Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 9 cả năm

docx 68 trang xuanha23 06/01/2023 1841
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 9 cả năm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtai_lieu_boi_duong_hoc_sinh_gioi_ngu_van_9_ca_nam.docx

Nội dung text: Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 9 cả năm

  1. PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO GIO LINH TRƯỜNG PTCS TRUNG GIANG Giáo viên : Nguyễn Văn Quế
  2. TÀI LIỆU THAM KHẢO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9 (phần 1) HỆ THỐNG KIẾN THỨC DẠY - HỌC THỜI GIAN TÊN CHUYÊN ĐỀ NỘI DUNG CƠ BẢN 1. Củng cố, ôn tập 1.1. Khái quát một số kiến thức về văn bản một số đơn vị trong chương trình Ngữ văn 6,7,8. kiến thức cũ. 1.2. Ôn tập kiểu bài nghị luận chứng minh. Tháng 8/20 1.3. Ôn tập kiểu bài nghị luận giải thích. 1.4. Kiểu bài nghị luận tổng hợp. 2.1. Nghị luận văn học: Nghị luận về một 2. Chuyên đề 1: tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích. Văn nghị luận 2.2 Nghị luận xã hội: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; một vấn đề tư tưởng đạo lí. 2.3. Củng có khắc sâu kiến thức và kĩ năng làm văn nghị luận với các đề văn cụ thể gắn với các kiến HS đã hoc ở các lớp Dưới. 3.1. Cung cấp một số kiến thức lí luận: văn học là gì, các chức năng văn học, thể loại 3. Chuyên đề 2: văn học, nhà văn và quá trình sáng tác, văn Tìm hiểu về một số học và sự tiếp nhận văn học vấn đề lí luận 3.2. Hướng dẫn cách vận dụng lí luận văn văn học. học trong làm văn nghị luận. Tháng 9/20 4.1. Khái quát chung về văn học trung đại Việt Nam: thành phần cấu tạo, các nội dung chính, đặc điểm thi pháp 4. Chuyên đề 3: 4.2. Giới thiệu chi tiết về văn học trung đại Khái quát về Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ VI đến thế kỉ văn học trung đại XVIII. Việt Nam 4.3. Các bài tập củng cố chuyên đề. 5.1. Giới thiệu khái quát về tác giả và tập “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. 5. Chuyên đề 3: 5.2. Tìm hiểu chi tiết về “Chuyện người con Nguyễn Dữ và tập gái Nam Xương” “Truyền kì mạn 5.3. Luyện đề củng cố kiến thức chuyên đề. lục” Tháng10/ 20 6.1. Rèn luyện các kĩ năng xác định đề, xây dựng dàn ý, dựng đoạn, hành văn, khái quát, liên hệ, nâng cao, vận dụng lí luận văn học 6. Chuyên đề 4: 6.2. Kết hợp luyện đề với kiến thức các Kĩ năng làm văn chuyên đề đã học và các kiến thức mở rộng, nghị luận. tổng hợp.
  3. 7.1. Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác Tháng 10/ 20 7. Chuyên đề 5: phẩm “Truyện Kiều”. Tháng 11/ 20 “Truyện Kiều” 7.2. Tìm hiểu chi tiết các đoạn trích học và Nguyễn Du đọc thêm trong “Truyện Kiều”. 7.3. Luyện đề với các kiểu bài: thuyết minh, nghị luận, đặc biệt là các đề văn nâng cao mang tính khái quát so sánh. 8. Chuyên đề 6: 8.1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm. Tháng 11/20 Tác giả Nguyễn 8.2. Tìm hiểu chi tiết các đoạn trích học và Đình Chiểu và các văn bản khác của tác giả để hiểu thêm “Truyện Lục vẻ đẹp thơ văn và tâm hồn nhà thơ Nguyễn Vân Tiên”. Đình Chiểu. 8.3. Luyện đề khắc sâu kiến thức và tiếp tục rèn luyện kĩ năng làm văn. 9.1. Khái quát những nét lớn về lịch sử Việt 9. Chuyên đề 8: Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và Tháng 12/20 Văn học hiện đại những đặc điểm của tình hình văn học thời Tháng 1/20 Việt Nam từ sau kì này. Cách mạng tháng 9.2. Tìm hiểu một số tác giả, tác phẩm tiêu Tám 1945. biểu được học trong chương trình. 9.3. Tìm hiểu một số hình tượng chủ yếu của văn học giai đoạn này: hình tượng người lính, người lao động, người phụ nữ 9.4. Luyện đề về văn học hiện đại Việt Nam.
  4. 10.1. Củng cố kiến thức cơ bản và nâng cao trong chương trình. 10.2. Hệ thống những nét lớn từng thời kì văn học, từng chủ đề, so sánh, đối chiếu các vấn đề có sự tương đồng trong kiến thức Tháng 2,3/20 10. Ôn tập tổng chương trình. hợp 10.3 Luyện đề tổng hợp, kết hợp với việc và luyện đề tiếp tục rèn kĩ năng làm văn của HS: làm văn nghị luận văn học và nghị luận xã hội. 11.1.Ngoài các bước tiến hành ôn tập nh trên, GV tích cực ra đề kiểm tra đánh giá, HS làm bài, chấm chữa bằng nhiều hình thức khác nhau. 11.2. Bổ sung những kiến thức về các văn bản khác trong chương trình (một số văn bản nước ngoài, các văn bản học thêm ), đặc biệt có thể còn có kiến thức của các lớp 6,7,8 11.3 Giải đáp các thắc mắc của HS. 11.4. Chuẩn bị điều kiện tốt nhất để HS tự tin tham gia kì thi HSG các cấp.
  5. MỘT SỐ NỘI DUNG THAM KHẢO PHẦN VĂN NGHỊ LUẬN A. MỤC TIÊU: - Giúp HS củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học ở các lớp 7,8. - Hiểu thêm về một số kiểu bài nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí; nghị luận về một tác phẩm thơ, truyện hoặc một đoạn trích trong tác phẩm văn học. - Rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận: kĩ năng xác định đề, kĩ năng lập ý, dựng đoạn, kĩ năng diễn đạt - Đây là những kiến thức xuyên suốt trong năm học lớp 9 nhưng vì sau mỗi chuyên đề ngoài việc cung cấp kiến thức về tác giả, tác phẩm còn có phần luyện đề nên nội dung kiến thức về văn nghị luận được tìm hiểu sớm góp phần rèn kĩ năng tổng hợp cho HS trong học tập môn Ngữ văn. B. CHUẨN BỊ: - Tài liệu tham khảo: + Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu) + Nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận (Nhà xuất bản GD, nhiều tác giả) + Tập làm văn THCS (Tạ Đức Hiền) + Dạy học Tập làm văn THCS (Nguyễn Trí, NXB GD) - GV tổng hợp lí thuyết về văn nghị luận và các bài tập rèn luyện kĩ năng. - HS củng cố kiến thức về văn nghị luận đã học và đọc tài liệu bổ sung kiến thức. C. NỘI DUNG: I. Ôn tập văn nghị luận: - Khái quát chung về văn nghị luận: đặc điểm của văn nghị luận, đề văn nghị luận, lập ý cho bài văn nghị luận (phần này GV hướng dẫn HS tự ôn tập theo kiến thức Ngữ văn 7) - Phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận: phép lập luận chứng minh, phép lập luận giải thích, xây dựng và trình bày luận điểm trong văn nghị luận (phần này GV hướng dẫn HS tự ôn tập theo kiến thức Ngữ văn 8) - Các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả rtong văn nghị luận. - GV chú ý các tiêu chí của dẫn chứng văn chứng minh, lí lẽ trong văn giải thích. II. Giới thiệu các kiểu bài nghị luận trong chương trình Ngữ văn 9. 1. Phần lí thuyết: a. GV cung cấp các kiến thức lí thuyết cơ bản về các kiểu bài nghị luận: khái niệm, nội dung nghị luận, hình thức - bố cục bài văn nghị luận, dàn bài chung của các kiểu bài: - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. - Nghị luận về một vấn đề t tuởng, đạo lí. - Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc một đoạn trích). - Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. b. GV chú ý phân biệt giữa các kiểu bài nghị luận: - Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống lấy sự việc, hiện tượng đời sống làm đối tượng chính; nghị luận vè một vấn đề tư tưởng đạo lí lấy tư tưởng đạo lí làm đối tượng chính. Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống đi từ sự việc, hiện tượng cụ thể mà nâng lên thành vấn đề tư tưởng đạo đức; nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí thì từ vấn đề tư tưởng đạo đức mà suy nghĩ về cuộc sống xã hội sau khi được
  6. giải thích, phân tích thì vận dụng các sự việc, thực tế đời sống để chứng minh nhằm trở lại khẳng định (hay phủ định) một t tổng nào đó. - Nghị luận về một tác phẩm truyện (về nội dung, nghệ thuật, nhân vật, đoạn tích của tác phẩm) cần chú ý tới các đặc điểm của truyện: kết cấu, tình huống, chi tiết, sự việc, ngôn ngữ nhân vật Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần chú ý tới các đặc điểm của thơ: ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, cảm xúc, vần nhịp, các biện pháp tu từ 2. Kĩ năng làm bài văn nghị luận: a. Kĩ năng xác định đề: - Đọc kĩ đề, lu ý những từ ngữ quan trọng gợi hướng làm bài. - Xác định đúng kiểu bài nghị luận để tránh nhầm lẫn về phương pháp . - Xác định nội dung nghị luận để tránh lạc đề. - Xác định phạm vi t liệu cho bài viết. - GV đặc biệt lu ý kiểu ra đề có mệnh lệnh và không có mệnh lệnh, những đề mở để HS làm quen với những yêu cầu mới trong làm văn nghị luận, nhất là các đề nghị luận xã hội. b. Kĩ năng tìm ý và lập dàn ý: - Một bài văn hay trước hết là phải có những ý hay. Ý hay là ý đúng, sâu, mới và riêng. Khi tìm ý cần chú ý một số vấn đề sau: + Có những nhận xét khái quát từ những vấn đề nổi bật, tiêu biểu trong nội dung nghị luận. + Đề xuất luận điểm từ sự so sánh những nội dung, đối tượng cùng loại. + Xây dựng ý từ những ý kiến phản đề. + Đặt các câu hỏi tìm ý, nhất là đối với kiểu bài nghị luận xã hội - Lập dàn ý, sắp xếp các ý theo một trình tự hợp lí. c. Kĩ năng dựng đoạn: - Viết đoạn mở bài: + Mở bài theo cách trực tiếp. + Mở bài theo cách gián tiếp (chú ý rèn kĩ đối với HSG). - Viết các đoạn trong phần thân bài: + Các cách lập luận: diễn dịch, quy nạp, tổng hơp - phân tích + Kĩ năng liên kết giữa các đoạn văn: sử dụng từ ngữ, câu để liên kết. - Viết đoạn kết bài: + Xây dựng đoạn kết bài tương ứng với mở bài. + Các cách kết bài mở * Trong quá trình dựng đoạn, chú ý kĩ năng dùng từ, đặt câu, phát triển ý để tăng chất văn và độ sâu sắc cho bài viết. Kết hợp các kiến thức GV cung cấp, các ví dụ minh hoạ, cần dành thời gian cho HS luyện viết và chấm chữa, phát huy tính sáng tạo của HS trong làm văn.
  7. Chuyên đề TỪ VĂN BẢN ĐẾN BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI A. CƠ SƠ LÍ LUẬN Tích hợp là quan điểm cơ bản của việc đổi mới nội dung chương trình SGK và đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Ngữ văn của nhiều năm nay. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, các tác giả biên soạn đã thể hiện rất rõ quan điểm tích hợp này ở mọi hình thức: tích hợp ngang giữa các phân môn, tích hợp dọc, tích hợp đồng tâm Sự đổi mới này không chỉ giúp HS có được kiến thức tổng hợp mà còn có kĩ năng tốt hơn trong quá trình học và làm văn. Trong các kiểu làm văn, SGK Ngữ văn cũng đã thực sự chú ý đến kĩ năng vận dụng kiến thức tác phẩm để phục vụ cho các bài làm văn nghị luận văn học nh: chứng minh, giải thích, phân tích một đoạn thơ, đoạn truyện hoặc một tác phẩm thơ, một tác phẩm truyện. Bên cạnh đó còn có kiểu bài nghị luận xã hội giúp HS không chỉ rèn luyện tốt kĩ năng làm văn nghị luận mà còn có thêm cách nhìn, cách nghĩ về xã hội sâu sắc hơn, nhận thức được rõ hơn vai trò của mỗi cá nhân trước những vấn đề xã hội ngày nay. Có một điều thật lí thú là trong các tác phẩm văn học được học trong chương trình Ngữ văn, mỗi tác phẩm không chỉ là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống, là một nét tâm hồn của con người mà những tác phẩm đó còn có khả năng bồi đắp tâm hồn người đọc, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và con người quanh ta. Chính vì vậy các tác phẩm văn học này thực sự đã trở thành một nguồn tư liệu quý, là những đề tài phong phú cho bài làm văn nghị luận xã hội. Việc vận dụng kiến thức có trong văn bản vào làm văn nghị luận xã hội không chỉ giúp HS củng cố lại kiến thức văn bản mà còn giúp các em thành thạo hơn về kĩ năng làm văn và biết đi từ văn học đến cuộc sống. Bài viết này xin được bàn về kĩ năng vận dụng kiến thức văn bản được học trong chương trình Ngữ văn đến việc làm văn nghị luận xã hội với mục đích khẳng định tác dụng của quan điểm tích hợp trong đổi mới phương pháp dạy học và bàn thêm về kĩ năng làm văn của HS trong nhà trường. B. NỘI DUNG CHÍNH. I. Ý nghĩa xã hội của các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn. Văn học Việt Nam, cả văn học dân gian và văn học viết là sản phẩm tinh thần quý báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong trường kì lịch sử. Mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, văn học lại có những nội dung cụ thể, phản ánh một cách chân thực về xã hội và con người thời kì đó. Vốn có tinh thần cộng đồng ngay từ buổi đầu hình thành dân tộc, lại phải trải qua nhiều cuộc xâm lăng, phải thường xuyên vật lộn với những khắc nghiệt của thiên nhiên để sinh tồn và phát triển nên tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng đã trở thành truyền thống sâu sắc và bền vững của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước thể hiện trong tinh thần phục hng dân tộc ở thời Lí, trong hào khí Đông A thời Trần, trong ý thức sâu sắc và đầy tự hào về đất nước, về dân tộc ở thơ văn Nguyễn Trãi. Tinh thần ấy lại sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha hơn bao giờ hết trong thơ văn chống Pháp, trong văn học yêu nước đầu thế kỉ XX, đặc biệt là trong văn học của hai thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tinh thần yêu nước còn thể hiện trong những rung động và
  8. niềm yêu mến, tự hào về quê hương, thiên nhiên đất nước, tự hào về tiếng nói của dân tộc Các sáng tác văn học còn đề cao tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người - một truyền thống sâu đậm của văn học Việt Nam. Tất cả đều hướng về khẳng định những giá trị tốt đẹp của con người, lên tiếng mạnh mẽ bênh vực cho quyền sống của con người đồng thời nói lên khát vọng về hạnh phúc, mơ ước về tự do, lẽ công bằng. Nhiều tác phẩm hướng tinh thần nhân đạo vào những tầng lớp nghèo khổ, tố cáo mạnh mẽ những bất công xã hội, những thế lực thống trị, áp bức và lên tiếng đòi quyền sống xứng đáng cho con người. Các tác phẩm văn học mới đặc biệt hướng vào khẳng định những phẩm chất tốt đẹp và sức mạnh giải phóng của quần chúng nhân dân lao động, ngợi ca những tình cảm cộng đồng nh tình đồng chí, đồng bào. Nhiều tác phẩm đề cập đến những vấn đề gần gũi thiết thực trong đời sống tinh thần của mỗi con người nh tình cảm gia đình, sự giật mình thức tỉnh của lơng tâm trước vòng xoáy cuộc đời, truyền thống uống nước nhớ nguồn, những bài học đạo đức nhẹ nhàng mà sâu sắc về cái đẹp, tình yêu thương loài vật Văn học Việt Nam có lịch sử lâu dài, gắn bó mật thiết với lịch sử, với vận mệnh của nhân dân, lu giữ và toả chiếu tinh hoa, bản sắc tâm hồn dân tộc qua các thời đại; là vốn quý của nền văn hoá dân tộc; nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn, tính cách, tư tưởng cho các thế hệ người Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Tất cả các nội dung đó đều mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc và đều có thể trở thành một đề tài độc đáo cho các bài làm văn nghị luận, nhất là kiểu bài làm văn nghị luận xã hội. II. Đặc trưng của kiểu bài nghị luận xã hội. Văn bản nghị luận được tạo lập nhằm giải quyết một vấn đề nào đó đặt ra trong cuộc sống. Người viết sẽ trình bày các tư tưởng, quan điểm của mình về vấn đề đặt ra nhằm thuyết phục người đọc tán thành và làm theo. Vấn đề càng có ý nghĩa xã hội sâu rộng, văn bản nghị luận càng có giá trị. Nghệ thuật nghị luận càng sắc bén, chặt chẽ, văn bản càng có tác dụng rộng rãi và mạnh mẽ. Nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng lớn, từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng đời sống đến bàn luận những vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm chiến lợc, những vấn đề tư tưởng triết lí. Hình thức nghị luận thứ nhất là nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống. Vốn sống của học sinh bắt đầu từ nhận thức về từng sự việc trong đời sống hàng ngày: một vụ cãi lộn, đánh nhau, một vụ đụng xe dọc đường, một việc quay cóp khi làm bài, một hiện tượng nói tục, chửi bậy, thói ăn vặt xả rác, trẻ em hút thuốc lá, đam mê trò chơi điện tử, bỏ bê học tập Các sự việc, hiện tượng nh thế học sinh nhìn thấy hằng ngày ở xung quanh nhưng ít có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chúng về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng xung quanh mà các em không xa lạ, từ những suy nghĩ của bản thân mà viết những bài văn nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, đánh giá đúng đắn của mình. Đó có thể coi là một hình thức nghị luận phù hợp với kinh nghiệm lứa tuổi và trình độ suy luận của học sinh. Hình thức nghị luận thứ hai là nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí bàn về một tư tưởng, đạo đức, lối sống có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người. Các tư tưởng đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Những tư tưởng, đạo lí ấy thường đựơc nhắc đến trong đời
  9. sống song hiểu cho rõ, cho sâu, đánh giá đúng ý nghĩa của chúng là một yêu cầu cần thiết đối với mỗi người. Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có phần giống với bài nghị luận về về một sự việc, hiện tượng đời sống ở chỗ: sau khi phân tích sự việc, hiện tượng, người viết có thể rút ra những tư tưởng và đạo lí đời sống. Nhưng hai kiểu bài này khác nhau về xuất phát điểm và lập luận. Về xuất phát điểm, bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống xuất phát từ sự thực đời sống mà nêu tư tưởng, bày tỏ thái độ. Bài nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí, sau khi giải thích, phân tích thì vận dụng các sự thật đời sống để chứng minh nhằm trở lại khẳng định (hay phủ định) một tư tưởng nào đó. Đây là nghị luận nghiêng về tư tưởng, khái niệm, lí lẽ nhiều hơn; các phép lập luận giải thích, chứng minh, tổng hợp thường được sử dụng nhiều. Như vậy, kiểu bài nghị luận xã hội trước hết được dùng để bàn luận, đánh giá, nhận xét về những vấn đề xã hội, những hiện tượng, sự việc hoặc những vấn đề tư tưởng đạo lí trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người. Nh trên đã chỉ ra, các tác phẩm văn học cũng trở thành một nguồn đề tài vô cùng phong phú, có nhiều nội dung trở thành đối tượng của kiểu bài nghị luận. Trong chương trình Ngữ văn 9, nhiều tác phẩm đã tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con người Việt Nam trong suốt thời kì lịch sử từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Đất nước và con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ với nhiều gian khổ, hi sinh nhưng rất anh hùng, công cuộc lao động xây dựng đất nước và những quan hệ tốt đẹp của con người. Những điều chủ yếu mà các tác phẩm đã thể hiện chính là tâm hồn, tình cảm, tư tưởng con người trong một thời kì lịch sử có nhiều biến động lớn lao, những đổi thay sâu sắc: tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí, sự gắn bó với cách mạng, lòng kính yêu Bác Hồ, những tình cảm gần gũi bền chặt của con người nh tình bà cháu, tình mẹ con trong sự thống nhất chung những tình cảm rộng lớn. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể để minh chứng và có thể coi là một tư liệu vận dụng trong quá trình giảng dạy nhằm mục đích củng cố sâu sắc hơn kiến thức đọc hiểu của học sinh, khả năng liên hệ đến thực tế và rèn thêm kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho các em. III. Từ văn bản đến bài văn nghị luận xã hội. 1. Yêu cầu chung của bài văn nghị luận xã hội lấy đề tài từ các văn bản. a. Mục đích kiểu bài: - Củng cố kiến thức văn bản cho học sinh, giúp các em hiểu thêm về ý nghĩa của văn chương trong đời sống xã hôi. Khẳng định tính giáo dục, tính tư tưởng của tác phẩm, và bồi đắp thêm tình cảm cho học sinh với văn học, tình cảm với cuộc sống, con người xung quanh. - Rèn luyện kĩ năng làm văn, khả năng liên hệ và đánh giá một vấn đề văn học mang tính xã hội. b. Xác định đúng kiểu bài: Nghị luận xã hội (Phần lớn là nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí). c. Xác định nội dung nghị luận của đề bài yêu cầu: - Đề có thể yêu cầu rõ, nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí đã được xác định trong nội dung bài học. Ví dụ: lí tưởng của thanh niên ngày nay (được gợi ý từ văn bản “Lặng lẽ Sa Pa”), ý nghĩa của gia đình và quê hương trong đời sống con người (được gợi ý từ văn bản “Nói với con”), mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể (được gợi ý từ kịch “Tôi và chúng ta”, “Mùa xuân nho nhỏ”)
  10. - Đề có thể mở để học sinh chọn lựa nội dung nghị luận, bàn sâu vào một vấn đề nào đó được gợi ý từ văn bản đã học. Ví dụ: vẻ đẹp của đức tính khiêm nhường em học được trong ý thơ Thanh Hải trong bài “Mùa xuân nho nhỏ”, và cũng ở đó có thể chọn nội dung nghị luận khác quan niệm về sự cống hiến của mỗi cá nhân với quê hương, với cuộc đời chung d. Các nội dung chính trong bài viết: - Trước hết học sinh hiểu và phải trình bày được những ý hiểu của mình về nội dung mà tác phẩm đề cập đến. Đây là ý phụ trong bài viết nhưng không thể thiếu và cũng không làm quá kĩ dễ lạc sang kiểu bài nghị luận văn học. Học sinh bằng sự phân tích để đi đến khái quát nội dung xã hội cần nghị luận. - Nội dung chính của bài viết là các em cần trình bày những hiểu biết của bản thân về vấn đề xã hội được nhắc đến trong văn bản bằng vốn kiến thức thực tế trong cuộc sống, thực trạng của vấn đề với các mặt tốt - xấu, đúng - sai, cũ - mới Từ đó bày tỏ thái độ, quan điểm và đa ra những giải pháp, liên hệ mở rộng vấn đề , giải quyết vấn đề sâu sắc và thuyết phục. e. Hình thức của bài viết: - Bài viết đảm bảo bố cục thông thường một bài văn nghị luận: mở bài, thân bài và kết luân. Các đoạn văn trong bài có tính liên kết chặt chẽ cả về nội dung và hình thức. - Diễn đạt bằng các hình thức lập luận của văn nghị luận: giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp. Dẫn chứng của kiểu bài này có phạm vi rộng, nhiều nhất là trong đời sống xã hội và có thể trong cả văn học, lịch sử 2. Một số đề văn nghị luận xã hội từ các văn bản. Đề số 1: Trong bài thơ “Con cò” nhà thơ Chế Lan Viên có viết: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” Ý thơ gợi cho em những suy nghĩ gì về tình mẹ trong cuộc đời của mỗi con người. Để làm được đề bài này, học sinh cần xác định đúng các yêu cầu sau: - Kiểu bài: Nghị luận xã hội (nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí) - Nội dung nghị luận: Vẻ đẹp (ý nghĩa) của tình mẹ trong cuộc đời mỗi con người. - Phạm vi tư liệu: Những hiểu biết và suy nghĩ của cá nhân về tình mẹ trong cuộc sống của mỗi người. - Các nội dung cần viết: + Giải thích qua ý thơ của tác giả Chế Lan Viên (ý phụ): Dựa trên nội dung bài thơ “Con cò”, đặc biệt là hai câu thơ mang ý nghĩa triết lí sâu sắc khẳng định tình mẹ bao la, bất diệt. Trước mẹ kính yêu, con dù có khôn lớn trưởng thành nh thế nào đi chăng nữa thì vẫn là con bé nhỏ của mẹ, rất cần và luôn được mẹ yêu thương, che chở suốt đời. + Khẳng định vai trò của mẹ trong cuộc sống của mỗi người (ý chính): Mẹ là người sinh ra ta trên đời, mẹ nuôi nấng, chăm sóc, dạy dỗ chúng ta. Mẹ mang đến cho con biết bao điều tuyệt vời nhất: nguồn sữa trong mát, câu hát thiết tha, những nâng đỡ, chở che, những yêu thương vỗ về, mẹ là bến đỗ bình yên của cuộc đời con, là niềm tin, là sức mạnh nâng bước chân con trên đường đời, Công lao của mẹ nh nước trong nguồn, nước biển Đông vô tận. (Dẫn chứng cụ thể)
  11. + Mỗi chúng ta cần phải làm gì để đền đáp công ơn của mẹ? Cuộc đời mẹ không gì vui hơn khi thấy con mình mạnh khoẻ, chăm ngoan, giỏi giang và hiếu thảo. Mỗi chúng ta cần rèn luyện, học tập và chăm ngoan để mẹ vui lòng: vâng lời, chăm chỉ, siêng năng, học giỏi, biết giúp đỡ cha mẹ (Có dẫn chứng minh hoạ). + Phê phán những biểu hiện, những thái độ, hành vi cha đúng với đạo lí làm con của một số người trong cuộc sống hiện nay: cãi lại cha mẹ, ham chơi, làm những việc vi phạm pháp luật để mẹ lo lắng, đau lòng Có thể phê phán tới cả những hiện tượng mẹ ruồng rẫy, vất bỏ con, cha làm tròn trách nhiệm của người cha, người mẹ + Liên hệ, mở rông đến những tình cảm gia đình khác: tình cha con, tình cảm của ông bà và các cháu, tình cảm anh chị em để khẳng định đó là những tình cảm bền vững trong đời sống tinh thần của mỗi người. Vì vậy mỗi chúng ta cần gìn giữ và nâng niu. Tình cảm gia đình bền vững cũng là cội nguồn sức mạnh dựng xây một xã hội bền vững, đẹp tươi. Đề số 2: Lấy tựa đề “Gia đình và quê hương - chiếc nôi nâng đỡ đời con”, hãy viết một bài nghị luận nêu suy nghĩ của em về nguồn cội yêu thương của mỗi con người. - Đề bài này được dựa trên nội dung, ý nghĩa của bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, một bài thơ đã viết rất thành công về gia đình và quê hương bằng phong cách rất riêng của một nhà thơ dân tộc. - Bài viết của học sinh trên cơ sở kiến thức văn bản đó cần đảm bảo các yêu cầu sau: + Khẳng định ý nghĩa của gia đình và quê hương trong cuộc sống của mỗi con người: Gia đình là nơi có mẹ, có cha, có những người thân yêu, ruột thịt của chúng ta. Ở nơi ấy chúng ta được yêu thương, nâng đỡ, khôn lớn và trưởng thành. Cùng với gia đình là quê hương, nơi chôn nhau cất rốn của ta. Nơi ấy có mọi nguời ta quen biết và thân thiết, có cảnh quê thơ mộng trữ tình, có những kỉ niệm ngày ấu thơ cùng bè bạn, những ngày cắp sách đến trường Gia đình và quê hương sẽ là bến đỗ bình yên cho mỗi con người; dù ai đi đâu, ở đâu cũng sẽ luôn tự nhắc nhở hãy nhớ về nguồn cội yêu thương. + Mỗi chúng ta cần làm gì để xây dựng quê hương và làm rạng rỡ gia đình? Với gia đình, chúng ta hãy làm tròn bổn phận của người con, người cháu: học giỏi, chăm ngoan, hiếu thảo để ông bà, cha mẹ vui lòng. Với quê hương, hãy góp sức trong công cuộc dựng xây quê hương: tham gia các phong trào vệ sinh môi trường để làm đẹp quê hương, đấu tranh trước những tệ nạn xã hội đang diễn ra ở quê hương. Khi trưởng thành trở về quê hương lập nghiệp, dựng xây quê mình ngày một giầu đẹp + Có thái độ phê phán trước những hành vi phá hoại cơ sở vật chất, những suy nghĩ cha tích cực về quê hương: chê quê hương nghèo khó, chê người quê lam lũ, lạc hậu, làm thay đổi một cách tiêu cực dáng vẻ quê hương mình + Liên hệ, mở rộng đến những tác phẩm viết về gia đình và quê hương để thấy ý nghĩa của quê hương trong đời sống tinh thần của mỗi con người: “Quê hương” (Đỗ Trung Quân), “Quê hương” (Giang Nam), “Quê hương” (Tế Hanh), “Nói với con” (Y Phương) + Nâng cao: Nguồn cội của mỗi con người là gia đình và quê hương, nên hiểu rộng hơn quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra và lớn lên, quê hương còn là Tổ quốc;
  12. tình yêu gia đình luôn gắn liền với tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Mỗi con người luôn có sự gắn bó những tình cảm riêng t với những tình cảm cộng đồng Đề số 3: Trước khi vĩnh biệt cõi đời, nhà thơ Thanh Hải gửi lại lời trăng trối bằng những thật câu thơ giản dị: “Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mơi Dù là khi tóc bạc.” (Trích “Mùa xuân nho nhỏ”) Theo em tác giả đã nhẹ nhàng nhắc chúng ta điều gì qua những dòng thơ ấy? Bài viết của học sinh cần đảm bảo một số yêu cầu sau: - Hiểu khái quát về ý thơ của nhà thơ Thanh Hải: Những câu thơ bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước, thể hiện khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé của mình cho đất nước, cho cuộc đời chung. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những tình ảnh thơ đệp một cách tự nhiên, giản dị. Đó mới là ý nghĩa cao quý của đời người. - HS có thể bàn luận sâu về một trong các ý sau : + Vẻ đẹp của đức tính khiêm nhờng, thái độ của mỗi cá nhân trước những cống hiến vì tập thể, vì quê hương. HS cần nêu rõ khiêm nhờng là gì, biểu hiện của đức tính khiêm nhờng, ý nghĩa của đức tính khiêm nhờng trong cuộc sống, trái với khiêm nh- ờng là tự kiêu, tự đại + Ý nghĩa của cuộc đời mỗi con người trong cuộc đời chung: Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời chung một nét đẹp riêng, phải cống hiến cái phần tinh tuý, dù là bé nhỏ cho đất nước và phải không ngừng cống hiến dù khi còn trẻ hay lúc tuổi đã già. - Trong bài viết cần có dẫn chứng về người thật, việc thật hoặc các dẫn chứng có từ trong các tác phẩm văn học được học và đọc thêm trong chương trình nh: “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long), “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê), “Khoảng trời, hố bom” (Lâm Thị Mĩ Dạ) - Liên hệ tới bản thân về thái độ sống khiêm nhờng trước mọi người, trước bạn bè (Nếu chọn ý 1). Hoặc liên hệ tới bản thân khi còn là học sinh cần làm gì để góp phần vào việc dựng xây quê hương, đất nước, xây đắp cuộc đời chung (Nếu chọn ý 2). Đề số 4: Nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “Bến quê” (Nguyễn Minh Châu) vào những ngày cuối cùng của cuộc đời mình đã tìm thấy vẻ đẹp quê hương nơi bãi bồi bên
  13. kia sông ngay trước của sổ nhà mình. Sự phát hiện đó của Nhĩ gợi cho em suy nghĩ gì về cái đẹp trong cuộc sống? - HS phải xác định được bài viết thuộc kiểu bài nghị luận xã hội-nghị luận về một vấn đề t tởn: Quan niệm về cái đẹp trong cuộc sống của mỗi con người. - Bài làm cần đảm bảo cơ bản các nội dung sau: + Phân tích được tâm trạng của nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời khi phát hiện ra bãi bồi bên kia sông, ngay trước của sổ nhà mình. Nhĩ trước đó từng đi khắp mọi nơi trên trái đất nhưng về cuối đời anh mắc bệnh trọng nằm liệt giêng mọi hoạt động của anh đều phải nhờ vào người thân. Chính lúc này anh mới nhận ra vẻ đẹp của những cánh hoa bằng lăng, của mặt sông Hồng màu đỏ nhạt, một dải đất bồi dấp dính phù sa, của những sắc màu thân thuộc nh da thịt, nh hơi thở thân thuộc. Đó là những phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng gửi gắm tâm trạng của một con người nặng trĩu những từng trải, đau thương: yêu quê hương nhưng một đời phải li hương, thường hờ hững và mắc vào những điều vòng vèo, chùng chình nên bây giờ cảm thấy tiếc nuối, xa xôi. Qua đó nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến mọi người một thông điệp: Cái đẹp thật gần gũi, cái đẹp nằm ngay trong những điều giản dị, tiêu sơ của cuộc đời mà mỗi người vì sự thờ ơ có thể lãng quên. + Khẳng định cái đẹp nằm trong những điều giản dị, gần gũi: cái đẹp trong lời ăn tiếng nói, trong trang phục giản dị hợp người hợp cảnh, trong gia đình với ngôi nhà sạch sẽ gọn gàng, trong cách trang trí nhẹ nhàng thanh thoát không một chút cầu kì, phô Trương; cái đẹp trong một buổi sớm mai trên con đường quen thuộc từ nhà đến trường, trong những bông hoa dại ven đường mong manh bé nhỏ; cái đẹp trong những cử chỉ thân mật gắn bó giữa bạn bè + Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích thực của cuộc sống. Trước hết mỗi người phải biết yêu cái đẹp, trân trọng và nâng niu vẻ đẹp trong cuộc đời. Mỗi người phải biết tạo ra cái đẹp cho mình và cho mọi người để tô điểm cho cái đẹp của cuộc sống quanh ta. Có thể liên hệ tới những câu nói “Ăn cho mình mặc cho người” hoặc “Không có người phụ nữ náo xấu, chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp mà thôi” + Phê phán những quan niệm sai lầm về cái đẹp của nhiều người trong cuộc sống hiện nay: đẹp là phải ăn mặc sành điệu, đúng mốt hợp thời trang, đẹp là phải sống trong ngôi nhà cao tầng trang trí cầu kì sang trọng trong khi chủ nhân của những trang phục, ngôi nhà đó sống cha đẹp; đẹp là phải đi đến những nơi xa lạ, những nơi có danh lam thắng cảnh trong khi người khách du lịch ấy cha nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn môi trường xung quanh, xem thường những nơi từng gắn bó, thân quen từ trước + Từ đó biết làm đẹp cho mình một cách phù hợp, làm đẹp cho quê hương, cho cuộc đời chung, biết trân trọng những giá trị đích thực, giản dị và bền vững của cuộc đời. Liên hệ đến ý thơ của tác giảTố Hữu: “Còn gì đẹp trên đời hơn thế. Người với người sống để yêu nhau.” Yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng là một cách sống đẹp. Đề số 5: Từ nhan đề và ý nghĩa vở kịch: “Tôi và chúng ta” của tác giả Lu Quang Vũ, hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ của em về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay.
  14. - HS cần xác định đúng yêu cầu đề bài: nghị luận về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống hiện nay. (Dựa trên những kiến thức đọc hiểu văn bản kịch “Tôi và chúng ta”). Đây là một vấn đề tư tưởng mang tính xã hội sâu sắc mà cuộc sống hiện nay rất cần phải đặt ra và cũng là một vấn đề khó đối với học sinh. - Bài cần đảm bảo các ý chính sau: + HS trình bày những hiểu biết khái quát về nhan đề và ý nghĩa vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lu Quang Vũ. Vở kịch phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi tổ chức, lề lối hoạt động sản xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi. Một bên là tư tưởng bảo thủ kh kh giữ lấy nguyên tắc, quy chế cứng nhắc, lạc hậu với một bên là tinh thần giám nghĩ giám làm, khát khao đổi mới vì lợi ích của tập thể. Qua nhan đề, cùng với xung đột của hai phía, tác giả khẳng định không có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung. Cái ta được hình thành từ nhiều cái tôi cụ thể. Cái tôi vì tập thể, vì cái chung, cái tôi phải được hoà trong cái ta nhưng cần có tiếng nói riêng và đúng đắn theo những quan điểm tiến bộ của thời đại. + HS trình bày những hiểu biết về cái TÔI và cái TA. Tôi là số ít, là một cá nhân với những suy nghĩ và cuộc sống riêng. Ta vừa là số ít vừa là số nhiều nhưng được hiểu ở đây là chỉ số nhiều, chỉ tập thể của nhiều cái tôi cùng tham gia. Giữa Tôi và Ta phải có mối quan hệ nhất định: trong tôi có ta, trong ta có tôi. Có tập thể khi có nhiều cá nhân cùng tham gia, trong tập thể có tiếng nói cá nhân. Một tập thể mạnh khi có nhiều cá nhân xuất sắc, một tổ chức ổn định thì đời sống cá nhân cũng ổn định, vững vàng + Những biểu hiện cụ thể của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống hiện nay: Trong nhiều tổ chức, nhiều tập thể vẫn có những cá nhân hết lòng cống hiến sức khoẻ, năng lực, tâm huyết để dựng xây cơ quan, đơn vị mình công tác. Họ có thể là những lãnh đạo của cơ quan, họ cũng có thể là các nhân viên, bảo vệ, là các bạn cán bộ lớp, các thành viên trong lớp Đơn vị đó vì vậy mà không ngừng lớn mạnh góp thêm vào việc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, phong trào của nhà trường (Dẫn chứng minh hoạ, có thể trong các văn bản đã học) Nhưng trước những biến động và đổi thay không ngừng của nền kinh tế thị trường, nhu cầu cuộc sống cá nhân ngày một khác đã trở thành khá phổ biến những quan niệm cho rằng trước hết phải vì cuộc sống của chính mình, vì lợi ích của riệng mình. Vì vậy trước tập thể nhiều cá nhân đã không đóng góp hết mình và dựa dẫm ỉ lại vào số đông theo suy nghĩ “Nước nổi thì bèo nổi”. Họ tìm cách để thu vào túi mình những nguồn lợi lớn nhất để ổn định cuộc sống gia đình và hưởng thụ, họ thờ ơ trước những thay đổi của đơn vị mình, thờ ơ trước những khó khăn của mọi người xung quanh. Họ không giám đấu tranh trước những cái sai, cái xấu, bàng quan và vô u vì sợ liên luỵ đến mình, ảnh hưởng đến danh tiếng, chức sắc, thu nhập Có thể nói mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống ngày nay có phần xấu đi, dờng nh mọi người chỉ còn làm việc theo trách nhiệm và làm vừa đủ, vừa đúng thậm chí cha hoàn thành công việc của mình (Dẫn chứng ở tập thể lớp, ở địa phương hoặc ở một cơ quan đơn vị mà em biết). + Trước hiện trạng đó mỗi cá nhân chúng ta cần phải làm gì? Xác định lại quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, tinh thần trách nhiệm của mỗi người trong tổ chức, đơn vị mình công tác và sinh hoạt. Tập thể phải bảo vệ quyền lợi của mỗi cá nhân, bênh vực cá nhân, động viên, khích lệ họ vợt lên mọi hoàn cảnh để có nhiều đóng góp vì lợi ích chung
  15. + Liên hệ mở rộng đến những quan điểm của người xa: “Một cây làm chẳng lên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể còn được hiểu rộng ra là sự hợp tác và hữu nghị không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế. Trong cơ chế hoà nhập ngày nay cá nhân nói riêng, đơn vị, cơ quan, tỉnh thành, quốc gia cần kịp thời nắm bắt cơ hội hoà nhập nhưng trong sự hoà nhập đó không có sự hoà tan, trong cái riêng có những cái chung và Ngược lại. Tất cả vì tinh thần đoàn kết, hoà bình cùng phát triển và tiến bộ 4. Một số đề tham khảo: Đề số 1: Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình yêu làng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” được nhà văn Kim Lân viết lại thật chân thành và cảm động. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tình yêu làng của những người con quê hương được thể hiện nh thế nào? Hãy bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng đó. Đề số 2: Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Đọc sách có ba điều tốt: mắt tốt, miệng tốt, tâm tốt”; nhà lí luận văn học, nhà mĩ học Chu Quang Tiềm trong bài “Bàn về đọc sách” cũng khẳng định: “ Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là con đường quan trọng của học vấn”. Sách có tầm quan trong Như vậy nhưng hiện trạng của việc đọc sách ngày nay nh thế nào, hãy bàn về điều đó? Đề số 3: Từ văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của tác giả Vũ Khoan đến những suy nghĩ của em về hành trang của người học sinh trong một xã hội với những phát triển không ngừng về khoa học, công nghệ và kinh tế nh hiện nay. Đề số 4: Gác-xi-a Mác-két trong bài viết “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” đã chỉ ra nguy cơ của chiến tranh hạt nhân đe doạ loài người và nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh để ngăn chặn nguy cơ ấy. Là một người yêu chuộng hoà bình, em gửi thông điệp gì đến mọi người để bảo vệ nền hoà bình thế giới? Đề số 5: “Truyện Kiều” được coi là “đền thiêng” của nền văn học Việt Nam nói riêng, nền văn hoá dân tộc nói chung. Nhiệm vụ của em trong việc bảo vệ và giữ gìn những giá trị tinh thần đó của dân tộc. Đề số 6: Kết thúc truyện ngắn “Cố hương” nhà văn Lỗ Tấn có viết: “Cũng giống nh con đường trên mặt đất; kì thực làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Con đường đi đến thành công trong học tập có giống “con đường trên mặt đất”? PHẦN CẢM THỤ VĂN HỌC 1. Lí thuyết và kĩ năng phần cảm thụ văn học GV tham khảo nội dung được học ở các lớp Dưới. 2. Một số lu ý khi cảm thụ văn học trong làm văn lớp 9: - Ngoài kĩ năng cảm thụ đã học, HS cần gia tăng trong bài viết của mình cách đánh giá, bình luận, khả năng liên hệ, so sánh, khái quát về đối tượng cảm thụ. - Hành văn sắc sảo, có thể bộc lộ quan điểm của cá nhân trước đối tượng cảm thụ, có thể đi Ngược với những cách cảm nhận thông thường nhưng phải đủ lời lẽ để thuyết phục mọi người về quan điểm cá nhân đa ra.
  16. - Vì lớp 9 là năm cuối cấp nên nội dung cảm thụ có thể có những vấn đề đã được học trong các chương trình lớp Dưới, chương trình đang học và cả những kiến thức ngoài chương trình (mới) để đánh giá khả năng cảm thụ của các em một cách khách quan. 3. Một số nội dung cảm thụ văn học: - Một bài thơ, một bài ca dao, một đoạn trích trong tác phẩm thơ hoặc truyện (Có thể trong chương trình lớp 9 hoặc các lớp 6,7,8 và các văn bản khác ngoài chương trình. - Cảm thụ trên cơ sở so sánh các nội dung về cùng một đề tài, của cùng một tác giả, cùng một thời đại 4. Một số đề bài tham khảo: Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp cảnh ra khơi trong các đoạn thơ sau: “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Chiếc thuyền nhẹ hăng nh con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vợt trường giang. Cánh buồm giơng to nh mảnh hồn làng Rớn thân trắng bao la thâu góp gió ” (Quê hương, Tế Hanh) “Mặt trời xuống biển nh hòn lửa. Sóng đã cài then đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận) Đề 2: Vẻ đẹp của mùa thu xa và nay trong những dòng thơ: “Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng” (Nguyễn Du) Và: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình nh thu đã về” (Hữu Thỉnh) Đề 3: Hãy cùng nhà thơ Hữu Thỉnh đón chào vẻ đẹp một ngày thu trong bài thơ “Chiều sông Thương” của tác giả: Đi suốt cả ngày thu Cho sắc mặt mùa vàng Vẫn cha về tới ngõ Đất quê mình thịnh vượng Dùng dằng câu quan họ Những gì ta gửi gắm Nở tím bên sông Thương. Sắp vàng hoe bốn bên. Nước vẫn nước đôi dòng Hạt phù sa rất quen Chiều uốn cong lỡi hái Sao mà nh cổ tích Những gì sông muốn nói Mấy cô coi máy nước Cánh buồm đang hát lên. Mắt dài nh dao cau. Đám mây trên Việt Yên Ôi con sông màu nâu Rủ bóng về Bố Hạ Ôi con sông màu biếc Lúa cúi mình giấu quả Dâng cho mùa sắp gặt Ruộng bời con gió xanh. Bồi cho mùa phôi thai.
  17. Nước màu đang chảy ngoan Nắng thu đang trải đầy Giữa lòng mơng máng nổi Đã trăng non múi bởi Mạ đã thò lá mới Bên cầu con nghé đợi Trên lớp bùn sếnh sang. Cả chiều thu sang sông. (Tháng 10 năm 1973) TÀI LIỆU THAM KHẢO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9 (phần 2) PHẦN CẢM THỤ VĂN HỌC 1. Lí thuyết và kĩ năng phần cảm thụ văn học GV tham khảo nội dung được học ở các lớp Dưới. 2. Một số lu ý khi cảm thụ văn học trong làm văn lớp 9: - Ngoài kĩ năng cảm thụ đã học, HS cần gia tăng trong bài viết của mình cách đánh giá, bình luận, khả năng liên hệ, so sánh, khái quát về đối tượng cảm thụ. - Hành văn sắc sảo, có thể bộc lộ quan điểm của cá nhân trước đối tượng cảm thụ, có thể đi Ngược với những cách cảm nhận thông thường nhưng phải đủ lời lẽ để thuyết phục mọi người về quan điểm cá nhân đa ra. - Vì lớp 9 là năm cuối cấp nên nội dung cảm thụ có thể có những vấn đề đã được học trong các chương trình lớp Dưới, chương trình đang học và cả những kiến thức ngoài chương trình (mới) để đánh giá khả năng cảm thụ của các em một cách khách quan. 3. Một số nội dung cảm thụ văn học: - Một bài thơ, một bài ca dao, một đoạn trích trong tác phẩm thơ hoặc truyện (Có thể trong chương trình lớp 9 hoặc các lớp 6,7,8 và các văn bản khác ngoài chương trình. - Cảm thụ trên cơ sở so sánh các nội dung về cùng một đề tài, của cùng một tác giả, cùng một thời đại 4. Một số đề bài tham khảo: Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp cảnh ra khơi trong các đoạn thơ sau: “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Chiếc thuyền nhẹ hăng nh con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vợt trường giang. Cánh buồm giơng to nh mảnh hồn làng Rớn thân trắng bao la thâu góp gió ” (Quê hương, Tế Hanh) “Mặt trời xuống biển nh hòn lửa. Sóng đã cài then đêm sập cửa. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi.” (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận) Đề 2: Vẻ đẹp của mùa thu xa và nay trong những dòng thơ: “Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng” (Nguyễn Du) Và: “Bỗng nhận ra hương ổi
  18. Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình nh thu đã về” (Hữu Thỉnh) Đề 3: Hãy cùng nhà thơ Hữu Thỉnh đón chào vẻ đẹp một ngày thu trong bài thơ “Chiều sông Thương” của tác giả: Đi suốt cả ngày thu Cho sắc mặt mùa vàng Vẫn cha về tới ngõ Đất quê mình thịnh vượng Dùng dằng câu quan họ Những gì ta gửi gắm Nở tím bên sông Thương. Sắp vàng hoe bốn bên. Nước vẫn nước đôi dòng Hạt phù sa rất quen Chiều uốn cong lỡi hái Sao mà nh cổ tích Những gì sông muốn nói Mấy cô coi máy nước Cánh buồm đang hát lên. Mắt dài nh dao cau. Đám mây trên Việt Yên Ôi con sông màu nâu Rủ bóng về Bố Hạ Ôi con sông màu biếc Lúa cúi mình giấu quả Dâng cho mùa sắp gặt Ruộng bời con gió xanh. Bồi cho mùa phôi thai. Nước màu đang chảy ngoan Nắng thu đang trải đầy Giữa lòng mơng máng nổi Đã trăng non múi bởi Mạ đã thò lá mới Bên cầu con nghé đợi Trên lớp bùn sếnh sang. Cả chiều thu sang sông. (Tháng 10 năm 1973) PHẦN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI A. MỤC TIÊU: - Củng cố một số kiến thức văn học trung đại được học ở lớp Dưới, hệ thống kiến thức văn học trong suốt một nghìn năm lịch sử thời phong kiến. - Khắc sâu kiến thức về tình hình xã hội và tình hình văn học từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX. - Hiểu được nội dung, nghệ thuật các tác phẩm văn học trung đại được học trong chương trình. - Từ đó vận dụng kiến thức để làm văn. B. NỘI DUNG: I. Tổng quan về văn học trung đại Việt Nam. 1. Khái quát về tình hình xã hội phong kiến Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX. (Nhấn mạnh hơn ở thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX) 2. Khái quát tiến trình phát triển của văn học trung đại VN 3. Giới thiệu một số chủ đề chính của văn học trung đại VN: - Chủ nghĩa yêu nước. - Chủ nghĩa nhân đạo. 4. Đặc điểm thi pháp của văn học trung đại VN (những biểu hiện cụ thể trong văn học từ thế kỉ XVI đén thế kỉ XIX)
  19. II. Tác giả Nguyễn Dữ và “Chuyện ngưòi con gái Nam Xương”. 1. Các kiến thức cơ bản về tác giả và tác phẩm. 2. Bổ sung kiến thức về tập “Truyền kì mạn lục”. 3. Nhấn mạnh giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. 4. Một số vấn đề cảm nhận và nghị luận về tác phẩm: - Giá trị nhân đạo của truyện. - Người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua cuộc đời và số phận nhân vật Vũ Nương. - Ý nghĩa của chi tiết cái bóng. - Ý nghĩa của các yếu tố kì lạ. - Các lời đối thoại và độc thoại của nhân vật trong truyện 5. Một số bài tập tham khảo: Đề 1: Trong bài thơ “Lại viếng bài Vũ Thị” tác giả Lê Thánh Tông có viết: “Qua đây bàn bạc mà chơi vậy. Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”. Hãy cắt nghĩa các nguyên nhân gây nên cái chết oan khiên của nàng Vũ trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của tác giả Nguyễn Dữ. Đề 1: Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, nhân vật Vũ Nương nhiều lần đã nói với chồng con, với đất trời Hãy phân tích lời của nàng Vũ để hiểu hơn về vẻ đẹp tâm hồn người con gái Nam Xương. Đề 3: Những ảnh hưởng và sáng tạo của Nguyễn Dữ trong “Chuyện người con gái Nam Xương” so với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”. Đề 4: Có ý kiến cho rằng kết thúc “Chuyện người con gái Nam Xương” vừa có hậu nhưng ít nhiều vẫn còn tính bi kịch. Hãy phân tích để thấy được chiều sâu nhân đạo trong kết thúc đó. Đề 5: Cảm nhận của em về chi tiết cái bóng trong “Chuyện ngưòi con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. III. Tác giả Nguyễn Du và “Truyện Kiều” Ngoài các kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm GV có thể nhấn mạnh một số nội dung sau: 1. Các nhân tố làm nên thiên tài Nguyễn Du. 2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”. 3. Mở rộng kiến thức đối với HSG về một số thành công khác của “Truyện Kiều” 4. Một số nội dung có thể trở thành chủ đề làm văn nghị luận: - Trái tim yêu thương con người của Nguyễn Du. - Hình ảnh thiên nhiên trong “Truyện Kiều”: + Vẻ đẹp bức tranh mùa xuân (cảm nhận). + Hình ảnh ngọn cỏ trong những không gian khác nhau (so sánh). + Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: + Miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật. + Ngôn ngữ nhân vật - Cảm nhận, nghị luận về một đoạn trích, một số câu thơ. 4. Một số đề bài ví dụ: Đề 1: Sự ảnh hưởng và sáng tạo của Nguyễn Du trong hai dòng thơ:
  20. “Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” so với câu thơ cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích Lê chi sổ điểm hoa”. Đề 2: Có ý kiến cho rằng đằng sau bức chân dung xinh đẹp của Thuý Kiều và Thuý Vân là những dự báo về số phận của hai nàng. Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” cùng những hiểu biết của em về tác phẩm “Truyện Kiều” hãy làm sáng tỏ. Đề 3: Suy nghĩ của em về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hai nhân vật Vũ Nương (“Chuyện người con gái Nam Xương”- Nguyễn Dữ) và nhân vật Thuý Kiều (“Truyện Kiều”- Nguyễn Du). Đề 4: Trong hoàn cảnh nơi đất khách quê người cô đơn, buồn tủi Kiều thật đáng thương. Nhưng Kiều lại dành tình thương, nỗi nhớ ấy cho những người thân yêu nhất của mình. Hãy phân tích tâm trạng nhớ thương của nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngng bích”. Từ đó em có suy nghĩ nh thế nào về chữ hiếu của con cái đối với cha mẹ trong cuộc sống ngày nay? IV. Một số văn bản khác (GV bổ sung một số kiến thức cơ bản) 1. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh. 2. Hoàng Lê nhất thống chí. 3. Truyện Lục Vân Tiên. V. Giới thiệu một số chuyên đề (GV tham khảo) 1. Nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” Bút pháp của đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút trong đó nghệ thuật tả cảnh tả tình được người đời sau khen ngợi “như máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghỡn đời”. Xin giới thiệu bài viết của nhà phờ bình Trần Ngọc về Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết lý, luân lý, tâm lý và văn chương. Truyện Kiều vì thế đó trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học, ai cũng biết đến truyện Kiều, thích đọc truyện Kiều, ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều. Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phỳ. Chính Nghệ thuật tả cảnh này đó làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều. Lối tả cảnh diễm tình . Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái
  21. cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đó tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Phương Tây, vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà : “Nao nao dũng nước uốn quanh Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” “Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu. Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mờ, chập chờn với Hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên: “Chênh chênh búng Nguyệt xế mành Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu” Chàng biếng nhác cả việc sách đèn, để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa : Buồng văn hơi giá như đồng Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan Mành Tương phất phất gió đàn Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình. Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đó qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình: Sông Tương một giải nông sờ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia Một đoạn tả cảnh khác, tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang cha, về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang, cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời Lần thứ hai, Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mọc dại, ướt dầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng: Một sân đất cỏ dầm mưa Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng của mình :
  22. Buồn trông cửa biển chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Lúc Kiều theo Mó Giám Sinh về Lâm Tri, thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường: Gió chiều như gợi cơn sầu Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà, thì cảnh một đêm thu có trăng sáng nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều : Lối mòn cỏ nhạt màu sương Lòng quờ đi một bước đường một đau Lúc thất vọng não nề, muốn gieo mình xuống sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn, chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian: Mảnh trăng đó gác non đoài Một mình luống những đứng ngồi chưa xong Lối tả chân. Ngoài lối tả cảnh diễm tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo.Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện hữu . Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn, vừa giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ: Đánh tranh chụm nóc thảo đường Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đó Hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày: Nhà tranh vách đất tả tơi Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả : Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ : Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đỡu hiu ảm đạm: cơn gió đỡu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều : Một vùng cỏ áy bóng tà Gió hiu hiu thổi một vài bông lau. Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đó được cứu vớt, mà đường tới thì quanh co theo giải sông, có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài:
  23. Quanh co theo giải giang tân Khỏi rừng lau đó tới sõn Phật Đường Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu) Hãy xem cảnh búng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước, đẹp lóng đóng như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng, nước và sân nhà đó đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhó đẹp như một bức tranh : Gương nga chênh chếch dòm song Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân Lối tả cảnh tượng trưng: Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đó đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế Hãy nghe hai câu thơ : Vi lô san sát hơi may Một trời thu để riêng ai lạnh lùng Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ. Mói đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19, lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi. Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé (luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Trong hai câu thơ trên, “một trời thu” mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la, trong khi bốn chữ “riêng ai một mình” lại chỉ một phạm vi nhỏ bé, một tâm tình đơn lẻ cá nhân. Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như : Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển sang, ẩn vào tâm tư riêng của một cừi lòng Kiều cụ đơn. (Cần chú ý thêm là cách dựng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du, với chữ “nghiêng” và “riêng” được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay). Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cỏi rộng lớn của trời đất. Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau: Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đó nhuốm màu quan san. Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người, nhưng đó làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung quanh. Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời, mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền Đường :
  24. Cửa bồng vội mở rèm châu Trời cao sông rộng một màu bao la. Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đó viết: “tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt” Lối tả cảnh dùng màu sắc. Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng, một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ . Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhó tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vỡ “cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đó viết: “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đó phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát, nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được . Cũng một cảnh cỏ xanh nữa, nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong: Một vùng cỏ mọc xanh rì Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu. Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn: Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng. Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm, chỉ có màu nâu của đất, màu xanh vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên: Sè sè nắm đất bên đường Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn, của cây cỏ, của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui. Giáo sư Hà Như Chi nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau: “Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mà tả ánh sáng ấy, mà lại còn tả một cách gián tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ, lá cây mặt nước, đỉnh núi ” (Việt NamThi Văn Giảng Luận) Đúng như thế, Hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mựa hạ, khi mùa nắng đó được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng : Dưới trăng quyên đó gọi hố Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh. Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý, nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, đó phải về quê cũ ở
  25. Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đó trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên trong tâm hồn đó thu nhập được hai cảnh sống. Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó, nên trong lĩnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều, cụ có khi dùng những chữ thật trang nhã quý phái, có khi lại dựng những chữ thật giản dị bình dân. Những chữ dựng trang nhó quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần lập lại. Bây giờ chúng ta Hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dựng trong lúc tả cảnh. Vớ dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả búng hoàng hụn , Nguyễn Du dựng hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều: Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “sè sè” bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa : Sè sè nắm đấ bên đường Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh. Rồi ngọn gió gọi hồn “ào ào” thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi : Ào ào đổ lộc rung cây Ở trong dường có hương bay ít nhiều. Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng, chỉ thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong: Xập xè én liệng lầu không Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy . Và đêm xuống ánh trăng soi “quạnh quẽ” lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa: Đầy vườn cỏ mọc lau thưa Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời Chính vì Nguyễn Du đó kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân đó chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà Nguyễn Du đó tiên phong dấn bước. 6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh . Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vỡ chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khỏc, cụ đã dùng điển tích để “làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên, không cầu kỳ thắc mắc” như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam, thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam, mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó. Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành, mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành v v . Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình tả tâm trạng, tả tiếng đàn, trải dài trong suốt truyện Kiều.
  26. Riêng trong lĩnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho lắm. Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ. Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà “Gương nga chênh chếch dòm song Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân “ “Gương Nga”chỉ mặt trăng, do tích Hằng Nga, mỹ nhân, vợ của Hậu Nghệ, đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu. Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng. Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng, chị Nguyệt . Hai câu thơ khác : Sông Tần một giải xanh xanh Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan Sông Tần lấy từ câu “dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý núi ở xa nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư. Hay: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Chữ Khóa xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích, nên Đài Đồng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó mà đó khóa chặt tuổi xuân hai chị em tờn Đại Kiều và Tiểu Kiều, một người vợ Tôn Sách và một người vợ Chu Du Đông phong bất dữ Chu lang tiện, Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều . Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đó khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều. Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều, nhưng nàng đã không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đông: Trước sau nào thấy bóng người Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường, trở về Đào Hoa Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân. Thôi Hộ đã viết hai câu thơ nguyên văn văn : Nhân diện bất tri hà xứ khứ , Đào hoa y cựu tiếu đông phong Kết luận . Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn Hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời , một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn v.v.v . Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đó đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên
  27. nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đó đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta. Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta ” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều) Thật đúng như vậy, những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đó từng có những cảm giác này. Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác, lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến 2. Độc thoại nội tâm trong “Truyện Kiều” một hình thức giao tiếp đặc biệt. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người. Trong giao tiếp, con người giao tiếp với nhau thì có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một chiều chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận, không phát biểu. Hình thức này thường gặp ở những mệnh lệnh, lời khấn và ngày nay trong diễn văn và lời của phát ngôn viên truyền thanh , truyền Hình. Trong hoạt động giao tiếp thường diễn ra các Hình thức hội thoại như : song thoại, tam thoại, đa thoại còn có Hình thức hội thoại đặc biệt mà chúng tôi đề cập đến trong tiểu luận này là vấn đề giao tiếp bằng Hình thức độc thoại, mà là độc thoại nội tâm. Có thể nói một cách khái quát rằng, độc thoại là chỉ có một nhân vật phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe nhưng không phát biểu, không có lời đáp lại; còn chuớng tụi núi ở đây là độc thoại nội tâm, tức là lời tự nhủ, tự mình núi với mình của các nhân vật. Nếu đối thoại là Hình thức giao tiếp sử dụng Hình thức núi năng giữa người này với người khác thì độc thoại là dạng giao tiếp đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật, là Hình thức núi với chính mình. Mà qua lời độc thoại đó người tiếp nhận ngôn bản (người đọc) có thể hiểu được tâm trạng nhân vật dù đó chỉ là kiểu ý nghĩ - tư duy bằng ngôn ngữ thầm. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tác giả đã tập trung ngòi bút của mình vào nhân vật chính là Thuý Kiều phục vụ cho việc biểu hiện tình cảm nhân đạo cao cả của ông đối với nàng Kiều. Ngoài nhân vật chính, ông lại xây dựng được hàng loạt nhân vật có cá tính và đã trở thành nhân vật điển Hình trong văn học : Kim Trọng,Từ Hải, Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ được nêu ra trong một số câu thơ, Nguyễn Du cũng để lại cho người đọc những Hình ảnh khó quên qua những màn, những cuộc hội thoại trong Tác phẩm. Chúng ta có thể tìm trong Tác phẩm của Nguyễn Du rất nhiều Hình thức hội thoại: đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại, đối thoại giữa người âm và người dương, đối thoại trực diện và đối thoại gián tiếp Nhưng, có một Hình thức đối thoại đẳc biệt là độc thoại nội tâm. Có thể nói độc thoại nội tâm là một Hình thức đặc biệt trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, là vấn đề phong phú ,hấp dẫn cho chúng ta đi tìm hiểu. Bằng sự thu nhặt những mớ kiến thức tản mạn của các giáo sư đầu ngành làm thành tư liệu riêng của mình mà làm thành tập tiểu luận nhỏ nhoi, tự nghĩ cũng hổ thẹn với bỉ nhân!. Mong rằng tập tiểu luận sẽ là một tài liệu nho nhỏ cho bạn đọc tham khảo và rất mong sự đóng góp, nhận xét của bạn đọc để tập tiểu luận được thêm hoàn chỉnh.
  28. * Khái niệm : “ độc thoại nội tâm”: Độc thoại nội tâm là gì? Trước hết, trong nghệ thuật tự sự, ngoài lời gián tiếp của người kể còn có lời trực tiếp của nhân vật. theo lí thuyết phong cách học hiện đại, lời trực tiếp của nhân vật được thuật lại dưới bốn dạng thức sau: a. Dạng có dẫn ngữ trực tiếp: Nó giật mình rồi nói với mình: Mình sai rồi b. Dạng có dẫn ngữ gián tiếp: Nó giật mình rồi nói với chính mình là nú đó sai rồi c. Dạng gián tiếp tự do: Nó giật mình, nó thấy sai rồi. d. Dạng trực tiếp tự do: Nó giật mình. Nó sai rồi. Dạng thứ tư là dạng tiền đề để xuất hiện độc thoại nội tâm. Bởi vì điều kiện thứ nhất để xuất hiện độc thoại nội tâm là nhân vật tự do nói lời của mình một cách trực tiếp, nguyên vẹn, thoát khỏi mọi ràng buộc của lời gián tiếp của người kể, không có chỉ dẫn, dẫn dắt. Đồng thời độc thoại nội tâm cũng cần đặt trong ngữ cảnh của lời nói gián tiếp, nếu không thì nó khác chi lời trần thuật theo ngôi thứ nhất?. Điều kiện thứ hai là nó khác với lời độc thoại . độc thoại là lời nói một mình, trước và sau không có lời nào của ai khác nhưng người thứ ba đó đang nghe, nghe mà không trả lời như trong kịch và trong phim. Còn độc thoại nội tâm là lời độc thoại dùng vào việc miêu tả quá trình ý nghĩ trong nội tâm, và là lời nói thầm kín, viết ra để đọc chứ không nhằm nói ra thành tiếng như trong kịch mà người đọc qua đó có thể tiếp xúc được, hiểu được tâm trạng của nhân vật độc thoại nội tâm. Như vậy, lời trực tiếp tự do là Hình thức đầu tiên của độc thoại nội tâm. Thứ hai, dùng ý thức cũng là một hình thức của độc thoại nội tâm, nhưng là độc thoại nội tâm với một sự tự do liên tưởng, không có mục tiêu đặc biệt nào; nó xuất hiện theo dũng ý thức, tâm trạng của nhân vật. Thứ ba, lời nửa trực tiếp cũng là hình thức của độc thoại nội tâm. Đó là bao gồm lời nói không chỉ phát ra lời của nhân vật , lời nửa trực tiếp, nơi mà tác giả nhân danh mình, nhưng lại nắm bắt từ ngữ và ngữ điệu của nhân vật, và lời độc thoại nội tâm , trong đó tiếng nói của nhân vật dường như được tách ra làm hai tiếng nói tranh cãi nhau; và hàng loạt lời suy luận chặt chẽ , hoặc lời mang những ý nghĩ mù mờ hỗn loạn. Tất cả những hình thức đó giúp cho nhà tiểu thuyết tái hiện một cách chân thực, không giản đơn sơ lược toàn bộ thế giới tâm hồn, trí tuệ của nhân vật ngày càng trở nên phức tạp và thường là mâu thuẫn. Như vậy, lời nửa trực tiếp có thể hiểu là lời của người kể chuyện mà cũng có thể hiểu là lời của nhân vật. Nói cách khác nó có hai tính chất: tính trực tiếp về nội dung, nó chứa thực ý và kiểu giọng của nhân vật; và được tác giả phát ngôn, viết như văn gián tiếp. Với cách hiểu như thế, thiết nghĩ có thể nói rẳng, lời nửa trực tiếp có hình thức truyền đạt là gián tiếp, không có lời chỉ dẫn, dẫn ngữ, không đặt sau hai chấm và trong ngoặc kép như một dẫn ngữ; hình thức lời thuật nhưng nội dung và ngữ điệu hoàn toàn là của nhân vật. Nói cách khác, chủ thể của lời nói là người kể, mà chủ thể ý thức của lời nói là nhân vật. Tóm lại, ba tiền đề để xuất hiện độc thoại nội tâm là lời nói trực tiếp tự do, dũng ý thức và lời nửa trực tiếp của nhân vật. Từ cách hiểu độc thoại nội tâm như thế,
  29. ta có thể đi tìm trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du những hình thức độc thoại nội tâm đó. * Độc thoại nội tâm trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du : - Lời trực tiếp tự do trong Truyện Kiều : Chúng ta Hãy đọc đoạn Vương Quan kể chuyện Đạm Tiên như sau: Vương Quan mới dẫn gần xa Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Nổi danh tài sắc một thì Xôn xao ngoài cửa thiếu gỡ yến anh Phận hồng nhan quá mong manh Nửa chừng xuân thoắt góy cành thiên hương Có người khách ở viễn phương Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi Thuyền tình vừa ghé đến nơi Thì đà trõm góy bình rơi bao giờ. Buồng không lặng ngắt như tờ Dấu xe ngựa đó rờu lờ mờ xanh Khóc than khôn xiết sự tình Khéo vô duyên bấy là mình với ta! Đó khong duyờn trước chăng mà, Thì chi chút ước gọi là duyên sau Sắm sanh nếp tử xe châu Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa Đây là lời kể trực tiếp của nhân vật Vương Quan, nhưng đặc biệt là trong đó, đó xuất hiện lời độc thoại nội tâm của người khách viễn phương: Khéo vô duyên bấy là mình với ta Đã không duyên trước chăng mà Thì chi chút ước gọi là duyên sau. Lời này không có chỉ dẫn dẫn ngữ, lại là lời trực tiếp của người khách nói ý nghĩ, ý nguyện của mình để lẫn trong lời của Vương Quan. Câu “ Khóc than khôn xiết sự tình” chỉ là lời tự sự, ý vị chỉ dẫn hầu như bị mờ hoàn toàn. Chữ “mình” với “ta” là cách xưng hô thân mật riêng của người khách và người chết. Các chữ “Đã không duyên trước Thì chi duyên sau” là dấu hiệu của lời khấn. tuy có vẻ là lời nói với người chết, nhưng thật ra là nhân vật nói với mình, núi một mình. Đây hoàn toàn là lời độc thoại nội tâm tiêu biểu, nó nói lên khả năng xuất hiện độc thoại nội tâm trong dòng lời kể theo ngôi thứ nhất, một cái”tôi” nhân vật xuất hiện trong ngữ cảnh của dòng tự sự theo ngôi thứ nhất. Đoạn Kim Kiều gặp gỡ có những câu: Kim từ quán khách lân la Tuần trăng thấm thoát nay đó thêm hai Cách tường khoảng buổi êm trời Dưới đào dường có bóng người thướt tha Buông cầm, xốc áo, vội ra Hương còn thơm nức người đà vắng tanh Lần theo tường gấm dạo quanh Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
  30. Giơ tay với lấy về nhà Này trong khuê các đâu mà đến đây? Gẫm đâu người ấy báu này Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm Liền tay ngắm nghía biếng nằm Trong đoạn thơ trên thì câu : “ Dưới đào dường có bóng chiều thướt tha” và “ Hương còn thơm nức người đà vắng tanh” hay “ Này trong khuê các đâu mà đến đây?/ Gẫm âu vật ấy, báo này / Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm” là lời độc thoại nội tâm của nhân vật Kim Trọng. Có thể viết trứơc những câu đó mấy chữ: “Kim Trọng nghĩ bụng” thì sẽ rõ ràng. Nhưng thông qua đoạn trích, ta có thể hiểu những câu ấy là suy nghĩ thầm của Kim Trọng. Đó là lời trực tiếp tự do trong đoạn trích, trước và sau không có lời nào khác, nó dùng để miêu tả quá trình ý nghĩ trong nội tâm, đó là lời thầm kín. Hay trong đoạn kể Kiều bị bắt cóc, Thúc ông tưởng Kiều đã chết cháy: Ngay tình ai biết mưu gian Hẳn nàng thôi, lại còn bàn rằng ai! Thúc ông sùi sụt ngắn dài Đoạn kể Kiều bị bắt về nhà Hoạn Bà: Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai Cửa nhà đâu mất, lau đài nào đây? Bàng hoàng giở tình, giở say Hai câu giữa trong hai đoạn trích này đều là lời trực tiếp tự do với ngữ diệu nói , ý thức người nói khác hẳn với lời trần thuật, làm cho lời trần thuật chủ thể hoá. Lời nói của nhân vật không cần lời dẫn mà trực tiếp tự do, tự do trong thể hiện suy nghĩ của mình. Không chỉ lời trần thuật của tác giả biến thành lời trực tiếp tự do của nhân vật trở thành trần thuật chủ thể hoá, mà đối thoại của nhân vật cũng được độc thoại hoá. Ví dụ như đoạn Kim Trọng được tin chú mất, phải về hộ tang, bèn sang chỗ Thúy Kiều tự tình: Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng Băng mình lên trước đài trang tự tình. Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi. Sự đâu chua kịp đôi hồi, Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ. Trăng thề còn đó trơ trơ, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. Ngoài nghìn dặm, chốc ba đông Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy. Gìn vàng, giữ ngọc cho hay, Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. Hai dòng đầu là thuật sự việc xảy ra và phản ứng của Kim Trọng. Hai dòng tiếp theo là tóm lược nội dung những lời Kim Trọng thông báo tình cảnh của mình cho Kiều nghe. Đây là hình thức rất mới, bởi như ta biết, vào trường hợp tương tự, các truyện Trung Hoa để cho nhân vật nhắc lại nguyên si các lời đó núi; còn ở đây
  31. Nguyễn Du thật lại lời của nhân vật một cách gián tiếp. Ở đây lời trực tiếp tự do của nhân vật trãn dấu hiệu dẫn lời, từ lời tóm tắt của người kể chuyển sang đối thoại mà như là độc thoại. Sáu dòng tiếp theo là lời nói như lời than thở độc thoại, chỉ tới hai dòng cuối mới hướng vào Thuý Kiều như một lờ cầu xin. Do vậy ta như không phải nghe đối thoại mà nghe lời thổ lộ trực tiếp tự do nội tâm của nhân vật. Một ví dụ khác, đoạn Hoạn Thư nói với Bạc Bà: Roi câu vừa gióng dặm trường (1) Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.(2) Thưa nhà huyên hết sự tình (3) Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen. (4) Nghĩ rằng ngứa ghẻ hờn ghen,(5) Xấu chàng mà có ai khen chi mình. (6) Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,(7) Mưu cao vốn đó rắp ranh nững ngày. (8) Lâm Tri đường bộ tháng chầy, (9) Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.(10) Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, (11) Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.(12) Làm cho cho mệt cho mê, (13) Làm cho đau đớn ê chề cho coi!. (14) Trước cho bỏ ghét những người, (15) Sau cho để một trò cười về sau. (16) Phu nhân khen chước rất mầu, (17) Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay. (18) Câu 1,2 là tác giả thuật việc. Câu 3,4 là tóm tắt câu chuyện uất ức của Hoạn Thư. Câu 5,6,7 là lũi trực tiếp của Hoạn Thư đối với mẹ, nhưng nghe như là độc thoại. Câu 8 là lời thuật của người thuật xen vào. Câu 9 đến câu 16 ở đoạn này tiếp tục lời thoại. Câu 13, 14, 15, 16 lại là lời vừa nói với mẹ , vừa giống như độc thoại, buộc chân nàng về tỡ làm sao? Hoạn Thư khng6 núi rừ, mà tự sự cũng không cho biết hết. Câu 17 và nửa đầu câu 18 là lời thuật của tác giả, nửa câu 18 là lời của Hoạn Bà. Có thể nói độc thoại hoá làm co tâm tình, dục vọng của nhân vật nổi lên lồ lộ. Nguyễn Du không quan tâm nhiều đến lí lẽ củasự việc, mà quan tâm đến nỗi lòng của nhân vật. Đoạn Từ Hải chịu hàng người đọc đều thấy không thông, không hiểu vì sao Từ nghe lời khuyên của Kiều đề cao ơn vua mà lại thấy “ mặn mà”. Trong Kim Vân Kiều truyện, Thanh Tâm Tài Nhân chú ý kể chuyện sứ giả thuyết hàng, Từ nổi giận, Kiều khuyên giải làm cho Từ đuối lý. Tiếp đến Từ Hải nêu việc hàng có 3 điều lợi 5 điều hại, lợi bất cập hại, không hàng. Kiều phân tích lại cho Từ thấy có 3 điều tiện và 5 điều lợi, làm cho Từ nghe mà nhận hàng. Như nhiều nhà nghiên cứu đó chỉ ra, Nguyễn Du đó tạo ra một Từ Hải khác, và để cho Từ Hải thổ lộ một đoạn độc thoại nội tâm cực hay, đầy khí phách, vượt xa những dấu hiệu vừa nêu trong truyện Trung Hoa của Thanh Tâm Tài Nhân : Một tay gây dựng cơ đồ Bấy lâu biển Sở, sông Ngô tung hoành! Bó tay về với triều đình, Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao? Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
  32. Vào luồng, ra cúi, công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thuỳ, Sức này, đó dễ làm gỡ được nhau? Chọc trời, quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên dầu có ai? Lời đọc thoại nội tâm rừ ràng đó bộc lộ tâm tình nhân vật trọn vẹn, đầy đủ hơn là lời đối đáp của Từ trong cơn giận do cuộc khuyên hàng gợi lên như trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tiếp đến Kiều cũng có một tâm sự riêng bộc lộ trong 12 câu đôc thoại : Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều luân lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gỡ. Công, tư vẹn cả đôi bề, Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước, dưới vì nhà, Một là đắc hiếu, hai là đắc trung. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè bão tố, hãi hùng phong ba. Sau màn độc thoại nội tâm, mới đến Kiều khuyên chỉ trong 10 câu lục bát mà Từ đã hàng. Như vậy, lời khuyên của Kiều và sự nghe lời của Từ là chiếu lệ, đều thể hiện sự bế tắc trong tư tưởng. Nguyễn du chủ yếu là thể hiện được nội tâm nhân vật qua lời độc thoại trực tiếp tự do. Kể rừ 3 điều tiện, 5 điều lợi như Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là logic Hình thức, không có ý nghĩa gì. Đó không có ý nghĩa thì dài dòng làm chi! Sao bằng Nguyễn Du ta!. - Lời nửa trực tiếp trong” Truyện Kiều” của Nguyễn Du : Truyện Kiều cũng có những câu làm nghĩ tới lời nửa trực tiếp. Ví dụ như: Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Câu bát cú hình thức trần thuật của tác giả, nhưng cái ý thức “Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn” là của nhân vật. Hoặc như câu: Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai! Câu bát là lời nửa trực tiếp, nói cái ý “ta còn cao giá” của nhân vật trong lời trần thuật của người kể. Lời nửa trực tiếp không chỉ là lời bộc bạch ý nghĩ của nhân vật mà nú còn là lời của tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm. Như vậy, lời nửa trực tiếp có thể hiểu đó là lời của người kể chuyện, cũng có thể hiểu đó là lời của nhân vật. Lời thuật là của tác giả nhưng nội dung và ngữ điệu là của nhân vật. Hay nói đúng hơn, chủ thể lời nói là người kể, mà chủ thể ý thức của lời nói là nhân vật. Mà qua đó, mượn lời nhân vật, tác giả nhằm bộc lộ quan niện, tưởng của mình. Có thể thấy, giọng điệu của Truyện Kiều đó được nhận ra từ lâu như một “tiếng kêu thương” (Hoài Thanh), “tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” (Tố Hữu). Nhưng đó là nhận xét chủ yếu trên phương diện tư tưởng, gắn liền với “cảm
  33. hứng nhân đạo và cảm hứng hiện thực”, còn giong điệu cảm thương như một hiện tượng nghệ thuật thường có trong tác phẩm. Đó là tiếng kêu thương đau đớn, da diết, thống thiết để bộc lộ tâm tư của tác giả nhan nhản khắp nơi dưới nhiều hình thức trong tác phẩm. Tiêu biểu là qua lời của nhân vật. Ta hãy xột lời nửa trực tiếp trong trường hợp đó. Đoạn Kiều thương xót Đạm Tiên mà ta nghe như là tiếng lòng của tác giả được biểu hiện trong đó: Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe nàng đó đầm đầm châu sa. Đau đớn thay phận đàn bà ! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Phủ phàng chi bấy hóa công, Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha; Sống, làm vợ khắp người ta, Hại thay ! Thác xuống làm ma không chồng ! Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tích lục, tham hồng là ai ? Hai câu đầu là lời dẫn của tác giả để những câu còn lại trong đoạn là lời độc thoại nội tâm của Kiều thương xót cho Đạm Tiên. Nhưng qua lời độc thoại của nhân vật, ta dường như thấy trong đó là lời của tác giả muốn nói với ta về nỗi lòng thương xót của mình đối với những người hồng nhan tài hoa bạc mệnh. Hay trong đoạn Kiều than thở: Buồn riêng, riêng những sụt sùi, Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân: “ Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! Tẻ, vui cũng một kiếp người Hồng nhan phải giống ở đời mói ru! Kiếp xưa đã vụng đường tu, Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi! Dẫu sao bình đã vỡ rồi, Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!” Hai câu đầu là lời dẫn của người kể để những câu còn lại trong đoạn là lời độc thoại nội tâm của Kiều thương cho thân phận của mình. Qua đó ta nghe như văng vẳng tiếng lòng của tác giả như chia sẻ cùng nhân vật, cùng tâm sự với nhân vật của mình: “ Dẫu sao bình đó vỡ rồi / Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!”. Đó là một lời cảm thông mà cũng là một tiếng nói đau lòng từ một trái tim “rỉ máu” của Nguyễn Du thương xót cho nhân vật mình. Đó chẳng phải Nguyễn Du đang giao tiếp, đang tâm sự cùng nhân vật mình đó sao? Chúng ta có thể thấy trong Truyện Kiều rất nhiều Hình thức như vậy : Khéo là mặt dạn mày dày, Kiếp người đó đến thế này thì thôi! Thương thay thân phận lạc loài, Dẫu sao cũng ở tay người biết sao? Mặt sao dày gió dạn sương,
  34. Thân sao bướm chán ong chường bấy thân? Lần lần thỏ bạc ác vàng, Xót người trong hội đoạn trường dũi cơn. Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho : cho hại, cho tàn, cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi! Hay trong đoạn Kiều đàn cho Kim Trọng nghe. Mượn lời Kim nhận xét tiếng đàn của Thúy Kiều, tác giả như cũng thể hiện tâm sự của mình: Ngọn đèn khi tỏ khi mờ, Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu. Khi tựa gối, khi cúi đầu, Khi vô chín khúc, khi chau đôi mài, Rằng : “hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! Lựa chi những khúc tiêu tao, Cực lòng mình, cũng nao nao lòng người!” Ta như thấy Nguyễn như đang cùng ngồi đấy theo dừi từng tiếng đàn của Kiều, và qua lời nói của Kim, ta như nhận thấy đó là lời của tác giả nhận xét về nhân vật mình. Còn trong đoạn sau này : Tiếc thay một đóa trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về! Một cơn mưa gió nặng nề, Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương. Đêm xuân một giấc mơ màng, Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ! Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa, Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình: Tuồng chi là giống hôi tanh, Thì nghìn vàng để ô danh má hồng! Thôi còn chi nữa mà mong, Đời người đên thế là xong một đời! Bốn câu cuối ta dường như thấy đó vừa là lời của Thúy Kiều, vừa là lời của Nguyễn Du. Hình ảnh Mã Giám Sinh không còn ra gì nửa, khác chi “ một giống côn trùng hôi tanh”, và ngòi bút của Nguyễn Du như đang hướng tới Mã Giám Sinh, lột trần tất cả bản tính của hắn như để tỏ một mối cảm thông, thương xót cho nhân vật mình. Có thể nói, bằng cách sử dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp trong độc thoại nội tâm của nhân vật, tác giả như muốn hòa mình vào đó để tự nhiên bày tỏ quan niệm, suy nghĩ, cách đánh giá của mình một cách khách quan. Nội dung và ngữ điệu hoàn toàn là của nhân vật, nhưng chủ thể lời nói là của người kể. đó chẳng phải là một nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện quan niệm của tác giả trong tác phẩm đó * Tổng kết chuyên đề : Một trong những nghệ thuật đặc sắc được Nguyễn Du thể hiện trong “Truyện
  35. Kiều” là hình thức hoạt động giao tiếp ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện. Trong đó, độc thoại nội tâm là hình thức hoạt động đặc biệt của ngôn ngữ. Độc thoại nội tâm làm cho diện mạo tinh thần của các nhân vật trở nên nổi bật, sắc nét và diện mạo, cảm quan của tác giả được thể hiện sinh động, độc đáo và sâu sắc. Đây cũng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã từng xác nhân. Trong “ Truyện Kiều” đó xuất hiện lời độc thoại nội tâm với các dặc trưng của nó là lời trực tiếp tự do, dùng ý thức và lời nửa trực tiếp trong tâm trạng nhân vật. Bằng những hình thức thể hiện như thế, chúng ta có thể đi sâu vào phân tích những hình tượng cụ thể trong tác phẩm trong một đề tài cao hơn, sâu hơn. Với thời diện của một tiểu luận nhỏ, chúng tôi chỉ đi vào phân tích một số chi tiết tiêu biểu cũng mong sẽ làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. Có thể nói, hình thức thể hiện độc thoại nội tâm trong “Truyện Kiều” đó đổi mới hoàn toàn phong cách tự sự trong “Truyện Kiều”, một bước đột phá truyền thống tự sự Trung Quốc-Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà Nguyễn Du đó tiếp xúc, tạo ra một điểm mới trong biểu hiện nội tâm nhân vật – khởi đầu cho truyền thống mới cho tự sự Việt Nam.Đó chẳng phải Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, làm phong phú thêm “ tính chất đặc sắc” của tiếng Việt ta đó sao ?
  36. PHẦN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI. A. MỤC TIÊU: - HS hiểu được những nét lớn trong lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến sau 1975. - Những nổi bật về phong cách của các tác giả và nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm văn học giai đoạn này. - Tổng hợp và so sánh những chủ đề chính trong các tác phẩm văn học giai đoạn này. - Từ đó có kiến thức vận dụng trong làm văn. B. NỘI DUNG: 1. GV khái quát các kiến thức cơ bản về các tác giả, tác phẩm được học trong chương trình. Luyện đề trong phạm vi của tác phẩm. 2. Một số vấn đề có thể gặp trong làm văn: a. Sự kết hợp hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn trong thơ văn hiện đại VN. b. Hình ảnh người lính trong những năm tháng kháng chiến. c. Vẻ đẹp tâm hồn của con người VN trong thơ văn hiện đại: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, tình đồng chí, tình yêu thiên nhiên d. Vẻ đẹp của người lao động. e. Hình ảnh người phụ nữ. 1. 3. Một số đề văn tham khảo: Đề 1: Khát vọng được cống hiến cho đời thể hiện qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải và “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. Đề 2: Lời yêu thương dành cho con trong bài thơ “Nói với con” của Y Phương. Đề :3 Điều còn lại mà chiến tranh không thể lấy đi trong tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu (hoặc “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”- Phạm Tiến Duật, hoặc “Chiếc lợc ngà”- Nguyễn Quang Sáng, hoặc “Những ngôi sao xa xôi”- Lê Minh Khuê). Đề 4: Phân tích bài thơ “Sang thu” để thấy được những cảm nhận giản dị và tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh trước khoảnh khắc giao mùa bất chợt và mong manh. Đề 5: Người nông dân trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám đã có những chuyển biến tích cực về tình cảm và suy nghĩ . Hãy phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai qua văn bản “Làng” của nhà văn Kim Lân để làm sáng tỏ những chuyển biến đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9 (phần 3) 4. CHUYÊN ĐỀ THAM KHẢO: TIẾNG NÓI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM 1945 – 1975 Phần mở đầu 1. Lí do chọn chuyên đề Cách mạng tháng Tám là mốc lịch sử trọng đại mở ra một thời kì mới cho lịch sử dân tộc và cũng mở ra một kỉ nguyên mới cho văn học. Trong suốt ba mơi năm (1945-1975) văn học Việt Nam đã nảy nở và phát triển gắn bó mật thiết với những bước đi của lịch sử dân tộc, với vận mệnh của Tổ quốc. Cuộc sống chiến đấu và lao động sản xuất được khắc hoạ một cách chân thật và đẹp đẽ qua văn học mà tiêu biểu là
  37. qua những vần thơ mợt mà đằm thắm có lúc khoẻ khoắn và hùng tráng đến kì lạ. Thơ ca thời kì này đã cất lên tiếng nói trữ tình mới mẻ, khoẻ khoắn có nhiều tìm tòi sáng tạo. Xuất phát từ điều đó, tôi thấy việc tìm hiểu tiếng nói trữ tình trong thơ 1945- 1975 là một việc làm cần thiết giúp học sinh có một cái nhìn khái quát về giá trị của thơ ca Việt Nam 1945-1975 từ đó trau dồi thêm tình yêu quê hương, đất nước con người, bồi dưỡng tinh thần lạc quan cho thế hệ trẻ thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Phạm vi, đối tượng, mục đích của chuyên đề - Phạm vi: các văn bản quen thuộc đã học trong chương trình THCS nh Lượm (Tố Hữu), Tiếng gà tra (Xuân Quỳnh), Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) - Đối tượng: chuyên đề chủ yếu phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9, ngoài ra còn là tài liệu tham khảo để dạy học sinh đại trà - Mục đích: nâng cao kiến thức, bồi dưỡng, rèn luyện khả năng cảm thụ thơ văn, rèn năng lực khải quát, tổng hợp cho học sinh - Học sinh nắm được nội dung tư tưởng của thơ ca 1945 -1975 - Bồi dưỡng lòng yêu nước căm thù giặc, lòng yêu thương con người, tinh thần lạc quan Đó là những đức tính cần có ở con người Việt nam trong thời đại mới I. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận khoa học “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”(Sóng Hồng). Từ xa đến nay, thơ có mặt ở mọi nơi trong cuộc sống, ở đâu có sự sống thì ở đó có chấtư liệu thi ca. Cuộc sống với tất cả sự bề bộn của nó là những nguồn đề tài vô tận cho thơ. Và sự có mặt của thơ ca chân chính trong đời sống góp phần chứng minh sự tồn tại của con người đang luôn thiết tha đấu tranh cho một lẽ sống, một chân lí tốt đẹp. Nhưng thơ còn là tiếng nói của tâm hồn, của niềm mơ ước. Thơ luôn bộc lộ khát vọng vơn tới một lý tưởng đẹp đẽ và cao thợng. Tiếng thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thôi thúc thầm kín nhưng vô cùng mãnh liệt của nội tâm. Thơ là tiếng lòng nhưng thơ cũng chính là cuộc sống. Tiếng thơ là sự thôi thúc yêu cầu của thời đại. Nhà thơ phải biết lắng nghe, quan sát, xúc động để bắt lấy tiếng nói sâu xa của cuộc sống để khơi dậy hoài bão và niềm tin tốt đẹp vào con người. Văn học không chỉ phát triển theo qui luật nội tại của nó mà còn chịu sự chi phối của lịch sử và thời đại. Từ 1945 đến 1975 trên đất nước ta đã xảy ra nhiều biến cố tác động sâu sắc tới toàn bộ đời sống xã hội và con người. Trong suốt ba mơi năm ấy, cả dân tộc phải liên tiếp tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm l- ợc để bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những biến cố to lớn ấy đã đa tới những biến đổi sâu rộng trong lịch sử văn hoá mở ra thời kì mới cho nền văn học dân tộc. Không còn theo nhiều khuynh hướng, nhiều trào lu khác nhau nữa mà tất cả các sáng tác văn học thời kì này đều hướng vào đời sống cách mạng, vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, thể hiện hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với những nhận thức mới mẻ, với những tình cảm mới và ý thức dân tộc. Kế thừa những truyền thống và kinh nghiệm của các thời kì trước, văn học Việt Nam 1945- 1975 đã xứng đáng với sứ mệnh cao cả của một nền văn học trong thời đại
  38. mới. Văn học đã gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, với vận mệnh của đất nước đã sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp, thế hệ trong chiến đấu, lao động, sinh hoạt, trong mối quan hệ, gắn bó với cộng đồng. Về nội dung tư tưởng, văn học thời kì này đã phát huy những nét lớn trong trong truyền thống tinh thần dân tộc - cũng là nét nổi bật trong phẩm chất con người Việt Nam của thời đại ấy đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Về mặt thể loại, văn học thời kì này cũng có những thành tựu đáng kể. Các thể loại phát triển khá toàn diện nh truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kí trong đó thơ ca vẫn là nổi trội hơn cả. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ đã đem đến cho người đọc một tiếng nói trữ tình mới mẻ, khoẻ khoắn - tiếng nói trữ tình của quần chúng nhân dân. Các nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ nh Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo góp phần đổi mới thi ca Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu a. Ghi lại được những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kì lịch sử đầy gian lao, hi sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc. Đã hàng nghìn năm lịch sử trôi qua tiếng thơ vẫn là tiếng nói tơi trẻ nhất của đời sống. Nhà phê bình văn học Nga V. Bi-ê-lin-xki đã viết: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Phục vụ cuộc sống, phục vụ con người là mục đích lớn nhất của thơ chân chính”. Chính những chi tiết chân thực, sống động của cuộc đời đã khơi dậy những tình cảm sâu sắc, mới mẻ cho các nhà thơ. Và cuộc chiến đấu gian lao của dân tộc ta trong suốt ba mơi năm ấy đã khơi nguồn sáng tạo cho thơ ca, đem đến cho văn học Việt Nam thời kì này những tác phẩm thơ giàu giá trị phản ánh hiện thực. Đó là những tác phẩm bám sát thực tế đời sống dân tộc, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực cuộc sống vĩ đại của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm trường kì là nguồn đề tài vô tận của thơ ca kháng chiến. Bám sát thực tế, thơ ca thời kì này đã phản ánh cuộc sống gian lao của dân tộc ta trong những ngày đầu kháng chiến. Các tác giả đã khai thác những chi tiết, hình ảnh tự nhiên, bình dị mà giàu sức biểu cảm của cuộc đời. Họ đã tìm thấy chất thơ ngay trong cái bình dị, bình thường, gắn văn học với hiện thực đời sống kháng chiến gian khổ của nhân dân: “Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày.” (Đồng chí – Chính Hữu) Đoạn thơ thật đến từng chi tiết, hình ảnh đã tái hiện lại cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ. Thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lơng thực, thuốc men người lính ra trận “áo vải chân không” rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi” Chỉ cần mấy câu ngắn gọn hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp hiện lên rõ nét và điển hình. Khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhưng điều đó sẽ được giảm đi rất nhiều vì giữa họ có cái ấm áp của tình người. Cái tình ấy được bồi đắp từ cuộc sống “đồng cam
  39. cộng khổ”. Chỉ có nơi nào gian khó, chia chung “áo anh”, “quần tôi”, mới tìm thấy cái thực sự của tình người: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Không nói lời hoa mỹ, không lý lẽ, giải trình mà chỉ có tình yêu giữa những người đồng đội mới tạo nên sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ. Chính họ là những người đã trải qua: Năm mơi sáu ngày đêm Khoét núi Ngủ hầm Ma dầm Cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng, chí không mòn. (Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu) để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy non sông, chấn động địa cầu, làm nên Vành hoa đỏ và thiên sử vàng cho dân tộc. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhưng một nửa đất nước vẫn còn chìm trong bóng đêm của chế độ Mĩ - Nguỵ. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, thơ ca đã theo kịp bước đi của lịch sử, ghi lại những trang sử hào hùng của cả dân tộc ta thời đánh Mĩ. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật viết năm 1969 nhưng hơn ba mơi năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những binh đoàn vận tải quân sự. Tác giả đã làm sống dậy một thời gian khổ oanh liệt của những anh bộ đội Cụ Hồ Trường Sơn. Ở đó có cái dữ dội, khốc liệt của chiến tranh: chiếc xe vận tải mang đầy thương tích không mui, không đèn, thùng xe lại bị xớc. Nhưng ở đó lại tồn tại những tiểu đội xe không kính nh những gia đình nhỏ: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Nhà thơ đã ghi lại chân thực nhịp sống thời chiến bằng những hình ảnh thật đặc sắc, điển hình. Bếp lửa nh tín hiệu gọi nhau về xum họp, rồi võng mắc chông chênh chung bát đũa. Bữa cơm dã chiến chỉ có bát canh rau rừng, lơng khô mà đoàng hoàng, đậm đà tình nghĩa. Trải qua mấy trăm cây số đường rừng ma bom bão đạn, họ gặp nhau trong chốc lát, chỉ kip Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi để rồi lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của tiền phương “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật : lấy cuộc sống để để nói tình cảm. Cái đặc sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”. Quả thật, thơ của ông có giọng chắc khoẻ, đượm chất văn xuôi - một giọng thơ riêng biệt, mới mẻ trong nền thơ chống Mĩ. Những hình ảnh trần trụi, những từ ngữ thường ngày, những sự vật không nên thơ chút nào lại toả sáng trong thơ ông. Những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật vì xa nay ít có hoặc ít thấy loại xe như thế đi lại trên đường. Thế mà trên tuyến đường Trường Sơn có hàng nghìn, hàng vạn chiếc xe như thế. Thật độc đáo, thật li kì. Đó chính là sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh được toát ra từ hình ảnh này.
  40. Trong bài thơ còn có những câu mang dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng thời trận mạc: - Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi - Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng nh người già - Không có kính ừ thì ớt áo Ma tuôn ma xối nh ngoài trời - Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xớc Nhưng cũng có những câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Nh sa nh ùa vào buồng lái Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe kết hợp hài hoà với cảm hứng trữ tình giàu chất sử thi đã tạo nên những vần thơ đầy ấn tượng. Đọc lại bài thơ dờng nh ta vẫn nghe trong gió rít, bụi mù và bom nổ tiếng cười nói râm ran, sôi nổi và trẻ trung của các anh lính lái xe. Đây là khúc tráng ca anh hùng của anh bộ đội Cụ Hồ thời đánh Mĩ. Nếu Bài thơ về tiểu đội xe không kính là khúc tráng ca anh hùng của người lính trên mặt trận chiến đấu thì bài thì bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là khúc tráng ca đẹp ca ngợi người lao động trên biển cả làm chủ lao động và Tổ quốc. Trước Cách mạng tháng Tám, người ta biết đến Huy Cận với một hồn thơ buồn vạn cổ sầu thấm đẫm vào vũ trụ và lòng người thì đến nay, thơ ông đã ngập sâu vào cuộc đời, hiện thân khoẻ khoắn nhất cho sự sống. Cuộc sống mới ùa vào thơ ông, mang lại cho ông một sinh khí cha từng thấy. Đó là cuộc sống của miền Bắc nước ta trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đã tìm thấy mối hoà điệu của người lao động với mạch sống đang từng ngày tơi da thắm thịt của đất nước. Một không khí vui tơi, phấn khởi của cuộc đời, của vùng than Quảng Ninh đang hăng say lao động từ bình minh đến hoàng hôn và từ hoàng hôn đến bình minh. Con người náo nức xây dựng cuộc sống mới, khí thế làm ăn thật tng bừng, đoàn thuyền hùng dũng ra khơi lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm: Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lớt giữa mây cao với biển bằng Dường như thiên nhiên cũng hoà vào không khí lao động khẩn Trương của đoàn thuyền. Thiên nhiên nh mở ra bát ngát, mênh mông. Cả vũ trụ từ trăng, gió, mây đến biển đều quây quần xung quanh đoàn thuyền và con người, nâng tầm vóc con người lên tầm vóc vũ trụ. Công việc của họ được miêu tả nh một trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường nh bước vào những trận chiến đấu với vũ khí là những tấm lới, với sức khoẻ của cơ bắp và với tâm thế của người đang nắm chắc phần thắng: Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lới vây giăng. Lao động thực sự là niềm vui của cuộc đời mới, con người mới. Bằng lao động và mồ hôi, họ - những người dân chài - đã viết nên bài ca cuộc đời trong một đêm lao
  41. động hào hứng, hăng say. Và bản hoà tấu của con người với vũ trụ đã biến đêm thành hội hoa đăng cho tới khi trời bừng sáng. Đoàn thuyền đánh cá hát khúc ca khải hoàn: Câu hát giăng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi. Nhà thơ Huy Cận khi nói về tác phẩm của mình đã nhận định: “Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động và tinh thần làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn”. Với một tình yêu biển dạt dào, với một cảm hứng say mê phấn chấn và những nét vẽ tài hoa, Huy Cận đã sáng tạo những hình ảnh thơ hùng tráng về con người lao động và cuộc sống mới của đất nước trong thời kỳ mới bước vào xây dựng XHCN trên miền Bắc nước ta. Sáng tác văn học là hoạt động nhằm “hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội” (Phạm Văn Đồng). Hiện thực đất nước 1945-1975 khơi nguồn sáng tạo và là đối tượng phản ánh chủ yếu của nhiều tác phẩm văn chương. Đó là cơ sở tạo nên giá trị hiện thực cho văn học. Nhưng hiện thực trong thơ không hoàn toàn khô khốc, trần trụi. Đời sống hiện thực bộc lộ nhiều vẻ đẹp, gợi lên những niềm vui và mơ ước đã làm nảy sinh cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn nhất là chất trữ tình cách mạng là một thành tố quan trọng của thi ca, làm nên nét nổi bật của thi ca thời kì này, đó là sự kết hợp hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn. b. Tiếng nói ngợi ca phẩm chất của con người Việt Nam Lịch sử văn học dân tộc xét đến cùng là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy. Lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc là nét nổi bật trong tâm hồn người Việt Nam. Nhưng ở người Việt Nam, yêu nước gắn liền với nhân đạo, nhân văn cao cả. Điều này sẽ cắt nghĩa được vì sao một dân tộc luôn phải cầm gươm, cầm súng suốt mấy nghìn năm mà thơ văn lại nói nhiều đến nhân nghĩa, đến tình yêu, đến thân phận con người trong xã hội. Yêu nước và nhân đạo trở thành truyền thống lớn của con người Việt Nam, văn học Việt Nam, là huyết mạch thần kinh nhạy bén nhất của con người Việt Nam qua suốt trường kỳ lịch sử. Tiếp thu truyền thống ấy, văn học Việt Nam thời kì 1945-1975 nói chung, thơ ca nói riêng đã phát huy nét lớn trong tư tưởng của dân tộc - cũng là những nét nổi bật trong phẩm chất của con người Việt Nam thời kì ấy, đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ ca đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu truyền thống dân tộc, vừa đậm nét thời đại. b.1. Lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Dân tộc ta, dân tộc anh hùng”. Văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chứa chan tình cảm yêu nước và cao hơn không chỉ là yêu nước mà là chủ nghĩa anh hùng của thời đại. Cuộc chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ đã tạo nên trên đất nước này một chủ nghĩa anh hùng phổ biến trong toàn dân. Ấy là thời kì “ra ngõ gặp anh hùng”. Thơ ca Việt Nam thời kì này đã miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp về nhân dân với lòng yêu nước thiết tha, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Hình ảnh nhân dân kháng chiến được miêu tả đậm nét và gợi cảm. Từ người Vệ quốc quân “má vàng nghệ” đến những anh giải phóng quân hiên ngang bất khuất; từ những bà bủ, bà bầm đến những bà mẹ con mọn vừa địu con vừa giã gạo, trỉa bắp,