa xuân là “tuần tháng mật” của ong bướm, tiếng hát của yến oanh, là một khúc tình si, ngay cả tia sáng mặt trời buổi sáng cũng trở thành hàng mi người thiếu nữ và mỗi ngày đến với sự đánh thức của thần Vui đối với cuộc sống con người. Ai cũng biết dường như chỉ đến Xuân Diệu, cái đẹp con người mới trở thành chuẩn mực của tạo hoá. Giá trị nhân văn của t/p cũng có thể ở sự đề cao vẻ đẹp ấy của con người. Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc một cái nhìn xanh non đối với thế giới xung quanh, đem đến cho con người tình yêu, sự gắn bó đối với cuộc đời. Chính Xuân Diệu cũng từng viết: “Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn Làm dây da quấn quýt cả mình xuân Không muốn đi ở mãi mãi vườn trần Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất”. Hình ảnh một cõi vườn trần như thế chính là sự cắt nghĩa cho quan niệm sống giục giã vội vàng của thi nhân. Lẽ nào trước một cuộc sống xanh tươi mơn mởn đầy màu sắc hương thơm và ánh sáng với những khúc tình si, với “niềm vui” như thế mà con người lại có thể để cho nắng cho gió làm phai nhạt, làm bay đi tất cả sao. Con người cần phải biết tận hưởng vì đó là vẻ đẹp, là sức sống mà tạo hoá đã ban cho. Về phương diện nghệ thuật, có thể thấy Xuân Diệu không chỉ đem đến cho câu thơ của mình những so sánh độc đáo qua các hình ảnh “tuần tháng mật”, “khúc tình si”, “ánh sáng chớp hàng mi” mà còn là những cảm giác hết sức mới lạ, chưa từng thấy trong thơ, như “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Thời gian như được vật thể hoá vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân có thể cảm nhận bằng vị giác để biết tháng giêng ngon như thế nào. Tuy nhiên, cảm xúc về thời gian đã khiến niềm vui của Xuân Diệu đâu được trọn vẹn. Cho nên, giữa niềm say mê trước một “cặp môi gần” nhà thơ bỗng giật mình thoảng thốt.: “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa”. Nó nhắc nhở thi nhân cái “phũ phàng” của thời gian. Nhà thơ vội lên tiếng “tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Trong cái giật mình thảng thốt kia Xuân Diệu bỗng nhớ mùa xuân ngay giữa mùa xuân. Câu thơ “tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa” đã như một sự chuyển dòng đột ngột của cảm xúc. Từ niềm vui, niềm sung sướng, niềm hạnh phúc tràn trề trong tâm hồn nhà thơ bỗng trở NGỮ VĂN 11 | 25
  26. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 nên suy tư khi lắng nghe nhịp bước của thời gian. Nỗi buồn chia li mỗi lúc trở nên một sâu sắc trong cõi lòng thi nhân. Cả một đoạn thơ tiếp theo, từ câu thơ “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua” cho đến câu thơ “mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm” là đoạn thơ hay chính là nhịp điệu của thời gian. Lời thơ hay chính là tiếng thở dài của một linh hồn cô đơn trước những tiếng than thầm tiễn biệt của thiên nhiên tạo vật, của con người đang lan ra “khắp sông núi”. Những câu thơ tràn đầy xúc cảm của một tình yêu mãnh liệt bỗng trở thành những câu thơ đậm một màu sắc triết lý “xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua”, “xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Cái bồng bột của một tâm hồn đương thời sôi nổi, của một trái tim vừa độ vang ngân bỗng trở thành những lời lý giải như của một triết gia. Những chữ “nghĩa là” như xoáy vào suy tưởng của nhà thơ một niềm tiếc nhớ. Những cặp từ “tới – qua”, “non – già” tiếp nối nhau có tác dụng tương phản ấy đã tạo nên ấn tượng về sự chuyển biến của thiên nhiên taọ vật trên dòng thời gian. Đó là sự tương phản bật ra trên dòng thời gian. Đó là sự tương phản bật ra từ những nhận thức sâu sắc về một hiện thực không thể phủ định. Vì thế sau những thức nhận ấy là một tiếng thơ mang nặng nỗi buồn “mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”, nhà thơ không chỉ buồn, không chỉ nhớ tiếc mà còn oán trách cái nghiệt ngã của tạo hoá: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian” Từ oán trách đến đay nghiến cả tạo hoá lẫn cuộc đời: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Những câu thơ triết luận như thế vẫn ẩn chứa trong đó biết bao cảm xúc của nhà thơ. Xuân Diệu triết lí một cách hết sức biện chứng nhưng cũng triết lý một cách hết sức tình cảm. Đằng sau triết lý về thời gian là cả một nỗi buồn muôn thủa của con người, cái buồn từ sự hữu hạn của con người trên dòng vô hạn vô thuỷ vô chung, nhà thơ đang sống vì tiếc thời gian làm cho phai tàn tất cả. Khi “cái bay không đợi cái trôi” thì “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi” cho nên Xuân Diệu buồn, Xuân Diệu cần phải sống vội vàng và gửi đến người đọc cái thông điệp về một quan niệm sống như vậy. Từ cái nhìn đối với cuộc sống của con người, Xuân Diệu muốn chứng minh đâu chỉ có con người mới buồn trước những li biệt bởi thời gian. Xuân Diệu với những câu thơ tinh tế của mình đã làm hiện ra cả một thế giới đang ngập trong nỗi buồn chia li ấy. Người ta có thể nếm được vị chia phôi trên dòng thời gian ấy, người ta có thể lắng nghe được trước cái im lặng của thiên nhiên tạo vật, nỗi sợ hãi của muôn loài trước cảnh vật biệt li của thời gian. Cơn gió, tiếng chim hót đều như muốn ngừng lại, bặt đi khi nhận ra thời gian đang trôi. Xuân Diệu đã mô tả trạng thái ấy của thiên nhiên tạo vật và những cảm xúc mới, những lời thơ rất lạ. Trước một câu thơ có thể diễn tả những trạng thái, những cảm xúc của những giác quan khác nhau trước cùng một đối tượng. Thời gian vốn là cái vô hình mà Xuân Diệu có thể nhận biết được mùi thời gian, có thể thấy được vị chia phôi lại có thể thấy được cả nỗi đau vật chất như một vết cứa trên da thịt, trên một chữ “rớm”. Ngọn gió NGỮ VĂN 11 | 26
  27. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 cũng được vật thể hoá thành cơn gió xinh. Tiếng gió được nhân hoá thành những lời tâm tình qua hai chữ “thì thào”, thậm chí cả tiếng chim hót cũng đã được tâm trạng hoá để mang nỗi niềm của con người. Đâu phải ngẫu nhiên người ta coi Xuân Diệu là “mới nhất trong những nhà thơ mới”. Xuân Diệu tạo ra cả một thế giới ngôn ngữ rất có hồn. Mỗi chữ đều như gieo vào lòng người cái hơi thở rạo rực ngay cả trong trạng thái buồn thương từ trái tim nhà thơ hay nói một cách khácmỗi chữ đều mang nhịp đập của trái tim. Trước những nhận thức về sự li biệt của tất cả thế giới trên dòng thời gian, buồn đấy thương đấy nhưng Xuân Diệu không đầu hàng thời gian. Những câu thơ đầy giục giã đã làm cho hơi thở như bừng lên. Đã hơn một lần Xuân Diệu từng viết những chữ “mau với chứ vội vàng lên chứ” để bây giờ ở đây ta lại thấy cái giục giã ấy “mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”. Đó là sự giục giã của sự sống, của tình yêu một sự giục giã để con người có thể tận hưởng tuổi trẻ của mình. Hai đoạn thơ là thế giới tương phản lẫn nhau: một thế giới tràn đầy niềm vui niềm giao cảm của một cõi vườn trần và một thế giới đầy những chia li với những tiếng thở dài, những lời oán trách. Nhưng đó lại là chính lời cắt nghĩa lý giải về quan niệm sống của nhà thơ. “Vội vàng” của Xuân Diệu sau những câu thơ đầy màu sắc để lý giải cho quan niệm sống đầy tinh thần nhân văn của mình là những dòng thơ hết sức sôi nổi thể hiện một trạng thái cảm xúc mãnh liệt, những câu thơ đúng với Xuân Diệu từng nói “đấy là mùa xuân của tôi mà cũng là sự sống của tôi nữa Tôi tặng cho những người trẻ tuổi nhất là trẻ lòng”. Đó là những câu thơ thể hiện những khát vọng đến cháy bỏng của một niềm ham sống. Nếu như mở đầu bài thơ t/g khiêm tốn thể hiện cái mong muốn của mình trong một chữ “tôi” thì ở đây cái “tôi” ấy đã được khẳng định cái ta khi nhà thơ viết “ta muốn”. Hai chữ “ta muốn” như một điệp khúc vang lên mạnh mẽ cái khát vọng sống của con người. Cái khát vọng sống ấy là khát vọng tận hưởng tất cả những gì đẹp nhất thiên nhiên ban cho. Đó là “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, là đất trời rộng lớn với “mây đưa và gió lượn”, là vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật như cánh bướm, như tình yêu và cả non nước, cả cây và cỏ dại, là men say và là cả mùa xuân Ngỡ như Xuân Diệu ham sống là để thoả mãn cái “tôi” cá nhân của mình mà thực ra là một tình yêu lớn đối với cuộc đời, với cả vũ trụ bao la cả đất trời tươi đẹp, cả non nước và ánh sáng Sự nồng nhiệt đến vô cùng của niềm khát khao ấy lại được thể hiện bằng những từ như “chếch choáng”, “đã đầy” và đặc biệt là hệ thống động từ biểu cảm nối tiếp nhau: ôm, riết, say, thâu, hôn để rồi cuối cùng là một động từ biểu hiện niềm khát khao mãnh liệt nhất trong tận hưởng cái đẹp của cuộc đời đó là động từ “ cắn ” trong câu thơ: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Đó là niềm khát vọng hoà hợp giao cảm đến tột cùng của Xuân Diệu đối với cuộc đời. Sử dụng động từ này ta thấy mạch cảm xúc của Xuân Diệu là nhất quán. Bởi Xuân Diệu đã từng nói với mùa xuân, nói với tháng giêng ngon như một cặp môi gần thì cái lẽ tất yếu ở đây là một cảm xúc như vậy. NGỮ VĂN 11 | 27
  28. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Bài mẫu 4: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên . và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’’. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc. Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ. Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. NGỮ VĂN 11 | 28
  29. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây là cửa cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Vày đây Này đây Này đây Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp. Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lác biếc Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốm ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn NGỮ VĂN 11 | 29
  30. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồngg, ta muốn cắn vào người. Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có. Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam. (Trích: Bài làm của học sinh giỏi ở Nam Định). Bài mẫu 5: Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình với nhiều bài thơ thể hiện tình cảm yêu thương mãnh liệt. Nhắc tới thơ Xuân Diệu thì không thể không nhắc tới bài thơ Vội Vàng. Bài thơ Vội Vàng với lời thơ tha thiết, mang nhịp điệu nhanh tạo nên một hình dung về sự vội vàng, gấp gáp của con người đang chìm đắm trong tình yêu. Tình cảm ấy được thể hiện ngay ở những vần thơ đầu tiên: “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Lời thơ bộc lộ nên một cái “tôi”đầy mãnh liệt, đầy những khát khao cháy bỏng. Những khát khao của cái tôi ấy lại vô cùng đặc biệt và mang theo cả sự phi lý. Đó là muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió lại”. Như chúng ta đã biết nắng và gió là hai hiện tượng tự nhiên, ấy vậy mà tác giả lại muốn điều khiển, chế ngự nó, muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên. Thông qua đó ta hiểu được nhà thơ giống như một người tự do, tự tại và làm theo những gì mình muốn chứ không muốn tuân theo những vận động của NGỮ VĂN 11 | 30
  31. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 tự nhiên, theo lẽ thường. Tuy nhiên cũng phải đặt ra một câu hỏi đó là tại sao tác giả lại muốn như vậy? Bởi vì thi sĩ Xuân Diệu đã có nhận thức sâu sắc về những vật tồn tại trong tự nhiên, ông hiểu được rằng màu có đẹp nhưng rồi cũng sẽ phai nhạt, hương có thơm nhưng cũng đến lúc bay hết đi. Trước cái lẽ đó nên tác giả muốn đi ngược lại với tự nhiên, muốn níu giữ lại những gì đẹp đẽ nhất. Đó chính là khát khao cháy bỏng của người thi nhân. Từ cái khát khao ấy, mạch cảm xúc được chuyển rời sang một bức tranh tình yêu tràn đầy màu sắc và vui tươi: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa” Mỗi một câu chữ như được thổi hồn khiến chúng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn bao giờ hết. Từng hình ảnh thiên nhiên tươi vui, đầy sắc màu được hiện lên kết hợp với điệp từ “này đây” như một cách liệt kê, kể lể, lại mang theo nhịp điệu nhanh, tươi vui. Qua đó bộc lộ niềm hân hoan, vui sướng của tác giả đang chìm đắm giữa khung cảnh thiên nhiên ấy. Trong khung cảnh đó có ong bướm, có hoa cỏ, rồi có những tiếng ca từ tự nhiên vang lên giống như một “khúc tình si” của người đã và đang được yêu. Không chỉ có cảnh, có âm thanh mà còn có ánh sáng, ánh sáng khi mà sớm mai thức giấc, khi ta mở mắt cũng chính là lúc ta thấy được. Đối với người đang yêu thì còn gì vui sướng hơn khi sớm mai thức giấc ánh nắng chan hòa, khi mà cảm nhận được niềm vui giống như một vị thần gõ cửa cho ta thức giấc, cho ta trải nghiệm một ngày mới. Bức tranh cảnh vật đầy hứa hẹn về tương lai và hạnh phúc. Khác với những nhà thơ cùng thời khi mang “nỗi buồn thế hệ”, họ tìm những nơi tiên cảnh xa vời thực tế nhưng Xuân Diệu lại không giống vậy. Thi sĩ đã tìm được chốn thiên đường ngay tại mặt đất này. Với ông cuộc đời này đầy rẫy những điều đáng yêu, thú vị mà ta có thể kiếm tìm và tận hưởng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Một câu thơ đầy gợi cảm. Như chúng ta đã biết mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm nhưng Xuân Diệu chỉ nhắc tới tháng giêng, một tháng mở đầu cho một năm, cho mùa xuân và cũng đồng thời là thời gian mà vạn vận tươi tốt, căng tràn sức sống. Cây cối đâm chồi nảy lộc, cỏ cây tươi tốt và con người giữa thiên nhiên ấy cũng mang dáng vẻ trẻ trung, yêu đời, mang theo một niềm yêu sống, thiết tha với đời. Thiên nhiên tươi đẹp ấy được ví với “cặp môi gần” mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong thơ xưa thì thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp nhưng với Xuân Diệu thì con người mới là chuẩn mực của cái đẹp. Con người đang trong độ đẹp nhất, căng đầy sức sống nhất. Câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, thể hiện khát vọng của tác giả, khao khao tình, yêu, khát khao hạnh phúc một cách táo bạo. Nhận thấy cái đẹp ở ngay trần thế đồng thời thi sĩ cũng cảm nhận được sâu sắc cái hữu hạn của mùa xuân: “Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất” Những khát khao giao cảm với đời nhưng đồng thời cũng thấy được cuộc sống này tươi đẹp nhưng cũng chứa những bi kịch mà chúng ta sẽ gặp phải. Ông chứng kiến sự thay đổi, vận động của thời gian. Thời gian trong quan niệm trước kia thì thời gian là tuần hoàn, là sự lặp đi lặp lại nhưng giờ đây thời gian được quan niệm là tuyến tính, là một đi không trở lại. Nhận thức được sự ngắn ngủi của thời gian khiến thi sĩ cảm thấy hốt hoảng và cần phải vội vã, nhanh chóng tận hưởng hết những gì tươi đẹp nhất của đời người. Chính vì thế thơ của ông lúc nào cũng giục giã, cuống quýt: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” NGỮ VĂN 11 | 31
  32. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 Sang đến khổ thơ cuối thì giọng thơ càng trở nên gấp gáp, vội vàng bởi chính Xuân Diệu đang sợ rằng thời gian trôi đi quá nhanh, ông không muốn đến khi “nắng hạ mới hoài xuân” mà muốn trân trọng ngay từ những giây phút ông nhận ra sự hữu hạn của thời gian với mỗi đời người: “Ta muốn ôm! Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thây trong một cái hôn nhiều” Chữ “ôm” được nhà thơ sử dụng như thể hiện khát khao ôm trọn cả “sự sống”, ôm đồm hết những gì xung quanh để giữ lại chúng. Cuộc sống “mơn mởn” tươi xanh, nó rất đẹp, rất tươi mới khiến cho lòng người khao khát níu giữ. Điệp từ “ta muốn ôm” đã thành công bật lên ham muốn cháy bỏng của tác giả. Đó chính là một tâm hồn thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt. Và dường như thi sĩ đang hạnh phúc, đang sung sướng đến nỗi thốt lên một câu thơ đầy tính gợi cảm, biểu tượng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” Mùa xuân, mùa đẹp nhất, là thời điểm giống như một trái chín trải qua thời gian hình thành và phát triển đã đạt đến độ chín mọng. Nó giống như mời mọc, thôi thúc ta dẫn tới hành động “muốn cắn vào ngươi”. Qua bài thơ Vội Vàng, có thể thấy trí tượng tưởng rất táo bạo và mới mẻ của Xuân Diệu. Ông không chỉ sống hết mình với thiên nhiên, ca ngợi thiên nhiên mà còn thông qua nó để đưa ra lời khuyên, lời cảnh tỉnh cho thế hệ trẻ cần phải biết trân trọng tuổi trẻ, trân trọng khi mình còn được tồn tại trên mặt đất này và sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội, sống tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khác tươi đẹp của cuộc sống. Bài thơ Vội Vàng của nhà thơ Xuân Diệu mang một màu sắc rất riêng với ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của một thi sĩ luôn khát khao giao cảm với đời, một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Loan Trương V. TỔNG HỢP MỘT SỐ MỞ BÀI HAY Mở bài 1: Trước cách mạng, Xuân Diệu đã hơn một lần tâm sự: “Tôi sợ mất sự sống của tôi, tôi không muốn nó rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng” (Lời đưa duyên - 1945) và “Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng, thời gian của tôi sẽ không còn nữa” (Thương vay - 1939). Quả thực, Xuân Diệu là một “nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” như Hoài Thanh đã từng nhận định. Với trái tim nóng hổi, luôn bồi hồi, rạo rực cảm giác được sống mãnh liệt và yêu cuồng say. Xuân Diệu đã từng viết rất nhiều bài thơ nói lên khát vọng của mình. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của hồn thơ Xuân Diệu là bài thơ “Vội vàng” in trong tập “Thơ Thơ” (1938). Tác phẩm được viết ra trong niềm lo âu về sự trôi chảy của thời gian, là tiếng nói của một tâm hồn yêu sống, ham sống, khát sống, một quan niệm nhân sinh quan mới mẻ mà ở đó ta được sống trọn vẹn từng khoảnh khắc tươi đẹp qua con mắt tinh tế và sự cảm nhận độc đáo của nhà thơ. Mở bài 2: Sự sống trần thế là một thế giới hấp dẫn và huyền diệu, khiến người ta không thể dửng dưng, thơ ơ mà luôn phải “Vội vàng”, phải mở hết tất cả mọi giác quan và cả lòng mình ra mà sống, “Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/Sống toàn thân và thức nhọn giác quan” với nó. Có một nhà thơ đã sống như thế, sống hết mình và trân trọng những phút giây quý báu của cuộc đời. Không ai khác chính là nhà thơ Xuân Diệu - một hồn thơ yêu đời và ham sống mãnh liệt nhất trong các nhà thơ trước cách mạng. Dưới cặp mắt xanh non, ngơ ngác và đầy vui sướng. Xuân Diệu đã viết lên “Vội vàng” (1938). Bài thơ là tiếng nói sôi nổi, hăm hở của tâm hồn nhà thơ trước cuộc đời mà chứa đựng đằng sau những tình cảm ấy là cơ sở ý thức về một quan niệm nhân sinh - vũ trụ mới mẻ chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Mở bài 3: NGỮ VĂN 11 | 32
  33. SỔ TAY VĂN HỌC – PHƯƠNG PHÁP ÔN VĂN THÔNG MINH THỜI 4.0 Thơ xuân vốn là truyền thống của làng thơ ca Việt Nam vì đã từng đi qua ngòi bút của rất nhiều tác giả từ Cổ tới Kim. Mỗi bài thơ là một nét xuân riêng luôn khơi gợi những cảm xúc mới mẻ trong lòng người đọc. Trong phong trào thơ mới vào những năm 1932-1945 các nhà thơ mới cũng không nằm ngoài cái thông lệ ấy khi khai thác đề tài mùa xuân và viết lên những vần thơ đi sâu vào lòng người đọc. Đến với Hàn Mặc Tử là đến với những cung bậc cảm xúc lúc dào dạt, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ, có lúc lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ, có lúc vật vã, có lúc mênh mang qua “Mùa xuân chín”. Nguyễn Bính cũng độc đáo không kém khi cho rằng “mùa xuân là cả mùa xanh” căng tràn sự sống, nồng nàn hơi thở tình yêu. Thế nhưng, Xuân Diệu rất riêng khi đã đem vào cái mùa xuân ấy tất cả những cái rạo rực, cái đắm say, cái nồng nàn của tình yêu khi viết lên “Vội vàng” in trong tập “Thơ Thơ” 1938. Đây là một tác phẩm tiêu biểu trong phong trào thơ mới đã góp phần đưa tên tuổi của Xuân Diệu bay cao trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Qua sức sống căng tràn của mùa xuân, Xuân Diệu đã bày tỏ tấm lòng gắn bó khát khao yêu đời, say mê, cuồng nhiệt, vội vàng về thời gian và ý thức sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trong cuộc đời. Mở bài 4: Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Trước cuộc đời, thơ Xuân Diệu luôn là “một nguồn sống rạo rực chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này”. Viết về cuộc đời, về sự sống, thơ ông cũng có những cảm xúc rất đặc biệt “khi vui tươi cũng như khi buồn, thơ ông đều nồng nàn tha thiết”. Quả thực đúng vậy, cảm xúc về cuộc đời được Xuân Diệu thể hiện rất rõ nét qua bài thơ “Vội vàng” in trong tập “Thơ Thơ” (1938). Sự gắn bó sâu sắc với cuộc đời và sự sống trần thế của hồn thơ ấy đã được thể hiện một cách khá sinh động, độc đáo qua những cảm xúc thơ nồng nàn, da diết, những tình cảm mới mẻ về cuộc đời và thiên nhiên, về tuổi trẻ và tình yêu, về thời gian và ý thức sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trong cuộc đời. VI. TỔNG HỢP MỘT SỐ KẾT BÀI HAY Kết bài 1: Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ củaXuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Qua những ý thơ của Vội vàng, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn lời nhận xét ấy. Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ! Kết bài 2: Với bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã phảvào nền thi ca Việt Nam một trào lưu “Thơ mới”. Mới lạnh lùng táo bạo, độc đáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. “Vội vàng” đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ Và là ham muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời “tươi non mơn mởn”. Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã với nhịp đập của thời gian. TRÀNG GIANG – HUY CẬN CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP BÀI TẬP SỐ 1 ĐỀ BÀI: Phân tích khổ 1,2 bài thơ Tràng Giang - Huy Cận NGỮ VĂN 11 | 33
  34. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NGỮ VĂN 11 HƯỚNG DẪN LÀM BÀI Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận định: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi sâu càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu”. Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian thì nhà thơ Huy Cận lại bị ám ảnh bởi bước đi của không gian. Thơ của Huy Cận hàm súc và giàu chất suy tưởng, triết lí. Tiêu biểu trong các sáng tác của ông là bài thơ Tràng giang được trích trong tập “ Lửa thiêng” (1940). Đặc biệt là hai khổ thơ trọng bài Tràng giang thể hiện nỗi buồn của thi nhân khi đứng trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn: “ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Còn thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài, trời rộng bến cô liêu” Bài thơ “ Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều khi Huy Cận cùng Tố Hữu đến ngắm cảnh ở bến Chèm. Cảnh trời rộng sông dài mênh mông, bát ngát đã tạo nên nguồn cảm hứng mãnh liệt với một nhà thơ vốn rất nhạy cảm với không gian để rồi sau đó Huy Cận sáng tác ra bài thơ này. Nhan đề bài thơ là Tràng giang có nghĩa là con sông dài – con sông Hồng ở miền Bắc nước ta. Vì sao tác giả lại đặt nhan đề là Tràng giang mà không phải là Trường giang? Phải chăng, nhà thơ không muốn có sự nhầm lẫn với một con sông ở Trung Quốc. Hơn nữa, Tràng giang xuất hiện trong một thành ngữ quen thuộc với người miền Nam “ Tràng giang đại hải”. Trong từ “ Tràng” có âm “ ang” là âm mở, điều đó gợi lên hình ảnh dòng sông không chỉ dài mà còn rộng. Ý nghĩa nhan đề của bài thơ lại càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Cả dòng thơ đã bộc lộ cảm xúc buồn nhớ của thi nhân trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Mở đầu bài thơ là cảnh tượng sóng nước mênh mông: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” Mở đầu bài thơ là hình ảnh sóng hơi gợn trên sông. Nhà thơ đã rất tinh tế khi sử dụng bút pháp liên tưởng: nhìn sóng nước nhà thơ bộc lộ sóng lòng. Câu thơ kín đáo đã gợi cho người đọc nhớ đến bài Tống Biệt Hành, nhà thơ nhìn dòng sông bộc lộ sóng lòng: “ Đưa người ta không đưa qua sông Sao có tiếng sóng ở trong lòng Bóng chiều không thắm không vàng vọt Sao đầy hoàng hôn trong mắt trông” NGỮ VĂN 11 | 34