Tác phẩm thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

doc 77 trang thaodu 6120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tác phẩm thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctac_pham_thi_vao_lop_10_mon_ngu_van.doc

Nội dung text: Tác phẩm thi vào Lớp 10 môn Ngữ văn

  1. TÁC PHẨM THI VÀO LỚP 10 PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH (Lê Anh Trà) I - GỢI Ý 1. Xuất xứ: Phong cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn hoá Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990. 2. Tác phẩm: Mặc dù am tường và ảnh hưởng nền văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới nhưng phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó được thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt của Người: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc. 3. Tóm tắt: Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra luận điểm then chốt: Phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và hiện đại, giữa vĩ đại và giản dị. Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, với những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách mạng, khả năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của Bác. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên viết: Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trình cứu nước gian khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sâu xa. Sự đối lập giữa một viên gạch hồng giản dị với cả một mùa đông băng giá đã phần nào nói lên sức mạnh và phong thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Sau này, khi đã trở về Tổ quốc, sống giữa đồng bào, đồng chí, dường như chúng ta vẫn gặp đã con người đã từng bôn ba khắp thế giới ấy: Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi, rừng núi trông theo bóng Người. (Việt Bắc - Tố Hữu) Còn nhiều, rất nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt động cũng như tình cảm của Bác đối với đất nước, nhân dân. Điểm chung nổi bật trong những tác phẩm ấy là phong thái ung dung, thanh thản của một người luôn biết cách làm chủ cuộc đời, là phong cách sống rất riêng: phong cách Hồ Chí Minh. Với một hệ thống lập luận chặt chẽ và những dẫn chứng vừa cụ thể vừa giàu sức thuyết phục, bài nghị luận xã hội của Lê Anh Trà đã chỉ ra sự thống nhất, kết hợp hài hoà của các yếu tố: dân tộc và nhân loại, truyền thống và hiện đại để làm nên sự thống nhất giữa sự vĩ đại và giản dị trong phong cách của Người. Cách gợi mở, dẫn dắt vấn đề của tác giả rất tự nhiên và hiệu quả. Để lí giải sự thống nhất giữa dân tộc và nhân loại, tác giả đã dẫn ra cuộc đời hoạt động đầy truân chuyên, tiếp xúc với văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới Kết luận được đưa ra sau đó hoàn toàn hợp lô gích: "Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh Người cũng chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hoá, đã tiếp thu cái đẹp và cái hay ". Đó là những căn cứ xác đáng để lí giải về tính nhân loại, tính hiện đại một vế của sự hoà hợp, thống nhất trong phong cách Hồ Chí Minh. Ngay sau đó, tác giả lập luận: "Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại ". Đây có thể coi là lập luận quan trọng nhất trong bài nhằm làm sáng tỏ luận điểm chính nói trên. Trong thực tế, các yếu tố "dân tộc" và "nhân loại", "truyền thống" và "hiện đại" luôn có xu hướng loại trừ nhau. Yếu tố này trội lên sẽ lấn át yếu tố kia. Sự kết hợp hài hoà của các yếu tố mang nhiều nét đối lập ấy trong một phong cách quả là điều kì diệu, chỉ có thể thực hiện được bởi một yếu tố vượt lên trên tất cả: đó là bản lĩnh, ý chí của một người chiến sĩ cộng sản, là tình cảm cách mạng được nung nấu bởi lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến và tinh thần sẵn sàng quên mình vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh là người hội tụ đầy đủ những phẩm chất đó. Để củng cố cho lập luận của mình, tác giả đưa ra hàng loạt dẫn chứng. Những chi tiết hết sức cụ thể,
  2. phổ biến: đó là ngôi nhà sàn, là chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp đã từng đi vào thơ ca như một huyền thoại, là cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, là tình cảm thắm thiết đối với đồng bào, nhất là với các em thiếu nhi cũng đã trở thành huyền thoại trong lòng nhân dân Việt Nam. Với những dẫn chứng sống động ấy, thủ pháp liệt kê được sử dụng ở đây không những không gây nhàm chán, đơn điệu mà còn có tác dụng thuyết phục hơn hẳn những lời thuyết lí dài dòng. Trong phần cuối bài, tác giả đã khiến cho bài viết thêm sâu sắc bằng cách kết nối giữa quá khứ với hiện tại. Từ nếp sống "giản dị và thanh đạm" của Bác, tác giả liên hệ đến Nguyễn Trãi, đến Nguyễn Bỉnh Khiêm các vị "hiền triết" của non sông đất Việt: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao Đây cũng là một yếu tố trong hệ thống lập luận của tác giả. Dẫu các yếu tố so sánh không thật tương đồng (Bác là một chiến sĩ cách mạng, là Chủ tịch nước trong khi Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm được nói đến trong thời gian ở ẩn, xa lánh cuộc sống sôi động bên ngoài) nhưng vẫn được vận dụng hợp lí nhờ cách lập luận có chiều sâu: "Nếp sống giản dị và thanh đạm của Bác Hồ, cũng như các vị danh nho xưa, hoàn toàn không phải là một cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác". Bài văn nghị luận này giúp chúng ta hiểu sâu thêm về phong cách của Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá của thế giới. ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH (G. G. Mác-két) I - GỢI Ý 1. Tác giả: Nhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928. Năm 1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại trường đại học Tổng hợp Bô-gô-ta và viết những truyện ngắn đầu tay. Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo nổi tiếng. Ông từng được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1982. G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhưng nổi tiếng nhất là cuốn Trăm năm cô đơn (1967) - tiểu thuyết được tặng Giải Chianchianô của I-ta-li-a, được Pháp công nhận là cuốn sách nước ngoài hay nhất trong năm, được giới phê bình văn học ở Mĩ xếp là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX. Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính: sự cô đơn - mặt trái của tình đoàn kết, lòng thương yêu giữa con người. 2. Tác phẩm: Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình trình bày những ý kiến của tác giả xung quanh hiểm hoạ hạt nhân, đồng thời kêu gọi thế giới nỗ lực hành động để ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ về một thảm hoạ có thể huỷ diệt toàn bộ sự sống trên trái đất. 3. Tóm tắt: Đây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản có liên quan mật thiết với nhau: Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất. Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh cho một thế giới hoà bình. Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đưa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ, đặc biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức thuyết phục. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật đang phát triển với một tốc độ đáng kinh ngạc: những thành tựu của ngày hôm nay, rất có thể chỉ ngày mai đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kiến bi quan cho rằng: trong khi của cải xã hội tăng theo cấp số cộng thì dân số trái đất lại tăng theo cấp số nhân, con người sẽ ngày càng đói khổ. Tuy nhiên, nhờ có sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của cải xã hội ngày càng dồi dào hơn, số người đói nghèo ngày càng giảm đi Đó là những yếu tố tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phần lớn chúng ta đều nhận thấy. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầu như rất ít người có thể nhận thức được. Bài viết của nhà văn Gác- 2
  3. xi-a Mác-két đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ đang hiện hữu của một cuộc chiến tranh hạt nhân thảm khốc có khả năng huỷ diệt toàn bộ sự sống trên hành tinh xanh mà phương tiện của cuộc chiến tranh ấy mỉa mai thay lại là hệ quả của sự phát triển khoa học như vũ bão kia. Vấn đề được khơi gợi hết sức ấn tượng: "Chúng ta đang ở đâu? Hôm nay ngày 8 - 8 - 1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó có nghĩa là mỗi người không trừ trẻ con, đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ: tất cả chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải một lần mà là mười hai lần, mọi dấu vết của sự sống trên trái Đất". Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kê cụ thể: 50.000 đầu đạn hạt nhân; 4 tấn thuốc nổ; không phải một lần mà là mười hai lần Thông điệp về nguy cơ huỷ diệt sự sống được truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ vào tư duy bạn đọc. Không chỉ có thế, trong những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng phạm vi ra toàn hệ Mặt Trời, dẫn cả điển tích trong thần thoại Hi Lạp nhằm làm tăng sức thuyết phục. Trong phần tiếp theo, tác giả đưa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiện sự bất hợp lí trong xu hướng phát triển của khoa học hiện đại: tỉ lệ phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiến tranh lại quá cao. Vẫn là những con số thống kê đầy sức nặng: 100 tỉ đô la cho trẻ em nghèo khổ tương đương với 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B hoặc dưới 7.000 tên lửa vượt đại châu; Giá 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện chương trình phòng bệnh trong cùng 14 năm, bảo vệ cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét; Hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới Đó là những con số vượt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo bởi điều nghịch lí là trong khi các chương trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn trở thành hiện thực thì các chương trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn mù chữ chỉ là sự tính toán giả thiết và không biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực. Trong khía cạnh này thì rõ ràng là khoa học đang phát triển ngược lại những giá trị nhân văn mà từ bao đời nay con người vẫn hằng xây dựng. Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con số thống kê nóng bỏng, tác giả đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm: sự phát triển vũ khí hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của con người mà còn đi ngược lại lí trí tự nhiên. Sự đối lập khủng khiếp giữa 380 triệu năm, 180 triệu năm, bốn kỷ địa chất (hàng chục triệu năm) với khoảng thời gian đủ để "bấm nút một cái" đã phơi bày toàn bộ tính chất phi lí cũng như sự nguy hiểm của chương trình vũ khí hạt nhân mà các nước giàu có đang theo đuổi. Bằng cách ấy, rất có thể con người đang phủ nhận, thậm chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã hội từ hàng trăm triệu năm qua. Đó không chỉ là sự phê phán mà còn là sự kết tội. Đó là toàn bộ luận điểm thứ nhất, chiếm đến hơn ba phần tư dung lượng của bài viết này. ở luận điểm thứ hai, thủ pháp tương phản đã được vận dụng triệt để. Ngay sau lời kết tội trên đây, tác giả kêu gọi: "Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của chúng ta tham gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Nhưng dù cho tai hoạ xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây cũng không phải là vô ích". Đó không hẳn là một lời kêu gọi thống thiết và mạnh mẽ, tuy nhiên không vì thế mà nó kém sức thuyết phục. Chính dư âm của luận điểm thứ nhất đã tạo nên hiệu quả cho luận điểm thứ hai này. Những lời kêu gọi của tác giả gần như những lời tâm sự nhưng thấm thía tận đáy lòng. Chưa hết, tác giả còn tưởng tượng ra tấn thảm kịch hạt nhân và đề nghị mở "một ngân hàng lưu trữ trí nhớ". Lời đề nghị tưởng như rất không thực ấy lại trở nên rất thực trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu như không sử dụng một dẫn chứng hay một con số thống kê nào. Nhưng cách dẫn dắt vấn đề, lời tâm sự tha thiết mang âm điệu xót xa của tác giả đã tác động mạnh đến lương tri nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra thế lực nào đã vận dụng những phát minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dường như không phải là mục đích chính của bài viết này nhưng ông đã giúp nhân loại nhận thức được nguy cơ chiến tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh cho một thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỉ XXI. TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN, QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM I - GỢI Ý 1. Xuất xứ: Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát trỉen của trẻ em được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại Liên hợp quốc ngày 30-9-1990, in trong cuốn 3
  4. "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em", NXB Chính trị quốc gia - Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, 1997. 2. Tóm tắt: Tuy chỉ là một trích đoạn nhưng bài viết này có thể coi là một văn bản khá hoàn chỉnh về hiện thực và tương lai của trẻ em cũng như những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng đồng quốc tế phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có được một tương lai tươi sáng. Ngoài hai ý mở đầu, bài viết được chia thành ba phần rất rõ ràng: Phần một (sự thách thức): thực trạng cuộc sống khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên thế giới những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị. Phần hai (cơ hội): những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển cuộc sống, đảm bảo tương lai cho trẻ em. Phần ba (nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết cần thực hiện nhằm bảo vệ và cải thiện đời sống, vì tương lai của trẻ em. II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. Trẻ em là tương lai đất nước. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của thế giới trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống và sự phát triển của trẻ em hôm nay. Càng ngày, vấn đề đó càng được nhận thức rõ ràng hơn trên phương diện quốc tế. Năm 1990, Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đã được tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nước đã đưa ra bản Tuyên bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em. Bài viết này đã trích dẫn những ý cơ bản nhất của bản Tuyên bố đó. Ngay trong phần mở đầu, bản Tuyên bố đã khẳng định những đặc điểm cũng như những quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch chính với những ý kiến hết sức cơ bản và lô gích. Trong phần thứ nhất, tác giả nêu ra hàng loạt vấn đề có về thực trạng cũng như sự vi phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lột, đày đoạ một cách tàn nhẫn, là cuộc sống khốn khổ của trẻ em ở các nước nghèo. Trong hoàn cảnh ấy, những con số thống kê rất có sức nặng ("Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh ; Mỗi ngày có tới 40000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật, "). Những con số biết nói ấy thực sự là lời cảnh báo đối với nhân loại. Với nội dung như vậy nhưng các tác giả lại đặt tên cho phần này là Sự thách thức. Mới đọc, có cảm tưởng giữa đề mục và nội dung không thật thống nhất. Tuy nhiên, đó lại là yếu tố liên kết giữa các phần trong văn bản này. Tác giả đã sử dụng phương pháp "đòn bẩy": hiện thực càng được chỉ rõ bao nhiêu thì những vấn đề đặt ra sau đó lại càng được quan tâm bấy nhiêu. Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay những cơ hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phương tiện và kiến thức, là sự hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng trưởng kinh tế, sự biến đổi của xã hội trong đó các tác giả nhấn mạnh đến nhân tố con người. Bằng những hoạt động tích cực, con người hoàn toàn có thể làm chủ được tương lai của mình khi quan tâm thoả đáng đến các thế hệ tương lai. Trong phần Nhiệm vụ, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp thiết. Có thể tóm tắt lại như sau: 1. Tăng cường sức khoẻ và chế độ dinh dưỡng của trẻ em. 2. Quan tâm săn sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn. 3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các em gái). 4. Bảo đảm cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở. 5. Cần nhấn mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình. 6. Cần giúp trẻ em nhận thức được giá trị của bản thân. 7. Bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển đều đặn nền kinh tế. 8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đây. Với những ý hết sức ngắn gọn, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bản Tuyên bố này không chỉ có ý nghĩa đối với mỗi người, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế mà còn có tác dụng kêu gọi, tập hợp mọi người, mọi quốc gia cùng hành động vì cuộc sống và sự phát triển của trẻ em, vì tương lai của chính loài người. 4
  5. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ) I- GỢI Ý 1. Tác giả: Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhưng chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ. 2. Tác phẩm: Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là Truyền kì mạn lục, gồm 20 truyện viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Về mặt nội dung, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phản ánh hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những phức tạp trong tư tưởng nhà văn. Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả thường lấy xưa để nói nay, lấy cái kì để nói cái thực. Đọc Truyền kì mạn lục nếu biết bóc tách ra cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sương khói thời gian xưa cũ, sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời. Đời sống xã hội dưới ngòi bút truyền kì của nhà văn hiện lên khá toàn diện cuộc sống người dân từ bộ máy nhà nước với quan tham lại nhũng đến những quan hệ với nền đạo đức đồi phong bại tục. Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập trường đạo đức thì khi phản ánh số phận con người, ông lại xuất phát tự lập trường nhân văn. Chính vì vậy, Truyền kì mạn lục chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc. Về phương diện này, Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam. Truyền kì mạn lục phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận của người phụ nữ, đồng thời hướng tới những giải pháp xã hội, nhưng vẫn bế tắc trên đường đi tìm hạnh phúc cho con người". (Từ điển văn học - NXB Thế giới, 2005). 3. Thể loại: Truyện truyền kì là những truyện kì lạ được lưu truyền. Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính trong Truyền kì mạn lục phần lớn là những người phụ nữ đức hạnh nhưng lại bị các thế lực phong kiến, lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất. Bên cạnh đó còn có kiểu nhân vật là những người trí thức có tâm huyết nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp. 4. Tóm tắt: Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương, tính tình nết na thuỳ mị. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm vẫn đến nhà. Trương Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị Thiết chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. Cũng có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử: - Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ Nương tự vẫn. - Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan được giải, Vũ Nương được cứu sống nhưng vẫn không trở về đoàn tụ cùng gia đình. II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Có lẽ người Việt Nam chúng ta ai cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan Thị Kính" một nỗi oan khuất mà người bị oan không có cách gì để thanh minh. Thị Kính chỉ được giải oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm lòng bao dung độ lượng, luôn hiểu thấu và sẵn sàng bênh vực cho những con người bé nhỏ, thua thiệt, oan ức trong xã hội của những nghệ sĩ dân gian. Người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương không có được cái may mắn như Thị Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng không kém gì, thậm chí kết cục còn bi thảm hơn. Thị Kính được lên toà sen trong khi người phụ nữ này phải tìm đến cái chết để chứng tỏ sự trong sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn không được nhiều người biết đến, có lẽ bởi phương thức kể. Ai cũng biết đến Thị Kính vì câu chuyện về 5
  6. nàng được thể hiện qua một vở chèo một loại hình nghệ thuật dân gian quen thuộc, được nhân dân ưa thích từ xa xưa, trong khi Người con gái Nam Xương là một tác phẩm văn học viết thời trung đại (trong điều kiện xã hội phong kiến, nhân dân lao động hầu hết đều không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm này, chúng ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức kết hợp các phương thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả. Trong phần đầu của truyện, trước khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá nhiều lời để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu như không có sự kiện nào thật đặc biệt ngoài những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử với mẹ chồng ) chứng tỏ nàng là một người con gái đẹp người đẹp nết, một người vợ hiền, một người con dâu hiếu thảo. Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với phẩm hạnh của nàng, dẫu Trương Sinh có đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra chuyện gì được. Nhưng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi tiết nhỏ được cài rất khéo đó chính là sợi dây nối giữa phần trước và phần sau, xâu chuỗi các yếu tố trong truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu được nội dung tư tưởng của tác phẩm. Mạch truyện được dẫn rất tự nhiên. Sau khi giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, bế đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói: "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít". Thật chẳng khác gì một tiếng sét bất chợt. Lời con trẻ vô tình đã thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng người đàn ông đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu). Nếu coi đây là một vở kịch thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn đồng thời ngay lập tức đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói có một người đàn ông "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi ", mối nghi ngờ của Sinh đối với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra được. Một lần nữa, chi tiết về tính hay ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí giải diễn biến câu chuyện, đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách hợp lí. Tại sao Sinh không chịu nghe lời người vợ thanh minh? Tại sao Sinh không nói cho vợ biết lí do mình tức giận như thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu chuyện sẽ sáng tỏ). Đó chính là hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh không thể tỉnh táo suy xét mọi việc. Cũng vì đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa bé cũng trở thành một bằng chứng "không thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình khi chồng đi vắng. Sự vô lí đã trở nên hợp lí bởi sự kết hợp giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không biết vì sao Sinh lại nghi oan nên người vợ không thể thanh minh. Để chứng tỏ sự trong sạch của mình, nàng chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh chết mà mâu thuẫn kịch vẫn không được tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lòng Sinh vẫn còn nguyên đó. Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh của người phụ nữ nhưng cũng không lí giải nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé lại nói như vậy. Đây cũng là một yếu tố chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Thủ pháp "đầu cuối tương ứng" được vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là nguyên nhân dẫn đến bi kịch thì cũng chính nó trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ. Sau khi vợ mất, một đêm kia, đứa trẻ lại nói: Cha Đản lại đến kia kìa! Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách: Đây này! Mâu thuẫn được tháo gỡ cũng bất ngờ như khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu rằng, nó đã gây ra một sự hiểu lầm khủng khiếp để rồi khi người chồng hiểu ra, hối hận thì đã quá muộn. Ngay cả bạn đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế mà cũng đủ đẩy một con người vào cảnh tuyệt vọng. Ai là người có lỗi? Đứa trẻ đương nhiên là không vì nó vẫn còn quá nhỏ, chỉ biết thắc mắc vì những lời nói đùa của mẹ. Vợ Sinh cũng không có lỗi vì nàng biết đâu rằng những lời nói đùa với con để vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có trách chăng là trách Trương Sinh vì sự ghen tuông đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ: giá như không phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, giá như người vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ phải của mình thì nàng đã không phải chọn cái chết thảm thương như vậy. Tính đa nghi của Sinh đã không gây nên hậu quả xấu nếu như nó không được nuôi dưỡng trong một môi trường mà người phụ nữ luôn luôn phải nhận phần thua thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu như không được tác giả trình bày trực tiếp nhưng qua hệ thống các biến cố, sự kiện được sắp xếp hợp lí, đưa bạn đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế sự cảm thông sâu sắc của mình đối 6
  7. với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể cho rằng nó đã được sáng tạo theo một lỗi viết khá mới mẻ và hiện đại. Nhưng Nguyễn Dữ lại là người nổi tiếng với những câu chuyện truyền kỳ. Hoang đường, kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong những sáng tác thuộc loại này. Mặt khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại nhưng hẳn Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng "ở hiền gặp lành" của nhân dân lao động. Bản thân ông cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, số phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy, tác giả đã tạo cho câu chuyện một lối kết thúc có hậu. Tuy không được hoá Phật để rồi sống ở miền cực lạc như Thị Kính nhưng người phụ nữ trong truyện cũng được thần rùa cứu thoát, tránh khỏi một cái chết thảm thương. Phần cuối truyện còn được cài thêm nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ như chi tiết chàng Phan Lang trở thành ân nhân của rùa, sau lại được rùa đền ơn. Trên đường chạy giặc, bị đắm thuyền, dạt lên đảo và được chính con rùa năm xưa cứu thoát. Đó có thể coi là sự "đền ơn trả nghĩa" những hành động rất phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân. Việc người phụ nữ trở về gặp chồng nhưng không đồng ý trở lại chốn nhân gian có lẽ cũng nhằm khẳng định tư tưởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã được cứu thoát, được giải oan nhưng vì lời thề với vợ vua biển Nam Hải, nàng quyết không vì hạnh phúc riêng mà bỏ qua tất cả. Những chi tiết đó càng chứng tỏ vẻ đẹp trong tính cách của người phụ nữ, đồng thời cũng cho thấy thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả đối với người phụ nữ trong câu chuyện này nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH (Trích Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ) I- GỢI Ý 1. Tác giả: Tác giả của Vũ trung tuỳ bút là Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Ông sinh trong một gia đình khoa bảng, từng dạy học ở nhiều nơi. Những tác phẩm mà Phạm Đình Hổ để lại gồm nhiều loại, nhiều lĩnh vực, từ biên soạn cho đến khảo cứu (triết học, lịch sử, địa lí ), sáng tác văn học. Riêng sáng tác văn học có: Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn án), Đông dã học ngôn thi tập, Tùng cúc liên mai tứ hữu, tất cả đều được viết bằng chữ Hán. 2. Tác phẩm: Tuy chỉ là một tác phẩm tuỳ bút với ý nghĩa là những ghi chép tản mạn nhưng Vũ trung tuỳ bút lại có giá trị văn học lớn. Một mặt, tác phẩm phơi bày hiện thực xã hội đen tối lúc bấy giờ đồng thời với nỗi thống khổ của nhân dân, mặt khác, tác phẩm thể hiện tài năng của tác giả. Dù tác giả không chủ ý xoáy sâu vào một vấn đề nào nhưng qua những từ ngữ gợi tả, qua những lời bình luận tưởng như rất bâng quơ, hiện thực cuộc sống cứ hiển hiện chân thực, sống động trước mắt độc giả. Trong bài văn này, phần đầu tác giả miêu tả cung cách ăn chơi xa hoa của đám quan quân trong phủ chúa Trịnh, phần sau tác giả đề cập đến nỗi khổ sở của dân chúng trước sự nhũng nhiễu của đám quan quân. Phần cuối, tác giả điểm qua một vài ý về gia đình mình. Mọi chi tiết đều có tác dụng phơi bày sự mục rỗng của chính quyền phong kiến Lê Trịnh ở vào thời kì sắp suy tàn. 3. Thể loại: Nói tuỳ bút là thể văn ghi chép sự việc một cách cụ thể, sinh động nhưng tuỳ hứng không có nghĩa là bài văn được sắp xếp lộn xộn, không theo trật tự nào. Thực ra, điều đó chỉ có nghĩa rằng văn tuỳ bút không phụ thuộc vào một khuôn mẫu cố định nào đó (ví dụ như thơ Đường luật). Tuỳ theo từng hoàn cảnh cụ thể, tác giả lựa chọn, sắp xếp các chi tiết, sự kiện theo những trật tự nhất định nhằm làm nổi bật vấn đề. 4. Tóm tắt: Đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh miêu tả cuộc sống xa hoa ăn chơi xa xỉ, không màng đến quốc gia đại sự, áp bức, bóc lột nhân dân, của vua chúa, quan lại phong kiến thời Thịnh Vương Trịnh Sâm. II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Khoảng cuối thế kỉ XVIII, tuy ngoài biên giới không có giặc ngoại xâm nhưng trong nước lại vô cùng rối ren. Các thế lực phong kiến chia bè kéo cánh thao túng quyền hành, vừa sát hại lẫn nhau vừa ra sức bóc lột của cải khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Ngoài Bắc, vua Lê chỉ là bù nhìn, quyền hành thực tế nằm cả trong tay chúa Trịnh. Trịnh Sâm là người nổi tiếng hoang dâm vô độ. Cậy thế lấn át vua, ông ta thả sức cho xây hàng loạt cung điện, đền đài nhằm phục vụ cho nhu cầu ăn chơi hoang phí. Trong bài văn này, tuy tác giả không bộc lộ trực tiếp cảm xúc, thái độ của mình nhưng qua hàng loạt chi tiết, qua những cảnh, những việc tưởng như được trình bày hết sức ngẫu hứng của tác giả, bạn đọc có thể hiểu được phần nào 7
  8. cuộc sống xa hoa, lãng phí của đám quan quân phong kiến thời bấy giờ, đồng thời cũng có thể cảm nhận được ít nhiều sự phẫn nộ của tác giả trong hoàn cảnh ấy. Một điểm rất đáng lưu ý khi đọc bài văn này chính là giọng điệu của tác giả một giọng điệu hầu như khách quan, không thể hiện một chút cảm xúc, thái độ nào. Khi cần gọi tên đám quan quân trong phủ chúa, từ chúa Trịnh Sâm, các quan đại thần cho đến bọn hoạn quan trong cung giám, tác giả luôn tỏ thái độ cung kính. Thủ pháp quen thuộc thường được sử dụng là liệt kê, hết chúa đến quan, từ quan lớn đến quan bé, từ sự việc này sang sự việc khác. Nếu không tinh ý, thật khó có thể xác định được mục đích của tác giả khi viết đoạn này là gì. Tuy nhiên, qua hàng loạt sự kiện tưởng chừng được liệt kê một cách tuỳ hứng, có thể phát hiện ra những chi tiết giúp chúng ta hiểu được nội dung tư tưởng của bài. Phần đầu viết về các cuộc dạo chơi của chúa Trịnh. Tác giả không tả cụ thể, cũng không đưa ra một lời bình luận nào, nhưng các chi tiết, các sự kiện cứ như tự biết nói. Chúng phô bày một cuộc sống phù phiếm, xa hoa với những cuộc dạo chơi liên miên, rồi thì đình đài xây dựng hết cái này đến cái khác. Theo những cuộc du ngoạn của chúa là đầy đủ các quan đại thần, binh lính, người phục dịch Như thế đủ thấy những sinh hoạt đó tốn kém đến mức nào. Cướp bóc của cải là việc làm quen thuộc của quan quân thời bấy giờ. Nhân dân ta từng có câu: Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan. Tác giả viết rất rõ: "Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì". Thật là sự cướp bóc trắng trợn của một vị chúa. Bất cứ thứ gì chúa muốn, kể cả cây đa to đến hàng mấy trăm người khiêng cũng được đưa về phủ Thật trớ trêu khi người đứng đầu triều đình lại không hề biết tiếc sức người sức của, không biết chăm lo cho nước, cho dân, chỉ biết cướp bóc, vơ vét để thoả lòng tham không đáy. Liệt kê ra như vậy nhưng tác giả vẫn không đưa ra bất cứ một lời bình luận nào. Thậm chí ông còn viết cả một đoạn văn dài như là ca ngợi vẻ đẹp của phủ chúa. Mặc dù vậy, cách miêu tả của tác giả thật đặc biệt: vừa mới viết "hình núi non bộ trông như bến bể đầu non", tác giả lại bổ sung: "Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót vang khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường". Câu văn tuy đẹp, lời văn tưởng như mạnh mẽ nhưng lại nhuốm màu u ám, như báo trước những điều chẳng lành. Vua chúa đã vậy, bọn quan lại cũng tha hồ "đục nước béo cò". Vừa ăn cắp vừa la làng, chúng không những lấy đi những thứ quý mà còn lập mưu vu vạ nhằm doạ nạt để lấy tiền. Tác giả gọi chúng là "các cậu" ra vẻ trân trọng nhưng những hành vi của chúng thì thật bỉ ổi, táng tận lương tâm. Tác giả không nói gì thì bạn đọc cũng biết: một xã hội mà từ vua chúa đến quan lại đều không chăm lo gì đến việc nước, chỉ biết tìm cách cướp đoạt của cải của nhân dân thì xã hội ấy hỗn loạn, bất an đến thế nào. Trong phần cuối, tác giả đưa ra những chi tiết về nỗi khổ của nhân dân cũng như của chính gia đình mình: "Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ, Đó là cảnh chung, còn trong ngôi nhà của tác giả, những cây cảnh đẹp cũng được sai chặt đi. Đó là những chi tiết rất đắt giá. Tác giả không tả đám quan quân cướp bóc của cải mà chỉ nói về cây cảnh. Việc nhân dân tự chặt cây cảnh, đập bỏ hòn non bộ đã cho thấy một xã hội đầy những bất trắc, người dân phải phá bỏ chính tài sản của mình để khỏi bị liên luỵ, phiền hà với đám quan lại xấu xa, tàn ác. Hệ quả được rút ra ở đây là: đến những thứ phù phiếm như hòn non bộ hay cây cảnh mà chúng còn ngang nhiên cướp đoạt như vậy thì những thứ quý, hẳn chúng cũng không bỏ qua một cơ hội nào. Bài tuỳ bút được trích tương đối ngắn, nhưng qua những chi tiết, những sự việc được chọn lọc, được sắp xếp hợp lí, qua cách hành văn, sử dụng những câu văn đa nghĩa của tác giả, bạn đọc hiểu được rất nhiều điều về thực trạng xã hội phong kiến lúc bấy giờ. HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ (Trích Hồi thứ mười bốn - Ngô gia văn phái) I- GỢI Ý 1. Tác giả: Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là Ngô gia văn phái, một tập thể tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. 8
  9. - Ngô Thì Chí (1753-1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, từng làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống. Ông tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, dâng Trung hưng sách bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Nhiều tài liệu nói ông viết bảy hồi đầu của tác phẩm. - Ngô Thì Du (1772-1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (Hà Nam). Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ Đốc học Hải Dương, đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả bảy hồi tiếp theo của Hoàng Lê nhất thống chí. 2. Tác phẩm: Văn bản bài học được trích từ Hồi 14 tiểu thuyết chương hồi của Ngô gia văn phái tái hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử nhưng Hoàng Lê nhất thống chí (biểu hiện cụ thể ở đoạn trích này) không chỉ ghi chép lại các sự việc, sự kiện mà đã tái hiện khá sinh động hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, sự thảm bại của quân xâm lược cùng với số phận bi đát của đám vua tôi nhà Lê phản dân, hại nước. 3. Thể loại: - Hoàng Lê nhất thống chí là cuốn sách viết theo thể chí (một thể văn vừa có tính chất văn học vừa có tính chất lịch sử), ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê, vào thời điểm anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lãnh đạo nông dân Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa, tiêu diệt nhà Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. ý nghĩa tiêu đề của tác phẩm là như thế nhưng sau khi vua Lê dành lại được quyền thế từ tay chúa Trịnh, rất nhiều biến cố lịch sử đã diễn ra, trong đó có cuộc tấn công thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn, dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược. Tất cả đã được ghi chép lại một cách khá đầy đủ và khách quan trong tác phẩm. 4. Tóm tắt: Được tin báo quân Thanh vào Thăng Long, Bắc Bình Vương rất giận, liền họp các tướng sĩ rồi tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, hạ lệnh xuất quân ra Bắc, thân hành cầm quân, vừa đi vừa tuyển quân lính. Ngày ba mươi tháng chạp, đến núi Tam Điệp, vua mở tiệc khao quân, hẹn mùng bảy năm mới vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Bằng tài chỉ huy thao lược của Quang Trung, đạo quân của Tây Sơn tiến lên như vũ bão, quân giặc thua chạy tán loạn. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, chuồn thẳng về biên giới phía Bắc, khiến tên vua bù nhìn Lê Chiêu Thống cũng phải chạy tháo thân. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Một nhân tố quan trọng cần phải xem xét trước hết trong văn bản này là tác giả. Khi sáng tạo tác phẩm, tác giả không chỉ tái hiện hiện thực khách quan mà còn thể hiện những tư tưởng, tình cảm, quan điểm chính trị, xã hội của mình. Tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí là Ngô gia văn phái một nhóm tác giả rất trung thành với nhà Lê. Nếu xét theo quan điểm phong kiến thì trong con mắt của Ngô gia, vua Quang Trung là kẻ nghịch tặc. Thế nhưng trong tác phẩm, hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ lại được miêu tả khá sắc nét với tài cầm quân "bách chiến bách thắng", tính quyết đoán cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp khác. Điều đó một phần bởi triều đại nhà Lê khi đó đã quá suy yếu, mục nát, dù có là bề tôi trung thành đến mấy thì các tác giả trong Ngô gia văn phái cũng khó có thể phủ nhận. Mặt khác, có thể chính tài năng và đức độ của vua Quang Trung đã khiến cho các tác giả này thay đổi quan điểm của mình, từ đó đã tái hiện lại các sự kiện, nhân vật, một cách chân thực. Các chi tiết, sự kiện trong phần đầu đoạn trích này cho thấy vua Quang Trung là người rất mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không hề độc đoán, chuyên quyền. Ông sẵn sàng lắng nghe và làm theo ý kiến của thuộc hạ, lên ngôi vua để giữ lòng người rồi mới xuất quân ra Bắc. Ngay khi đến Nghệ An, ông lại cho vời một người Cống sĩ đến để hỏi về việc đánh quân Thanh như thế nào. Chi tiết này cho thấy Quang Trung luôn quan tâm đến ý dân, lòng dân. Khi vị Cống sĩ nói: "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan", ông "mừng lắm", không chỉ vì người Cống sĩ nói đúng ý mình mà chủ yếu là vì chủ trương của ông, quyết tâm của ông đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bằng chứng là ngay sau đó ông cho tuyển quân, "chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ". Cách ăn nói của vua Quang Trung cũng rất có sức thuyết phục, vừa khéo léo, mềm mỏng vừa rất kiên quyết, hợp tình hợp lí. Khi nói với binh sĩ, ông đã cho họ ngồi (một cử chỉ biểu lộ sự gần gũi mặc dù ông đã xưng vương), từng lời nói đều giản dị, dễ hiểu. Sau khi lấy lịch sử từ các triều đại trước ra để cho binh sĩ thấy nỗi khổ của nhân dân dưới ách thống trị ngoại bang, ông không quên tuyên bố sẽ trừng phạt những kẻ phản bội, ăn ở hai lòng. Điều đó khiến cho binh sĩ thêm đồng lòng, quyết tâm chống giặc. Đó cũng là cách ứng xử của ông đối với các tướng lĩnh. Khi quân đến Tam Điệp, hai tướng Sở và Lân 9
  10. mang gươm trên lưng đến xin chịu tội, ông thẳng thắn chỉ ra tội của họ nhưng lại cho mọi người hiểu họ cũng là người đã có công lớn trong việc bảo toàn được lực lượng, chờ đợi thời cơ điều đó không những khiến cho quân ta tránh được những thương vong vô ích mà còn làm cho giặc trở nên kiêu ngạo, chủ quan, tạo điều kiện thuận lợi để ta đánh chúng sau này. Những lời nói, việc làm của vua Quang Trung thật hợp tình, hợp lí và trên hết là hợp với lòng người. Vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, xét đúng công, đúng tội, đặt lợi ích của quốc gia và của dân chúng lên trên hết, ông đã khiến cho binh sĩ thêm cảm phục, càng quyết tâm chống giặc. Đó là một yếu tố rất quan trọng tạo nên những chiến thắng liên tiếp của quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của vua Quang Trung. Cuộc tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung thực sự chỉ có thể diễn tả bằng từ "thần tốc". ở phần tiếp theo của đoạn trích, để diễn tả không khí chiến trận rất khẩn trương, quyết liệt, các tác giả đã chú trọng nhiều hơn đến các sự kiện nhưng không vì thế mà làm mờ nhạt hình ảnh tài năng của vị thống lĩnh. Lời hứa chắc chắn trước lúc xuất quân của ông đã được đảm bảo bằng tài thao lược, xử trí hết sức nhạy bén, mưu trí trong những tình huống cụ thể: đảm bảo bí mật hành quân, nghi binh tấn công làng Hà Hồi, dùng ván phủ rơm ướt để tấn công đồn Ngọc Hồi, Tài dùng binh khôn khéo đó khiến cho quân Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, khi chúng biết được tin tức thì đã không thể chống cự lại được nữa, chỉ còn cách dẫm đạp lên nhau mà chạy. Phần cuối của đoạn trích chủ yếu diễn tả cuộc tháo chạy hỗn loạn, nhục nhã của đám quan quân nhà Thanh. Ra đi "binh hùng tướng mạnh", vậy mà chưa đánh được trận nào đã phải tan tác về nước. Rất có thể sau khi bại trận, quân số của Tôn Sĩ Nghị (trước đó là hai mươi vạn) vẫn còn đông hơn quân của vua Quang Trung nhưng trước sức tấn công như vũ bão của quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba và quyết đoán, chúng đã không còn hồn vía nào để nghĩ đến chuyện chống trả. Trong đoạn này, giọng điệu của các tác giả tỏ ra vô cùng hả hê, vui sướng. Khi miêu tả tài "xuất quỷ nhập thần" của quân Tây Sơn, các tác giả viết: "Thật là: "Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" Ngược lại, khi viết về Tôn Sĩ Nghị thì: "Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp ". Đó không còn là giọng của một người ghi chép lại các sự kiện một cách khách quan mà là giọng điệu sảng khoái của nhân dân, của dân tộc sau khi đã khiến cho bọn xâm lược ngoại bang, vốn trước ngạo nghễ là thế, giờ đây phải rút chạy nhục nhã. Đoạn nói về vua tôi nhà Lê càng khẳng định thái độ của các tác giả khi viết tác phẩm này. Mặc dù luôn đề cao tư tưởng trung nghĩa nhưng trước sự nhu nhược, hèn hạ của đám vua tôi nhà Lê, các tác giả vẫn thể hiện ít nhiều thái độ mỉa mai, châm biếm. Số phận những kẻ phản dân, hại nước cũng thảm hại chẳng kém gì những kẻ cậy đông, đem quân đi xâm lược nước khác. Đó là số phận chung mà lịch sử giành cho lũ bán nước và lúc cướp nước. Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Người làm nên kì tích ấy là Quang Trung Nguyễn Huệ, vị "anh hùng áo vải" vừa có tài thao lược vừa luôn hết lòng vì dân, vì nước. Trang sử hào hùng ấy đã được ghi lại bởi Ngô gia văn phái nhóm tác giả đã vượt qua những tư tưởng phong kiến cố hữu để tái hiện lại lịch sử một cách chân thực. CHỊ EM THUÝ KIỀU (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) I - GỢI Ý 1. Tác giả: - Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng, anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Nguyễn Du sống trong một thời đại có nhiều biến động: cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh, rồi phong trào Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn được thiết lập. Những biến cố đó đã in dấu ấn trong sáng tác của Nguyễn Du, như chính trong Truyện Kiều ông viết: Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Nguyễn Du từng trải một cuộc đời phiêu bạt: sống nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc. Vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có 10
  11. phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm nhiều tạo thành. 2. Tác phẩm: - Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán có ba tập, gồm 243 bài. Thơ chữ Nôm, xuất sắc nhất là cuốn truyện Đoạn trường tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều. - "Có thể tìm thấy một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, Văn chiêu hồn. Nguyễn Du vĩ đại chính vì Nguyễn Du là một nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa. Mặc dù xuất thân từ giai tầng quý tộc, nhưng Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống của quần chúng, đã lắng nghe được tâm hồn và nguyện vọng của quần chúng, nhà thơ đã ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc đời và, với một nghệ thuật tuyệt vời, ông đã làm cho những vấn đề trọng đại ấy trở thành bức thiết hơn, da diết hơn, ám ảnh hơn trong tác phẩm của mình. Thơ Nguyễn Du dù viết bằng chữ Nôm hay chữ Hán đều đạt đến trình độ điêu luyện. Riêng những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều là một cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn học dân tộc. Về phương pháp sáng tác, qua Truyện Kiều, chúng ta thấy Nguyễn Du đã phá vỡ rất nhiều nguyên tắc của mĩ học truyền thống, những yếu tố ước lệ tưởng tượng của nghệ thuật phong kiến phương Đông để đi đến chủ nghĩa hiện thực. Nhưng do những giới hạn về mặt lịch sử, cho nên mặc dù Nguyễn Du là một thiên tài vẫn không thể phá vỡ được triệt để, vẫn chưa thể thực sự đến được với chủ nghĩa hiện thực. Cuối cùng, Nguyễn Du vẫn là một nhà thơ dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực. (Nguyễn Lộc - Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2005). - Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ một cuốn tiểu thuyết (Kim Vân Kiều truyện) của Thanh Tâm Tài Nhân, một nhà văn Trung Quốc. Khi sáng tác, Nguyễn Du đã thay đổi, bổ sung nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Tác phẩm được viết lại bằng chữ Nôm, gồm 3524 câu, theo thể thơ lục bát truyền thống. Ngoài các yếu tố như ngôn ngữ, thể loại (vốn đã là những sáng tạo đặc sắc, đóng góp lớn của Nguyễn Du vào quá trình phát triển ngôn ngữ dân tộc), tác phẩm còn thể hiện rất rõ hiện thực cuộc sống đương thời, đằng sau đó là "con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới muôn đời" của nhà văn. Có thể tóm tắt Truyện Kiều theo bố cục ba phần: - Gặp gỡ và đính ước: Kiều xuất thân như thế nào? Có đặc điểm gì về tài sắc? Kiều gặp Kim Trọng trong hoàn cảnh nào? Mối tình giữa Kiều và Kim Trọng đã nảy nở ra sao? Họ kiếm lí do gì để gần được nhau? Kiều và Kim Trọng đính ước. - Gia biến và lưu lạc: Gia đình Kiều bị mắc oan ra sao? Kiều phải làm gì để cứu cha? Làm gì để không phụ tình Kim Trọng? Kiều bị bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào cuộc sống lầu xanh; Kiều được Thúc Sinh cứu ra khỏi lầu xanh; Kiều trở thành nạn nhân của sự ghen tuông, bị Hoạn Thư đày đoạ; Kiều trốn đến nương nhờ cửa Phật, Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - Kiều rơi vào lầu xanh lần thứ ha i; Thuý Kiều đã gặp Từ Hải như thế nào? Tại sao Từ Hải bị giết? Kiều bị Hồ Tôn Hiến làm nhục ra sao? Kiều trẫm mình xuống sông Tiền Đường, được sư Giác Duyên cứu. -Đoàn tụ: Kim Trọng trở lại tìm Kiều như thế nào? Tuy kết duyên cùng Thuý Vân nhưng Kim Trọng chẳng thể nguôi được mối tình với Kiều; Kim Trọng lặn lội đi tìm Kiều, gặp Giác Duyên, gặp lại Kiều, gia đình đoàn tụ; Chiều ý mọi người, Thuý Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước điều gì? Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm. Đoạn thơ này miêu tả vẻ đẹp của hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân. Với ngòi bút tài hoa, khả năng vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc kết hợp với các điển tích, điển cố, có thể nói Nguyễn Du đã giúp bạn đọc hình dung được những chuẩn mực về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội xưa, đó cũng có thể coi là chuẩn mực của cái đẹp trong của văn học trung đại. Không chỉ miêu tả những hình mẫu, chân dung Thuý Kiều và Thuý Vân trong tác phẩm còn thể hiện những dụng ý nghệ thuật sâu xa của tác giả. Mặc dù "Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười" nhưng với mỗi nhân vật, sự miêu tả của Nguyễn Du dường như đã dự báo những số phận khác nhau của hai chị em. Điều đó vừa thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật khá sắc sảo của Nguyễn Du nhưng đồng thời cũng cho thấy quan niệm "tài mệnh tương đố" của ông. II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Khi nói đến tác giả của Truyện Kiều, không chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà văn, nhà nghiên cứu đều thống nhất tên gọi: "Đại thi hào dân tộc". Với "con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới muôn đời" (Mộng Liên Đường), Nguyễn Du nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn 11
  12. bênh vực cho những cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Mặt khác, những câu thơ của Nguyễn Du sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng nhân dân như vậy còn bởi trong Truyện Kiều, ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật, trong việc khắc hoạ những nét tâm lí nhất quán đến từng chi tiết Trong phần mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân có thể coi là một ví dụ tiêu biểu. Trong những câu miêu tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã có thể xếp vào hàng "tuyệt thế giai nhân": Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Chỉ trong một câu thơ sáu chữ, tác giả đã khẳng định được một vẻ đẹp toàn bích, từ nhan sắc cho đến tính tình của cả hai chị em. Điều kì diệu là cả hai vẻ đẹp đều hoàn thiện ("mười phân vẹn mười") nhưng "Mỗi người một vẻ", không ai giống ai. Đọc những câu thơ tiếp theo, ta càng có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả nhân vật. Không chỉ phân biệt được "Mỗi người mỗi vẻ", tác giả còn chỉ ra sự khác nhau đó được biểu hiện cụ thể như thế nào. Mặt khác, Nguyễn Du tả nhan sắc nhưng dường như mục đích của tác giả không dừng lại ở đó. Càng tả càng gợi. Qua những câu thơ của Nguyễn Du, người đọc luôn cảm nhận được những suy nghĩ trăn trở của nhà thơ về cuộc đời, về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy dẫy những cạm bẫy: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Trong phần tả khái quát, vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều đã được miêu tả rất toàn vẹn, tưởng khó có thể ca ngợi hơn nữa. Trong bốn câu này, ba câu trên là lời khẳng định vẻ đẹp "mười phận vẹn mười" kia. Thế nhưng câu thơ thứ tư thật sự khiến bạn đọc bất ngờ bởi khả năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ. Tả một người con gái đẹp mà "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang" là đã đạt đến chuẩn mực, thêm "Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang" thì nghe chẳng khác gì những tiếng trầm trồ của một người đang được chiêm ngưỡng một vẻ đẹp chưa từng có. Thế mà vẫn chưa hết, người con gái ấy còn đẹp đến mức "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" thì vẻ đẹp ấy còn vượt lên trên cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là một sự khác thường bởi nếu chúng ta đọc lại thơ ca trung đại, thậm chí đọc cả ca dao dân ca, vẻ đẹp của con người cùng lắm cũng chỉ sánh ngàng với vẻ đẹp của thiên nhiên mà thôi: Cổ tay em trắng như ngà Đôi mắt em sắc như là dao cau Miệng cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa sen Rõ ràng là Thuý Vân rất đẹp, một vẻ đẹp khá sắc nét nhưng vẫn hồn hậu, thuỳ mị. Giả sử được ngắm một người con gái như vậy, người ta thường nghĩ đến hạnh phúc, đến một cuộc sống ấm áp, êm đềm. Đọc đoạn miêu tả Thuý Vân, ta đã có thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thuý Vân mới chỉ là bước đệm để tác giả miêu tả Thuý Kiều. Một lần nữa, tác giả lại khiến bạn đọc phải sửng sốt vì năng lực miêu tả của mình: Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Các giá trị thẩm mĩ tưởng như đã được đẩy lên đến tận cùng của các giới hạn nhưng rồi lại còn được đẩy lên cao thêm nữa: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Hội hoạ cổ điển phương Đông có những bút pháp khá độc đáo: "lấy điểm để tả diện", "vẽ mây nẩy trăng", ý là khi muốn tả một người con gái đẹp, không cần tả mọi đường nét, chỉ chọn những nét tiêu biểu nhất, hay như khi muốn tả một vầng trăng sáng có thể không cần tả vầng trăng, chỉ cần tả đám mây xung quanh mà người xem biết ngay đó là trăng rất sáng. Nguyễn Du đã tả Thuý Kiều qua "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn" những yếu tố nghệ thuật đầy tính ước lệ, thật khó hình dung nàng Kiều đẹp như thế nào nhưng ai cũng phải thừa nhận, tả như thế là tuyệt khéo. Lại thêm "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" không cần nói nhan sắc của Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa còn phải ghen, liễu còn phải hờn với nhan sắc của Kiều thì tưởng như với nhan sắc ấy, không lời nào có thể diễn tả nổi nữa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dường như trong vẻ đẹp của Kiều đã ẩn chứa 12
  13. những mầm tai hoạ. Nếu như với vẻ đẹp của Thuý Vân, "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da", sự "thua" và "nhường" còn rất hiền hoà thì với vẻ đẹp của Thuý Kiều, hoa đã phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Có thể nói, vẻ đẹp của Thuý Vân tuy có phần trội hơn nhưng chưa tạo ra sự đố kị, trong khi đó vẻ đẹp của Thuý Kiều đã vượt hẳn lên, ngạo nghễ thách thức với thiên nhiên, vượt ra khỏi vòng kiềm toả của tạo hoá. Không chỉ nhan sắc, tài năng của Kiều cũng hàm chứa một sự thách thức: Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Những từ ngữ đầy tính ước lệ (làn thu thuỷ, nét xuân sơn, nghiêng nước nghiêng thành) xuất hiện với mật độ cao càng chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ. Một lần nữa, vẻ đẹp của nàng Kiều lại được khẳng định dù sự khẳng định ấy càng tô đậm thêm sự "bất an" của nhan sắc. Vậy mà sự thách thức của nhan sắc vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất, tài năng của Kiều còn là một sự thách thức khác nữa: Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương, lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ cho rằng nhan sắc là một cái hoạ tiềm ẩn đối với người phụ nữ ("hồng nhan bạc mệnh") mà còn nhiều lần nhấn mạnh: tài năng cũng là một cái hoạ khác: - Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau. - Chữ tài liền với chữ tai một vần. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen Thuý Kiều vừa có tài lại vừa có sắc, hơn nữa, cả hai yếu tố đều nổi bật đến mức cây cỏ còn phải ghen tức, oán giận Xét trên nhiều yếu tố, có thể nói qua cách miêu tả, Nguyễn Du đã ngầm báo trước những điều không may sẽ xảy đến với người con gái này. Hãy nghe tiếng đàn của Kiều, đó không phải là những âm thanh nhàn tản, thảnh thơi: Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân. Có thể cho là Kiều chỉ vô tình, nhưng bài nhạc mà nàng đã lựa chọn, đã thể hiện nó trong tiếng đàn sầu não kia cho thấy rằng, đó là một người con gái rất đa sầu đa cảm. Theo quan niệm từ xa xưa, đây cũng là một yếu tố tạo nên số phận đau khổ của con người. Những sự biến sau này của cuộc đời Kiều (gặp Đạm Tiên, phải bán mình chuộc cha, gặp Thúc Sinh, gặp Từ Hải, ) đều chứng tỏ sự miêu tả của Nguyễn Du về Thuý Kiều là hoàn toàn có ngụ ý. Đoạn cuối như lời vĩ thanh, Nguyễn Du để cho lời thơ buông trôi, nhấn mạnh phẩm chất gia giáo của Thuý Kiều. Đoạn miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du dành đến 24 câu thơ, trong đó có bốn câu tả khái quát, bốn câu tả Thuý Vân, còn đến 16 câu chỉ để nói về Thuý Kiều. Có thể chúng ta chưa hiểu hết quan niệm về nhân sinh, nhất là về người phụ nữ của ông, có thể còn nhiều vấn đề xung quanh tư tưởng "tài mệnh tương đố" cần tiếp tục xem xét nhưng qua 24 câu thơ, Nguyễn Du không chỉ chứng tỏ một tài năng bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ mà còn cho thấy những nét rất đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả con người. CẢNH NGÀY XUÂN (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) I - GỢI Ý 1. Tác giả: (Xem bài Chị em Thuý Kiều). 2. Đoạn trích: Đây là đoạn trích ở phần đầu tác phẩm (sau đoạn tả tài sắc của chị em Thuý Kiều). Cơn tai biến đối với gia đình Thuý Kiều chưa xảy ra. Hai chị em đang sống những ngày tháng êm đềm. Nhân tiết Thanh minh, hai chị em đi trảy hội. Đoạn trích gồm mười tám câu, bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh đẹp ngày xuân, tám câu tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh, sáu câu cuối tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 1. Trong bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du đã sử dụng rất ít từ ngữ mà vẫn thể hiện được rất nhiều điều, từ 13
  14. phong cảnh (đường nét, màu sắc, khí trời, cảnh vật) cho đến tâm trạng của con người trước cảnh vật. Điều đó chỉ có được nhờ khả năng sử dụng, phối hợp từ ngữ đến mức điêu luyện. Những màu sắc tương phản được đặt cạnh nhau, việc đưa các yếu tố ngôn ngữ dân gian vào tác phẩm khiến cho ngôn ngữ thơ thêm hàm súc, giàu sức diễn tả. 2. Tám câu thơ tiếp theo, tác giả sử dụng rất nhiều từ ghép đôi, từ láy đôi đã được tác giả sử dụng trong các cấu trúc danh từ, động từ, tính từ, góp phần đắc lực trong việc thể hiện một khung cảnh lễ hội rộn ràng màu sắc, âm thanh, hình ảnh. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt theo nhịp đôi (2/2) cũng là một yếu tố gợi tả khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Đó là một lễ hội đã có từ xa xưa. Mặc dù ngày nay đã không còn phổ biến nhưng qua những câu thơ tả cảnh của Nguyễn Du, người đọc có thể hình dung rất rõ khung cảnh náo nức, nhộn nhịp của lễ hội ấy. 3. Sáu câu thơ cuối diễn tả cảnh chị em Thuý Kiều trên đường trở về. Một khung cảnh yên tĩnh, êm ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Vẫn có những từ láy đôi nhưng hầu như chỉ còn là những tính từ: tà tà, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, Không gian vì thế trở nên yên tĩnh lạ thường, không còn cảnh người đi kẻ lại tấp nập (được thể hiện chủ yếu qua những danh từ, động từ ở đoạn trước), không còn ríu rít tiếng nói cười. Thủ pháp tả đã được thay bằng thủ pháp gợi. Những tính từ tà tà, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ không chỉ gợi lên một không gian êm đềm mà còn thể hiện khá rõ tâm trạng của chị em Thuý Kiều. Có cái gì mơ hồ như là sự bâng khuâng, nuối tiếc. Lòng người hoà trong cảnh vật, như đang lắng lại cùng cảnh vật. 4. Qua đoạn thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi du xuân trong tiết Thanh minh, ta có thể thấy rất rõ nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Yếu tố quan trọng trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên ấy là nghệ thuật sử dụng từ ngữ. Bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả theo những mật độ khác nhau và phương thức khác nhau, Nguyễn Du đã phác hoạ những bức tranh phong cảnh vô cùng đặc sắc. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) I - GỢI Ý 1. Tác giả: (Xem bài Chị em Thuý Kiều). 2. Đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Gia đình Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam. Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà (chủ quán lầu xanh) vờ hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi. Đoạn trích gồm hai mươi hai câu. Sáu câu thơ đầu thể hiện hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều; tám câu thơ tiếp thể hiện nỗi thương nhớ của nàng về Kim Trọng và về cha mẹ; tám câu còn lại thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Thuý Kiều. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển: - Dưới trăng, quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông. - Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm đẹp, làm giàu có thêm rất nhiều cho ngôn ngữ dân tộc. Từng có ý kiến cho rằng, so với tiếng Hán vốn có tính hàm súc, tính biểu hiện rất cao thì tiếng Việt trở nên quá nôm na, ít khả năng biểu hiện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngôn ngữ tiếng Việt có một khả năng biểu hiện vô giới hạn. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi xuân: Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. 14
  15. Cảnh rất đẹp và thanh, ứng với tâm hồn hai chị em đang nhẹ nhàng thơi thới. Ngược lại, khi người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Trong một đoạn thơ khác thuộc Truyện Kiều, ông viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Hai câu thơ này thể hiện rất rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối quan hệ giữa tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật đẹp hay không đẹp, nhẹ nhàng, thanh thoát hay nặng nề, u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người trước cảnh đó. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là sự kết hợp, giao hoà của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Về cảnh vật có lầu cao, có non xanh nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu Thuý Kiều ở vào một hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng Kiều lại đang rất u ám, sầu não: bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều da diết nhớ cha mẹ, nhớ người yêu, đồng thời lại rất đau xót cho thân phận mình. Cảnh vật, do đó, nhuốm màu tâm trạng: Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Kiều ngắm cảnh hay Kiều đối cảnh? Thật khó có thể nói là "ngắm" theo nghĩa thông thường của từ này. Bởi "ngắm" có nghĩa là chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn. Kiều đang trong tâm trạng như thế sao có thể thưởng ngoạn cho được? Bởi vậy, dù có cả "vẻ non xa" lẫn "tấm trăng gần" nhưng cảnh vật ấy chẳng thể nào gợi lên một chút tươi vui hay ấm áp. Nhà thơ đã dùng hai chữ "ở chung" thật khéo. Kiều trông thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng chẳng khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) tưởng như phi lí nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh "bốn bề bát ngát" chỉ càng khiến cho lòng người thêm gợi nhớ: Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mang đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước không gian ấy cũng khó ngăn được nỗi buồn. Với Kiều, không gian rộng rãi, trống trải ấy chỉ càng khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái "tình" (tâm trạng) của Kiều nên đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã bắt vào mạch tả tâm trạng một cách hết sức tự nhiên. ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian cao rộng (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian dằng dặc (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn tủi của Kiều. "Nửa tình nửa cảnh" trước mắt là tình hay là cảnh, dường như cũng không còn phân biệt được nữa. Theo dòng tâm trạng của Kiều câu thơ bắt vào nỗi nhớ: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Nhớ nhà, trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến chén rượu thề nguyền dưới trăng. Đối với một người luôn đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa như Thuý Kiều, cảm xúc ấy thật xa xót. Càng nhớ đến Kim Trọng thì Kiều lại càng đau đớn cho thân phận mình. Việc Kiều thương Kim Trọng đang chờ mong tin mình một cách vô vọng đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy thật cao đẹp và đáng quý biết bao! Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có ý kiến cho rằng, Kiều đã nhớ đến người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, phải chăng là nàng đã đặt chữ "tình" lên trên chữ "hiếu"? Thực ra, việc Nguyễn Du miêu tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng trước rồi mới miều tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lí. Kiều không hề đặt chữ "hiếu" sau chữ "tình". Khi gia đình gặp tai biến, trước câu hỏi "Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?", Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ "hiếu" bằng hành động bán mình chuộc cha. Giờ đây, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm. 15
  16. Những thành ngữ, điển tích, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, Sân Lai, gốc tử) liên tục được sử dụng đã thể hiện rất rõ tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn trăn trở của Thuý Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh thực tế, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ nàng là một người con rất mực hiếu thảo. Tám câu thơ cuối cũng nằm trong số những câu thơ tả cảnh hay nhất của Truyện Kiều. Chúng thể hiện rất rõ nét nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" của Nguyễn Du: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dàu dàu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Nếu tách riêng các yếu tố ngoại cảnh ra mà xét thì có thể thấy đó là một khung cảnh thật thơ mộng và lãng mạn: có cánh buồm thấp thoáng, có man mác hoa trôi, có nội cỏ chân mây mặt đất một màu Thế nhưng khi đọc lên, những câu thơ này chỉ khiến cho lòng người thêm sầu muộn, ảo não. Nguyên nhân là bởi trước mỗi cảnh vật kia, sừng sững án ngữ cụm từ "buồn trông". Không phải là "xa trông" như người ta vẫn nói, cũng không phải là "ghé mắt trông" như Xuân Hương đã từng tinh nghịch mà điền trước đền thờ Sầm Nghi Đống, ở đây, nhân vật trữ tình chỉ có một tâm thế duy nhất: "buồn trông". Tâm trạng nàng đang ngổn ngang trăm mối: nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, cảm giác mình là người có lỗi, và nhất là đang hết sức đau xót cho thân phận mình. Bởi vậy, cảnh vật ấy cần được cảm nhận theo con mắt của Thuý Kiều: cánh buồm thấp thoáng nổi trôi vô định, hoa trôi man mác càng gợi nỗi phân li, nội cỏ không mơn mởn xanh mà "dàu dàu" trong sắc màu tàn úa Nổi bật lên trong cảnh vật đó là những âm thanh mê hoặc: Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã nhiều lần miêu tả âm thanh. Có thể nói lần nào ông cũng thành công. Có khi chỉ qua một vài từ, ông đã diễn tả rất chính xác cảnh huyên náo trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến nhà: Trước thầy sau tớ xôn xao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi. Nguyễn Du đặc biệt thành công khi ông tả tiếng đàn của Kiều. Tuỳ theo tâm trạng, mỗi lần tiếng đàn của Kiều cất lên là một lần người nghe phải chảy nước mắt khóc cho số phận oan nghiệt của nàng. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà tả tiếng sóng. Trong khung cảnh bát ngát, mênh mang, tiếng sóng vỗ "ầm ầm" (lưu ý: nhà thơ đã đảo ngữ để cho ấn tượng đó càng rõ ràng hơn) quả là một thứ âm thanh hết sức bất thường. Dường như nó muốn phá vỡ khung cảnh nặng nề nhưng yên tĩnh, nó dứt Kiều ra khỏi dòng suy tư về gia đình, người thân mà trả nàng về với thực tại nghiệt ngã. Ngoài ra, dường như đó còn là những dự cảm về quãng đời đầy những khổ đau, tủi nhục ê chề mà Kiều sắp phải trải qua. MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) I - GỢI Ý 1. Tác giả: (Xem bài Chị em Thuý Kiều). 2. Đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Sau khi gia đình bị vu oan, Kiều quyết định bán mình để lấy tièn cứu cha và gia đình khỏi tai hoạ. Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Bằng hình dáng bảnh bao và động tác sỗ sàng, Mã Giám Sinh đến mua Kiều và cò kè mặc cả như mua một món hàng. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 1. Trong đoạn trích, từ ngoại hình đến tính cách, bản chất của Mã Giám Sinh thể hiện bản chất con buôn, bất nhân, xem con người chỉ như một món hàng hoá có thể mua bán, thậm chí cò kè bớt xén. 2. Một người con gái tài sắc tuyệt trần như Kiều trở thành một món hàng trong một cuộc mua bán. Thương thân, xót phận mình là một lẽ, hơn nữa còn là cảm giác đau đớn, tái tê vì lòng tự trọng của một con 16
  17. người. Chỉ thoáng gợi, Nguyễn Du đã thể hiện được tâm trạng của Thuý Kiều trong một tình cảnh đáng thương, tội nghiệp. 3. Đoạn trích thể hiện tấm lòng cảm thương, xót xa trước thân phận nhỏ nhoi của con người, giá trị con người bị chà đạp; vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và đồng tiền lộng hành; gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn, đồng thời bày tỏ thái độ căm phẫn, khinh bỉ trước bọn buôn người giả dối, bất nhân. THUÝ KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN ( Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) I - GỢI Ý 1. Tác giả: (Xem bài Chị em Thuý Kiều). 2. Đoạn trích: Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai trong Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Sau khi chịu bao đau khổ, tủi nhục, đoạ đầy, Thuý Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng thoả nguyện đền ơn trả oán. Đây là trích đoạn tả cảnh báo ân, báo oán. Đoạn trích có thể thành hai phần: - Mười hai câu thơ đầu: Thuý Kiều báo ân (trả ơn Thúc Sinh); - Các câu thơ còn lại: Thuý Kiều báo oán (cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư). II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Đền ơn trả oán là một mô típ rất quen thuộc trong văn học dân gian, đặc biệt là trong các câu chuyện cổ tích. Người có công lao khó nhọc, ăn ở hiền lành, hay làm điều tốt thì sẽ được đền bù, kẻ ác sẽ bị trừng trị đích đáng. Đó là mơ ước của nhân dân ta. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dựng lên một cảnh báo ân báo oán. Thế nhưng, khác rất nhiều so với các câu chuyện cổ tích, cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều không đơn giản là sự thể hiện khát vọng công lí của nhân dân. Sức hấp dẫn của đoạn trích thể hiện chủ yếu ở khả năng khắc hoạ tâm lí nhân vật của nhà thơ. Cả đoạn trích gồm 34 câu với ba nhân vật, rất ít lời miêu tả, hầu như chỉ có lời Thuý Kiều nói với Thúc Sinh, lời qua tiếng lại giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư, vậy mà không chỉ chân dung, từ giọng điệu, tính tình của từng nhân vật đều được bộc lộ hết sức sinh động. Có thể dễ dàng nhận thấy trong đoạn trích có hai cảnh: báo ân và báo oán. Cảnh báo ân Chàng Thúc Sinh khi được "gươm mời đến" thì "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run". Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà run; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng "gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân" bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào. Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều "báo ân" hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa: Nàng rằng: "Nghĩa nặng tình non, Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng Tại ai há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là ". Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lí mà bằng cái tình của nàng. Điều này có vẻ như không hợp với cách nghĩ thông thường, không thoả mãn được một số bạn đọc khó tính nhưng chính ở đây lại làm bật lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nguyễn Du đã không xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo một công thức định sẵn. Ngược lại, ông đã tạo nên một nhân vật rất sinh động, rất đời thường. Kiều đã suy nghĩ, nói năng và hành động hoàn toàn hợp với phẩm chất và tính 17
  18. cách của nàng. Điều này càng được chứng minh rõ ràng hơn qua cảnh tiếp theo. Cảnh báo oán Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư vợ Thúc Sinh. Mặc dù không trực tiếp đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh nhưng Hoạn Thư cũng là kẻ đã gây không ít đau khổ cho cuộc đời Kiều. Con người đã trở thành hình tượng điển hình cho sự ghen tuông ấy đã lặng lẽ cho người đến bắt nàng về, đã dựng cảnh trớ trêu: bắt nàng hầu rượu Thúc Sinh để mà hả hê sung sướng khi tận mắt chứng kiến nỗi cực nhục của cả hai người. Thuý Kiều hẳn không thể quên nỗi nhục hôm ấy, theo đó thì tội của Hoạn Thư đáng chết một trăm lần. Thế nhưng Nguyễn Du đã không để cho lí trí của mình dẫn dắt sự việc một cách giản đơn. Ông âm thầm chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai người đàn bà (mà theo Thuý Kiều là "kẻ cắp, bà già gặp nhau"), thuật lại cuộc đấu khẩu của họ. Biệt tài của Nguyễn Du là khi chứng kiến và miêu tả cuộc đụng độ "nảy lửa" ấy, ông đã không thiên vị một ai, không đứng về phía nào. Ông để cho sự việc tự nó phát triển, từ đó đã tạo nên một trong những chi tiết nghệ thuật giàu chất sống, chất "tiểu thuyết" nhất của tác phẩm. Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ "thịt nát xương tan". Thuý Kiều đã khởi sự "báo oán" như thế nào? Thoắt trông nàng đã chào thưa: "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây! Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan! Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều". Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, "e lệ nép vào dưới hoa" ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hoá ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận. Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để "rứt da rứt thịt" Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả" ở đời ("Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều"). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu! Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng "Bề ngoài thơn thớt nói cười "Mà trong nham hiểm giết người không dao": Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca. Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình ". Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà", Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn" cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt, Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ "hồn lạc phách xiêu" chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình. Rốt cuộc, trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó người thua lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời "bào chữa" của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: "Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời" và tự nói với mình rằng: "Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen". Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn "báo ân" với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, Kiều vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Đây là một đoạn trích rất hấp dẫn, một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học trung đại tiến một bước rất dài. Miêu tả chân thực và sinh động đời sống như nó đang xảy ra, đó là một yếu tố quan trọng tạo nên "Chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du". 18
  19. LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA (Trích Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu) I - GỢI Ý 1. Tác giả: - Quê mẹ ở huyện Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh); quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (tức Đồ Chiểu, 1822-1888) thi đỗ tú tài năm 1843; đến năm 1849 thì mắt bị mù, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, Nguyễn Đình Chiểu tích cực tham gia phong trào kháng chiến, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn việc đánh giặc, đồng thời sáng tác thơ văn khích lệ tinh thần nghĩa sĩ. Khi Nam Kì rơi vào tay giặc, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre). Mặc dù thực dân Pháp và tay sai nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã giữ trọn lòng trung thành với Tổ quốc, kiên quyết không hợp tác với chúng. - "Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Bộ đã dùng chữ Nôm làm phương tiện sáng tác chủ yếu, để lại một khối lượng thơ văn khá lớn và rất quý báu. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu thiên về thể loại truyện thơ Nôm truyền thống, xoay quanh đề tài đạo đức xã hội, nổi tiếng nhất là truyện Lục Vân Tiên (khoảng đầu những năm 50, thế kỉ XIX) rồi đến Dương Từ - Hà Mậu. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu viết một loại tác phẩm nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu hi sinh của nhân dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu viết một loại tác phẩm nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu hi sinh của nhân dân và biểu dương những tấm gương anh hùng, liệt sĩ: Chạy tây (1859), Văn Tế Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vọng Lục tỉnh (1874), ngoài ra còn Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột), Thư gửi cho em và mốt số bài thơ Đường luật khác như Ngựa Tiêu sương, Từ biệt cố nhân, Tự thuật Từ sau khi Nam Bộ lọt hoàn toàn vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu còn viết một truyện thơ Nôm dài dưới hình thức hỏi đáp về y học Ngự Tiều y thuật vấn đáp. Có thể Nguyễn Đình Chiểu còn là tác giả của bài Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh tây rất phổ biến ở Nam Kì những ngày đầu chống Pháp. Nguyễn Đình Chiểu đã trao đổi ngòi bút của mình một "thiên chức" lớn lao là truyền bá đạo làm người chân chính và đấu tranh không mệt mỏi với những gì xấu xa để tiện, trái đạo lí, nhân tâm. Đó là khát vọng hành đạo cứu đời của người nho sĩ không may bị tật nguyền nhưng lòng vẫn tràn đầy nhiệt huyết. Từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm cuối cùng, chưa bao giờ ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu xa rời thiên chức ấy: " Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" (Trịnh Thu Tiết - Từ tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, NXB Đại học Sư phạm, 2004). 2. Tác phẩm - Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm rất nổi tiếng ở Nam Kì và Nam Trung Kỳ, được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX. Do được lưu truyền chủ yếu dưới hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian (kể thơ, nói thơ, hát thơ ) nên truyện có nhiều bản khác nhau. Theo văn bản phổ biến hiện nay thì truyện có 2082 câu thơ, được sáng tác theo thể lục bát. - "Truyện được sáng tác dưới hình thức truyện kể, ban đầu chỉ truyền miệng và chép tay, lưu hành trong đám môn đệ và những người mến mộ tác giả, rồi sau mới lan rộng ra nhân dân và ngay lập tức được truyền tụng rộng rãi khắp chợ cùng quê, hội nhập được sinh hoạt văn hoá dân gian, đặc biệt là ở Nam Kỳ, dưới hình thức "kể thơ","nói thơ," Vân Tiên"hát" Vân Tiên.Truyện được xuất bản lần đầu bằng chữ Nôm năm 1986 bằng chữ quốc ngữ năm 1897, bản dịch tiến Pháp đầu tiên là bản dịch của G.Aubaret xuất bản năm 1864. Từ đó đến nay có rất nhiều bản in khác nhau, do đó cũng có rất nhiều dị bản, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ, đặc biệt là ở đoạn kết. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát. Truyện kể về một chàng trai văn võ song toàn, tên là Lục Vân Tiên. Đang theo thầy học tập trên núi, nghe tin triều đình mở khoá thi, Vân Tiên xin phép thầy xuống núi đua tài. Dọc đường về thăm cha mẹ, Vân Tiên gặp một đám cướp đang hoành hành. Chàng đã một mình bẻ gậy xông vào đánh tan bọn cướp, cứu thoát tiểu thư con quan Tri Phủ là Kiều Nguyệt Nga. Làm xong việc nghĩa, không màng đến sự trả ơn, Vân Tiên thanh thản ra đi, gặp và kết bạn với Hớn Minh. Còn Nguyệt Nga, về tời phủ đường của cha, cảm ơn cứu mạng và cũng mến phục tài đức của Vân Tiên, nàng đã hoạ một bức hình Vân Tiên treo luôn bên mình. Vân Tiên về thăm cha mẹ rồi cùng Tiểu đồng lên đường tới trường thi. Qua Hàn Giang, chàng ghé thăm nhà Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Thấy Vân Tiên khôi ngô tuấn tú, Võ Công rất mừng, giới thiệu cho chàng một người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, lại cho con gái ra tiễn đưa Vân Tiên với những lời 19
  20. dặn dò tình nghĩa. Vân Tiên cùng Tử Trực tới kinh đô, gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cả bốn người vào quán uống rượu, làm thơ. Thấy Vân Tiên, Tử Trực tài cao, Trịnh Hâm sinh lòng đố kỵ, ghen ghét. Đúng ngày vào thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ chết, vội bỏ thi trở về quê chịu tang. Đường sá xa xôi vất vả, lại thương khóc mẹ nhiều, Vân Tiên bị đau mắt nặng. Tiểu đồng hết lòng chạy chữa thuốc thang nhưng chỉ gặp toàn những lang băm và các thầy bói, thầy pháp lừa đảo, bịt bợm nên tiền mất mà tật vẫn mang, Vân Tiên bị mù cả hai mắt. Đang khi bối rối lại gặp Trịnh Hâm đi thi trở về. Vốn sẵn tính đố kỵ, độc ác, Trịnh Hâm lập âm mưu dụ Tiểu đồng vào rừng hái thuốc, rồi trói vào gốc cây, lại nói dối Vân Tiên là Tiểu đồng đã bị cọp vồ. Hắn đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ về đến tận nhà. Nhưng khi thuyền ra giữa vời, lợi dụng đêm khuya thanh vắng, hắn đã đẩy chàng xuống nước. Tiểu đồng được Sơn quân cởi trói, tưởng Vân Tiên đã chết liền ở lại đó "che chói giữ mả", thờ phục sớm hôm. Còn Vân Tiên được Giao Long dìu đỡ, đưa vào bãi, lại được ông Ngư vớt lên, cứu chữa. Vân Tiên nhờ đưa tới nhà họ Võ để nương tựa. Nhưng cha con Võ Công tráo trở đã tìm cách hãm hại Vân Tiên, đem chàng bỏ vào trong hang núi Thương Tòng. Năm sáu ngày sau nhờ Du thần cứu, Vân Tiên mới ra được khỏi hang, lại được ông Tiều cho ăn và cõng ra khỏi rừng. May mắn chàng lại gặp được bạn hiền là Hớn Minh, vì "bẻ giò" cậu công tử con quan để cứu người con gái bị cưỡng bức giữa đường, Hớn Minh đã phải bỏ thi, lẩn trốn ở trong rừng. Hớn Minh đưa Vân Tiên về ngôi chùa cổ trong rừng nương náu. Cha con Võ Công, sau khi hãm hại được Vân Tiên lại tìm cách ve vãn Vương Tử Trực, lúc này đã đỗ thủ khoa đến nhà họ Võ để hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Vương Từ Trực lòng dạ thẳng ngay đã mắng thẳng vào mặt cha con Võ công bội bạc, phản phúc, khiến Võ Công hổ thẹn sinh bệnh mà chết. Còn Kiều Nguyệt Nga nghe tin Vân Tiên đã chết, nàng thề sẽ suốt đời thủ tiết thờ chồng. Nàng đa từ chối lời cầu hôn của gia đình quan Thái sự cho nên bị Thái sự thù oán, tâu vua bắt nàng đi cống giặc Ô Qua. Trước khi phải ra đi, nàng đã sang nhà họ Lục làm chay bảy ngày cho Lục Vân Tiên theo lễ vợ chồng, rồi để tiền bạc lại nuôi cha Vân Tiên. Khi thuyền tới nơi biên giới, Nguyệt Nga đã ôm bức bình hình Vân Tiên nhảy xuống biển, quan quân phải đem cô hầu gái Kim Liên thế vào. Nhờ được sóng thần và Phạt quan âm cứu giúp, Nguyệt Nga dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi ông, cha của Bùi Kiệm về, hắn vẫn tán tỉnh, đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải giả nhận lời, để tìm kế hoãn binh, rồi nửa đêm, nàng mang bức bình Vân Tiên trốn khỏi nhà họ Bùi vào rừng, nương nhờ ở nhà một bà lão dệt vải. Trong khi đó, Lục Vân Tiên đã được Tiên ông cho thuốc, mắt sáng như xưa. Chàng từ biệt Hớn Minh, trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ. Biết chuyện Nguyệt Nga, Vân Tiên cảm động, tìm đến thăm Kiều công, cha của nàng, rồi ở lại đó ôn nhuần kinh sử. Năm sau, gặp khoa thi, chàng đõ Trạng Nguyên. Xảy ra có giặc Ô Qua gây hấn, Vân Tiên phụng mệnh vua cầm quân đi đánh giặc, tiến cử Hớn Minh làm phó tướng. Giặc tan, Vân Tiên mải đuổi theo tướng giặc, lạc vào rừng, tời nhà lão bà để hỏi thăm đường và gặp được Kiều Nguyệt Nga. Chàng trở lại triều đình, tâu trình mọi việc với vua. Sở vương tỉnh ngộ, cách chức Thái sư, sắc phong chức cho Kiều công, ban thưởng những người có công dẹp giặc. Những kẻ bạc ác bất nhân như Trịnh Hâm, mẹ con Võ Thể Loan đều không thoát được lưới trời. Tiểu đồng, Ngư ông, Tiều phu đều được đền ơn xứng đáng. Vân Tiên và Nguyệt Nga sum họp một nhà, chung hưởng hạnh phúc dài lâu" (Trịnh Thu Tiết - Từ tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, Sđd). - Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Lục Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Sau đó, Vân Tiên lại tiếp tục cuộc hành trình. I - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 1. Qua đoạn trích, có thể nhận ra những tính cách nổi bật của Lục Vân Tiên. Trước hết, đó là sự cương trực, nghĩa khí, trọng lễ nghĩa và đạo lí. Đó là một chuẩn mực cho vẻ đẹp của kẻ trượng phu thời phong kiến. Qua những lời Kiều Nguyệt Nga nói với Lục Vân Tiên, có thể thấy nàng là một người con gái khuê các, ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng: "Chút tôi liễu yếu đào tơ", "Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng" 2. Hai nhân vật (Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga) trong đoạn trích này chủ yếu được miêu tả qua hành động và ngôn ngữ. Hành động thì mạnh mẽ, dũng cảm, lời nói thì cương trực, thẳng thắn, không một chút vòng vo uẩn khúc. Cách miêu tả như vậy rất gần với cách miêu tả trong truyện cổ tíc h: các nhân vật thường có tính cách nhất quán, rõ ràng, phân biệt rõ chính và tà, phải và trái, thiện và ác, 3. Ngôn ngữ trong Truyện Lục Vân Tiên rất gần với ngôn ngữ trong ca dao dân ca, rất mộc mạc, giản dị chứ không hàm súc, đa nghĩa như ngôn ngữ trong Truyện Kiều hay các tác phẩm thơ được viết theo thể lục bát sau này. Điều đó một phần có thể do điều kiện sáng tác (Nguyễn Đình Chiểu bị mù, khi viết thường phải nhờ người khác chép lại), một phần khác do cái "chất Nam Bộ" trong con người và cả trong văn chương 20
  21. Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói ông là người con của miền đất Nam Bộ, sống mộc mạc, giản dị và có tính cách rất mạnh mẽ, dứt khoát. LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN (Trích Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đinh Chiểu) I - GỢI Ý 1. Tác giả: (Xem bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga). 2. Đoạn trích: Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện. Trên đường đi thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi để về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên bị đau mắt nặng rồi bị mù cả hai mắt. Đang bơ vơ nơi đất khách quê người thì gặp Trịnh Hâm đi thi về. Vốn sẵn có lòng ganh ghét tài năng của Vân Tiên, Trịnh Hâm nhân đó tìm cách hãm hại chàng. Thừa lúc đêm khuya, hắn đẩy chàng xuống sông. Được giao long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ngư ông cưu mang, giúp đỡ. Thông qua sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, tác giả thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp ở đời. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM 1. Trịnh Hâm vốn là kẻ ganh ghét, đố kỵ, đồng thời cũng rất tàn ác, nham hiểm, hắn lại đợi lúc đêm khuya vắng, bất ngờ hãm hại Vân Tiên khiến không ai kịp cứu giúp chàng, chi tiết này càng cho thấy bản chất tàn ác, nham hiểm của Trịnh Hâm. Tuy kể bằng thơ nhưng, có thể thấy tác giả đã lựa chọn hình thức rất ngắn gọn, rõ ràng, giúp bạn đọc hình dung cụ thể tình tiết, diễn biến sự kiện. 2. Trong đoạn trích này, nếu như Trịnh Hâm là kẻ điển hình cho cái ác thì ông Ngư lại tiêu biểu cho cái thiện. Hành động của Trịnh Hâm càng tàn ác bao nhiêu thì cách ông Ngư cứu giúp Lục Vân Tiên lại càng đáng ca ngợi bấy nhiêu. Đoạn thơ cho thấy tác giả rất trân trọng những người lao động. Họ là biểu tượng của cái thiện, cái đẹp. Cách sống ung dung, tự tại của họ thật đáng ca ngợi. Họ mang đến cho ta tình yêu và niềm tin đối với cuộc sống. 3. Cũng như ở đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ngôn ngữ trong đoạn trích này rất giản dị, dễ hiểu, thể hiện rõ những cảm xúc và suy nghĩ chân thành của tác giả. Những câu thơ diễn tả lời ông lão nói về công việc của mình là những câu thơ đẹp. Dù rất cụ thể, ngắn gọn nhưng nó cho thấy tâm hồn phóng khoáng, tình yêu cuộc sống, yêu lao động của ông Ngư. ĐỒNG CHÍ (Chính Hữu) I - GỢI Ý 1. Tác giả: Nhà thơ Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946 ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Chính Hữu hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. "Bài thơ đầu tiên của Chính Hữu được biết đến là bài Ngày về (1947), thể hiện ý chí của những người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương đang nằm trong tay giặc. Chính Hữu thành công thực sự là bài Đồng chí (1948). Bài thơ được viết ngay sau chiến dịch Việt Bắc, thể hiện chân thực hình ảnh người lính cách mạng trong vẻ đẹp bình dị và tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết của họ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cũng như trong hòa bình, Chính Hữu gần như chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu: tình đồng chí, đồng đội (Đồng chí, Giá từng thước đất), cảm xúc và suy nghĩ của người lính về nhân dân, đất nước (Tháng Năm ra trận, Sáng hôm nay, Lá nguỵ trang. Ngọn đèn đứng gác ), tình cảm tha thiết với gia đình (Gửi mẹ, Thư nhà), nỗi đau thương và căm giận trước tội ác của kẻ thù thúc giục người chiến sĩ ra trận (Trang giấy học trò). Thơ Chính Hữu in đậm những hình ảnh của một đất nước ngày đêm đánh giặc, với khí thế mạnh mẽ và hào hùng của những cuộc hành quân không ngừng nghỉ. Mọi khung cảnh, âm vang của thời đại đã được đón nhận và tái hiện với sức vang ngân rất sâu trong tâm khảm nhà thơ, để trở thành những hình ảnh và ấn tượng đậm nét, giàu sức gợi cảm và ý nghĩa biểu trưng. Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu giàu hình ảnh, nhiều suy tưởng, ngôn ngữ chọn lọc, cô đọng. Ông thường sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhưng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và 21
  22. một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đường ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang giấy học trò). Chính Hữu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000" (Nguyễn Văn Long - Từ điển văn học, Sđd). 2. Tác phẩm: Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thường. Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội gắn bó thắm thiết của những người nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động, đẹp đẽ. II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí (1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao. Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: " Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình." Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm toả ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội. Những người đồng đội ấy thường là những người "nông dân mặc áo lính". Điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau: Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, "Anh và tôi" từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: "nước mặn đồng chua". Tôi từ vùng đất cao "cày lên sỏi đá". Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ: Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Những người "nông dân mặc áo lính" ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những "người lính cụ Hồ". Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người. ""Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng" (Trần Đình Sử - Đọc văn học văn, Sđd). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa "anh" và "tôi". Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí - chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây", nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế. ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê hương: 22
  23. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói "giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính" cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu: Cuộc đời gió bụi pha sương máu Đợt rét bao lần xé thịt da Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh Đâu còn tươi nữa những ngày hoa! Lòng tôi xao xuyến tình thương xót Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, "Đem thân xơ xác giữ sơn hà", Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính. Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: "Anh với tôi biết ", "áo anh - Quần tôi ", "tay nắm lấy bàn tay". Cái "Miệng cười buốt giá" kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì thế. Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính - khẩu súng - vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về không gian, để thành: "Đầu súng trăng treo.". Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam. Những người lính là đồng đội, đồng chí, cả dân tộc là đồng chí. Người nghệ sĩ cũng trở thành đồng chí, nên Hồng Nguyên và Chính Hữu đồng cảm với nhau trước những người áo vải: 23
  24. Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi "một hai" Súng bắn chưa quen, Quân sự mươi bài, Lòng vẫn cười vui kháng chiến Lột sắt đường tàu, Rèn thêm dao kiếm, áo vải chân không, Đi lùng giặc đánh. Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ, những người lính - những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu cho hạnh phúc, tự do. BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH (Phạm Tiến Duật) I - GỢI Ý 1. Tác giả: Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Các tác phẩm đã xuất bản: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng đường (thơ, 1971); ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Nhóm lửa (thơ, 1996). Nhà thơ đã được nhận Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969-1970. 2. Tác phẩm: Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970. Trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh giữa tuyến đường Trường Sơn lịch sử thời kì kháng chiến chống Mĩ. Với nhan đề "Nói thêm về tiểu đội xe không kính", tác giả Võ Minh trong Tài hoa trẻ, số 347-348, tháng 12-2004, đã viết: "Thường mỗi bài thơ đều có xuất phát điểm thư hứng. Hứng mà xuất thân thì bài thơ lấy "hứng" làm chủ đạo, từ đó cấu trúc thành "tứ", thành ý làm nổi bật cái "sự", phô diễn cái "tình". Không ít bài thơ do cái "sự: thúc bách thì "sự" là chủ đạo để hình thành tứ cho bài thơ trên nền móng của "tình" làm chất liệu. Bài thơ "Tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật thuộc mô típ thứ hai này. Hồi đó, vào những năm 1968- 1973, trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh thuộc địa phận đất bạn Lào có cả một hệ thống đường giao thông bộ. Những con đường chằng chịt, luồn lách trong bạt ngàn rừng già được các lực lượng bộ đội công binh Thanh niên xung phong dân công hỏa tuyến ngày đêm khai mờ. Phần lớn sức vóc khổng lồ của hậu phương miền Bắc tham gia cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc được vận hành, chuyên chở trên những con đường này. Sự vận chuyển diễn ra suốt ngày đêm không ngưng nghỉ, âm thầm mà náo nhiệt, dồn sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Trong các hình thức vận chuyển hậu cần qui mô to lớn ấy, xe ô tô là lực lượng vận chuyển chủ lực. Có nhiều trung đoàn, tiểu đoàn ô tô ở các binh trạm, trong đó có tiểu đoàn vận tải 61 là đơn vị hai lần đoạt danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang. Phạm Tiến Duật là một chiến sĩ - nhà thơ trong tiểu đoàn 61 anh hùng đó. Vì lí do trên nên máy bay Mĩ thường trực ngày đêm bắn chặn ta. Năm 1969, qui mô bắn phá của kẻ thù vô cùng ác liệt. Tại địa bàn của binh trạm 27, lộ trình vận chuyển qua cửa khẩu biên giới Việt - Lào có những nút giao thông như "Cua chữ A" (đường 10), đỉnh Cổng trời (đường 20), v.v sau vài tiếng đồng hồ 24