Hướng dẫn làm một số đề Tập làm văn 9

doc 18 trang thaodu 3532
Bạn đang xem tài liệu "Hướng dẫn làm một số đề Tập làm văn 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • dochuong_dan_lam_mot_so_de_tap_lam_van_9.doc

Nội dung text: Hướng dẫn làm một số đề Tập làm văn 9

  1. Hướng dẫn làm một số đề Tập làm văn 9 ĐỀ BÀI SỐ 1: Cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh trước biến đổi của đất trời lúc sang thu. 1. Mở bài: Mùa thu là nguồn cảm hứng của các thi nhân từ xưa đến nay, biết bao thi nhân đã gửi gắm lòng mình vào những bài thơ thu và đem đến cho người đọc những cảm xúc tinh tế. Mỗi nhà thơ có một cách nhìn, cách cảm nhận khác nhau tạo nên những ấn tượng rất riêng về mùa thu, Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ ấy. Với con mắt nghệ sĩ, tâm hồn nhạy cảm, ông đã đem đến cho người đọc một bức tranh sang thu đặc sắc. Bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977 in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố” . Đọc bài thơ, ta cảm nhận được bức tranh mùa thu qua những giây phút giao mùa cuối hạ sang thu qua cảm nhận tinh tế, hình ảnh thơ tiêu biểu, gợi cảm và các BPNT đặc sắc. 2. Thân bài: * Giới thiệu khái quát: Bài thơ gồm có 3 khổ, mỗi khổ có 4 dòng thơ ngũ ngôn. Với các hình ảnh tự nhiên giàu sức gợi, “Sang thu” là những cảm nhận tinh tế đến vô cùng của nhà thơ trước khoảnh khắc giao mùa, từ đó bộc lộ một t/y thiên nhiên tha thiết. * Phân tích: Luận điểm 1: Cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên của mùa thu đến đột ngột, bất ngờ: “Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se” Đây là sự cảm nhận rất độc đáo, rất riêng của HT. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác bắt đầu từ một mùi hương “hương ổi”. Hương ổi chín thơm lừng phả vào trong những cơn gió se se lạnh mà ông đột ngột nhận ra. Từ “Bỗng” trong câu thơ cho ta thấy một cảm giác bất ngờ, đột ngột đến độ ngạc nhiên. Động từ “phả” vừa gợi cảm giác bất chợt vừa gợi sự vận động nhẹ nhàng của làn gió. Cái mùi hương đặc trưng của mùa thu từ ổi thơm lừng không gian là hương vị của đồng quê mộc mạc, dân dã cứ vương vấn mãi. Nhà thơ còn cảm nhận được sương thu: “Sương chùng chình qua ngõ”. Lần này là sự cảm nhận bằng thị giác, chùng chình là từ láy tượng hình cùng NT nhân hoá gợi ra sự lay động của lá cây và những hạt sương mai ướt mềm mại đang giăng giăng qua ngõ nhỏ. Mùa thu đã về có hương ổi, có gió se, có sương thu chùng chình. Vậy mà nhà thơ lại hỏi: “Hình như thu đã về”. Mùa thu được cảm nhận bằng lý trí. “Hình như” là một chút nghi hoặc, bâng khuâng, bối rối. Mùa thu đến từ bao giờ? Từ hương ổi? Từ gió? Từ sương? Một cảm xúc ngỡ ngàng, bất chợt trong cảm nhận. Thu đã về trên quê hương, đó là cảm xúc trong thời điểm giao mùa. Chỉ có những con người thực sự yêu mùa thu, gắn bó với quê hương đất nước thì mới có những cảm xúc tinh tế đến vậy. Luận điểm 2: Mùa thu được cảm nhận bằng một không gian rộng lớn hơn, nhiều tầng bậc và rõ rệt hơn. Đó là từ các cảnh vật lúc sang thu. Bắt đầu từ dòng sông và những cánh chim trời: “ Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Con sông quê hương cũng như đang dềnh dàng chờ nước mùa thu. Từ láy “dềnh dàng” và phép nhân hoá đã gợi tả dòng sông mùa thu êm đềm thư thái. Con sông quê không còn nước chảy cuồn cuộn đỏ ngầu phù sa mà trở nên cạn hơn, trong vắt êm đềm trôi. Đối lập với con sông quê là những cánh chim trời đang vội vã. Mùa thu với những ngọn gió heo may, se lạnh làm chúng phải bay về phương Nam tránh rét. Phép nhân hoá và từ láy tượng hình kết hợp cụm từ “ Bắt đầu vội vã” là những cảm nhận độc đáo chỉ có thể thấy được ở một tâm hồn đa cảm, tinh tế của người nghệ sĩ. Tất cả vạn vật như đang hối hả, xôn xao khi mùa thu về.Thu đã về trên bờ đê, ngõ xóm, trên những dòng sông và cả những cánh chim trời đang nhuốm sắc thu. Độc đáo nhất là bức tranh thu được cảm nhận từ những áng mây: “Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu”. Hữu Thỉnh không tả “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” như thơ của Nguyễn Khuyến mà điểm vào bức tranh thu một chút mây còn vương lại của mùa hạ. Đám mây mùa hạ đang vắt nửa 1
  2. mình sang thu. Đây là một lối diễn đạt độc đáo. Đám mây mang trên mình cả 2 mùa. Một nửa là vẻ đẹp của mùa hạ còn rơi rớt lại, một nửa là vẻ đẹp của mùa thu. Đó là cái đẹp rất riêng của phút giao mùa. Đám mây vắt nửa mình là hình ảnh nhân hoá. Đám mây ấy dài, mỏng, thướt tha, duyên dáng như một dải lụa nằm vắt ngang in trên nền trời, rồi để đến một lúc nào đó trở thành “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Hai khổ thơ trên là cảm nhân tinh tế của nhà thơ trong thời khắc giao mùa. Nhà thơ đã vẽ nên 1 bức tranh sang thu nông ấm. Đó là cảnh sang thu đẹp đến vô cùng, nhẹ nhàng tươi tắn đến lạ kỳ. Các phép nhân hoá, từ láy tượng hình đã đưa ta về với 1 miền quê dân dã mà ấm áp tình người. Luận điểm 3: Mùa thu được cảm nhận bằng những suy ngẫm và trải nghiệm. Nếu như ở 2 khổ thơ trên là sự cảm nhận mùa thu 1 cách trực tiếp thì ở khổ cuối lại là sự cảm nhận mùa thu bằng lý trí, bằng những suy ngẫm sâu sa: “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi”. Vẫn là những hiện tượng của thời tiết: Mưa, nắng, sấm, chớp, dông, bão của mùa hạ nhưng mức độ đã khác đi nhiều. Nắng vẫn còn nhưng không còn gay gắt, chói chang như đổ lửa trên các ngõ xóm, con đường. Mưa giảm dần chứ không còn ào ạt, xối xả và bớt chợt như những cơn mưa dông, mưa rào của mùa hạ nữa. Sấm cũng đã thưa dần và nhỏ đi chứ không đủ sức lay động những hàng cây sống lâu năm đã già dặn trải qua bao mùa dông bão. Đó là những hình ảnh tả thực về hiện tượng của TN, thời tiết, khí hậu lúc giao mùa hạ, thu. Ngoài hình ảnh tả thực, hai câu thơ cuối còn mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Sấm là hình ảnh tượng trưng cho những bất thường của ngoại cảnh cuộc đời. Còn hàng cây đứng tuổi là hình ảnh tượng trưng cho những con người từng trải, có nhiều kinh nghiệm và vốn sống. Họ sẽ trở nên bình tĩnh, tự tin, vững vàng, chín chắn hơn trước những tác động bất thường của cuộc đời. Bằng hình ảnh tả thực vừa có ý nghĩa tượng trưng, nhà thơ muốn gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của mình về con người và cuộc đời. 3. Kết bài: “Sang thu” của Hữu Thỉnh là 1 bài thơ đôc đáo. Bài thơ gây hấp dẫn cho chúng ta bằng những hình ảnh thơ rất tự nhiên, giàu sức gợi. Các phép NT nhân hoá, ẩn dụ, tương phản và các từ láy được vận dụng linh hoạt. Bằng những cảm nhận tinh tế, Hữu Thỉnh đã đưa ta đến một bức tranh thu vừa đẹp vừa có hồn, vừa gần gũi mà ấm áp, thân thương. Đọc “Sang thu” gợi lên trong tâm hồn ta một nét đẹp của quê hương bình dị và ta càng hiểu thêm 1 tâm hồn, 1 cái nhìn tinh tế, 1 t/y thiên nhiên tha thiết của nhà thơ trước thời khắc giao mùa./. ĐỀ BÀI SỐ 2: Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác”của nhà thơ Viễn Phương. 1. Mở bài: Viễn Phương là một nhà thơ chiến sĩ ở miền Nam. Ông đã từng làm thơ chúc thọ Bác trong nhà giam của Mỹ nguỵ, từng làm thơ khóc Bác trên chiến trường đánh Mỹ. Đến ngày hoà bình thống nhất đất nước, ông đã dồn hết t/c thành kính với Bác vào bài thơ ‘Viếng lăng Bác”. Bài thơ được sáng tác năm 1976 trong dịp nhà thơ được ra thăm lăng Bác. Bài thơ được in trong tập thơ “ Như mây mùa xuân”. Cả bài thơ là niềm thương nhớ, kính yêu vô hạn của nhà thơ với Bác và nguyện ước tha thiết muốn mãi mãi được ở bên Người. 2. Thân bài: * Khái quát: Mạch cảm xúc của bài thơ được diễn tả theo trình tự thời gian của một chuyến viếng lăng. Với 4 khổ thơ tự do 8 chữ, bài thơ đã diễn tả cảm xúc chân thành, tha thiết, nghẹn ngào của nhà thơ trước sự ra đi mãi mãi của Người. * Phân tích: Luận điểm 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác. Mở đầu bài thơ là lời xưng hô: “ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Đây là cách xưng hô mang đậm chất Nam Bộ. Bao nỗi nhớ, niềm thương bật lên thành tiếng gọi cha trào dâng bao 2
  3. cảm xúc, tình cha con cứ trào dâng mãi. Nhà thơ không dùng từ “viếng” như ở đầu đề bài thơ mà chuyển thành từ “thăm” để làm giảm đi sự đau đớn mà sao vẫn không dấu được nỗi bùi ngùi của cảnh tử biệt sinh ly. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy hình ảnh hàng tre trong sương biết bao thân thuộc: “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hàng tre ẩn hiện trong làn khói sương của quảng trường Ba Đình. Đó là màu xanh thân thuộc của làng quê Việt luôn gắn bó với tâm hồn Bác, tâm hồn Người cũng luôn gắn bó với quê hương xứ sở. Từ hình ảnh tả thực của cây tre đã được nâng lên thành hình ảnh ẩn dụ “xanh xanh VN”. Cây tre bình thường, dung dị trở thành biểu tượng cho phẩm chất cao quí của con người VN: Mộc mạc, dẻo dai, kiên cường, bất khuất. Thì ra ở bên Bác vẫn có cả dân tộc VN như đang ở quanh Người. Cùng với hình ảnh ẩn dụ là từ cảm “Ôi” được biểu cảm theo lối trực tiếp và điệp từ “xanh” đã thể hiện sự xúc động của nhà thơ khi liên tưởng và tự hào về sức mạnh của dân tộc VN dù trải qua bao “bão táp phong ba” vẫn kiên cường, bất khuất trong suốt bốn ngàn năm lịch sử. Nếu ở khổ 1 cảnh vật còn đang trong sương phủ thì lúc này mặt trời đã lên cao. Nhà thơ bùi ngùi, xúc động: “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” Nhà thơ đã xây dựng 2 hình ảnh mặt trời có kết cấu song song. Mặt trời trên lăng là mặt trời của thiên thể ngày ngày đem đến ánh sáng cho muôn loài trên trái đất. Đây là hình ảnh tả thực. Nhưng nhà thơ còn cảm nhận được một mặt trời rực rỡ hơn. Đó là “mặt trời trong lăng”. Bằng một hình ảnh ẩn dụ, so sánh độc đáo nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn trời biển của Bác như vầng thái dương chiếu sáng sưởi ấm trái tim chúng ta. Đặc biệt là ở chỗ nhà thơ ví Bác với thiên thể có t/c trường tồn để thể hiện sự ngưỡng mộ,vĩ đại với Người. Hoà vào dòng người vào lăng viếng Bác, nhà thơ đã có sự liên tưởng: “ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân”. Hai câu thơ với 2 hình ảnh ẩn dụ và cũng là hình ảnh tả thực: Nhìn dòng người vào lăng viếng Bác nhà thơ liên tưởng tới những tràng hoa kết thành vòng, chuỗi để dâng lên một cuộc đời 79 mùa xuân. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp vì là cách nói rất thơ: 79 mùa xuân ấy đã đem lại những mùa xuân cho dân tộc, đất nước VN, đồng thời thể hiện lòng biết ơn ,sự gắn bó của nhân dân đối với Bác. Bốn câu thơ với 2 hình ảnh tả thực và 2 hình ảnh ẩn dụ được kết cấu song song, điệp từ “ngày” được láy lại tạo nên cảm xúc về một cõi trường sinh bất tử, thể hiện lòng thương tiếc vô hạn, sự biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Bác. Luận điểm 2: Cảm xúc của nhà thơ khi ở trong lăng Bác. Vào lăng viếng Bác, nhà thơ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Người bởi “Trọn cuộc đời Bác có ngủ yên đâu”. Hình ảnh Bác yên nghỉ trong lăng được nhà thơ cảm nhận và diễn tả thật giản dị: “Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”. Bác đã nhẹ nhàng đi vào cõi vĩnh hằng vô tận trong một giấc ngủ êm đềm, yên bình thanh thản. Đó là giấc ngủ của một con người mà trọn cuộc đời đấu tranh cho độc lập tự do. Bác như vừa chợp mắt trong ánh sáng dịu dàng của vần trăng ôm ấp, che chở. Đó là vẻ đẹp nên thơ, Người đã hoà nhập vào TN vũ trụ bởi sinh thời Người rất yêu trăng, trăng là người bạn tâm giao tri kỷ của Người. Nếu ở trên kia ta thấy mặt trời thì nay trong lăng ta gặp lại ánh trăng. Trăng từ thơ Bác đã theo Người vào giấc ngủ hiền hoà. Tâm hồn người luôn gắn bó, giao cảm với TN cao rộng, thích hợp với tầm vóc lãnh tụ vĩ đại. Có lẽ đây cũng là một trong những nét đẹp nhất của bài thơ này. Ngắm nhìn Bác, nhà thơ vô cùng xúc động: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”. 3
  4. “Trời xanh” là một hình ảnh ẩn dụ. Vẫn biết con người sinh ra là phải tuân theo qui luật của tạo hoá: Sinh, lão, bệnh, tử nhưng nhà thơ vẫn không khỏi bàng hoàng, thảng thốt, xót xa trước một sự thực đau lòng, phũ phàng trước sự ra đi mãi mãi của Người. “Nghe nhói” là một nỗi đau đớn khôn cùng bởi cảm nhận ra cái bất tử của Bác càng lớn thì nỗi đau mất Bác càng lớn lao khiến câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào!Ta thấy 1 sự mâu thuẫn giữa lý trí và t/c trong tâm hồn nhà thơ. Qua đó làm nổi bật sự xót thương vô hạn của cả DT trước sự ra đi mãi mãi của Người. Luận điểm 3: Cảm xúc của nhà thơ khi rời lăng Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” Câu thơ nhắc đến thì gian. Thời gian như đang trôi nhanh hơn bởi sự chia ly đang đến gần. Giá có thể làm cho TG ngừng trôi? T/c da diết, xúc động bị dồn nén; nỗi nhớ thương khôn nguôi trước giờ phút chia tay như vỡ oà khiến nhà thơ trào dâng nước mắt. Cảm xúc mãnh liệt, t/c dồn nén bấy lâu khiến nhà thơ nảy sinh bao ước muốn: “Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”. Điệp ngữ “Muốn” được nhắc lại 3 lần kết hợp với nhịp thơ dồn dập đã khảng định nguyện ước thật chân thành. Nhà thơ muốn được hoá thân thành con chim để cất những tiếng ca véo von quanh lăng; Muốn được làm đoá hoa rực rỡ muôn sắc màu để toả hương thơm ngát dâng lên Bác và muốn làm cây tre trung hiếu để canh gữi giấc ngủ cho Người. Đó là một sự hoá thân thật kỳ diệu đươc thể hiện qua những h/a thơ đẹp, ý thơ sâu lắng. Các hình ảnh “con chim, đoá hoa, cây tre” là những hình ảnh ẩn dụ, nhân hoá rất độc đáo. Đặc biệt là hình ảnh cây tre trung hiếu đã thể hiện nguyện ước được sống dâng hiến và lòng trung thành vơí lý tưởng của tác giả. Khổ cuối gợi ra 1 sự xa cách về không gian nhưng lại vô cùng gần gũi về t/c. Đó là tâm trạng xúc động, tình cảm nhớ thương, lòng kính yêu vô hạn, lưu luyến ngậm ngùi mong mãi mãi được ở bên Bác. Bài thơ khép lại nhưng dư âm của nó còn vang vọng mãi, nhắc nhở ta không bao giờ được quên công lao trời biển của Bác và sống, học tập theo tấm gương đạo đức của Người. 3. Kết bài: “Viếng lăng Bác”là một bài thơ hay, đặc sắc với giọng điệu thành kính, trang nghiêm của thể thơ 8 chữ tự do, nhịp điệu chậm, khi thì sâu lắng, lúc lại thiết tha. Các phép ẩn dụ, nhân hoá, điệp ngữ được vận dụng sáng tạo. Bài thơ là tấm lòng yêu kính, biết ơn vô hạn của nhà thơ nói riêng và của đồng bào miền Nam nói chung đối với Bác. Có thể nói bài thơ như một nén hương trầm thơm ngát của Viễn Phương thành kính dâng lên Bác. Đọc bài thơ, em luôn ghi nhớ và làm theo 5 lời Bác dạy, cố gắng phấn đấu tốt để trở thành chủ nhân tương lai của đất nướcẫmứng đáng là con ngoan trò giỏi , cháu ngoan Bác Hồ, học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Người. ĐỀ BÀI SỐ 3: Phân tích vẻ đẹp của tình cha con trong bài thơ “ Nói với con” của nhà thơ Y Phương. 1. Mở bài: C1: “ Quê hương là gì hở mẹ? Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ? Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều”. Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả t/y quê hương của mình bằng những vần thơ thật giản dị. Quả thật ai cũng có một quê hương nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể hiện khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là chiếc cầu tre nhỏ, với Tế Hanh là chiếc buồm vôi, là “mùi nồng mặn quá” thì nhà thơ Y Phương lại biểu lộ t/y và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự vói con. Bài thơ “ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng của 4
  5. người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện t/y quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về cội nguồn dân tộc. C2: Trong thành tựu của VH hiện đại VN từ sau CMT8 có đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em như Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn Y Phương là một trong những nhà thơ tiêu biểu sau này. Y Phương là nhà thơ dân tộc tày, thơ ông giàu chất suy tư, trải nghiệm về lẽ sống, đạo lý làm người, gắn bó với quê hương đất nước. Tiêu biểu là bài thơ “Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985”. Bằng giọng thơ tâm tình, tha thiết, trìu mến, hình ảnh thơ chân thực bài thơ là tiếng lòng của một tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện t/y quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về cội nguồn dân tộc. 2. Thân bài: * Khái quát: Mượn lời người cha nói với con bài thơ đã bộc lộ niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc với cách tư duy độc đáo, giàu hình ảnh cụ thể mang phong cách của người dân miền núi – “Nói với con” là khúc tâm tình của người cha dặn dò con. Qua đó bộc lộ tình yêu thương con và mong ước thế hệ can cái sau này sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông. Luận điểm 1: Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối với con ( Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương) + Mở đầu bài thơ, tác giả đã tái hiện và gợi tả khung cảnh một gia đình đầm ấm: “Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai tiếng tới tiếng cười”. Đây là một hình ảnh cụ thể về 1 mái ấm gia đình quen thuộc tràn đầy yêu thương hạnh phúc trong sự chăm chút cho con. Phép liệt kê “ Chân phải, chân trái; Một bước, hai bước” đã giúp ta hình dung một không khí gia đình ấm áp, ngọt ngào, ríu rít, quấn quýt trong từng bước đi, tiếng nói bi bô của con trẻ. Con lớn lên trong t/y thương của cha mẹ. Tuy tấm lòng cha mẹ có bao dung, yêu thương rộng lớn đến đâu thì với con cũng là chưa đủ. Con cần đến bầu sữa tinh thần thứ 2: Đó là quê hương. Người cha nói với con về quê hương của mình bằng những h/a thơ thật giản dị: “ Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát” Quê hương trong thơ của Y Phương là “người đồng mình”. Đó là cách gọi độc đáo, gần gũi, thân thương về những con người sống trên cùng miền đất, quê hương. Người cha đã lý giải với con về những phẩm chất cao quí của người dân quê hương và dạy con yên lấy những gì thân thuộc nhất của người đồng mình. Đó là cốt cách tài hoa và tâm hồn trong sáng. Dưới bàn tay khéo léo của người đồng mình – những nan nứa, nan tre trở thành những nan hoa tuyệt đẹp. Các động từ “ cài, ken” được sử dụng rất uyển chuyển, khéo léo tạo cảm giác quấn quýt, thân thương. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn được ken, cài bằng những câu hát trao duyên tìm bạn của những chàng trai chân chất, mộc mạc. Thì ra dưới dáng vẻ thô sơ, mộc mạc ấy là một tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời. Có thể nói Y Phương phải là một người yêu quê hương, gắn bó, tự hào về quê hương, dân tộc mình thì mới có được những cảm xúc và diễn tả hay đến vậy. + Quê hương trong lòng nhà thơ là hình ảnh những con đường nghĩa tình và cảnh TN đẹp đẽ của quê hương: “ Rừng cho hoa - Con đường cho những tấm lòng”. Bằng cách nói nhân hoá “rừng, con đường” kết hợp với điệp từ “cho” đã làm rõ hình ảnh TN của quê hương thật nghĩa tình. Rừng không chỉ cho con người lâm sản quí giá mà còn chở che. Con đường đâu chỉ đi ngược về xuôi, lên non xuống bể mà còn soi đường mở lối. Con đường người cha nói với con trong bài thơ có hai hình ảnh độc đáo. Trước hết là con đường đi vào bản làng, đường ra sông, ra suối đến trường. Song đằng sau h/a cụ thể ấy là h/a ẩn dụ rất sáng tạo. Đó cũng chính là con đường đi tới ước mơ, con đường đi đến mọi chân trời, con đường đi tới tương lai của con. 5
  6. + Qua lời thơ giản dị người cha muốn nói với con về gia đình, quê hương và khảng định đó cũng là cái nôi nuôi con khôn lớn và nhắc nhở con về ý thức cội nguồn sinh dưỡng: “ Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Người cha đã nhắc đến kỷ niệm khởi đầu cho hạnh phúc để giúp con vững bước trên con đường tương lai dài rộng. Luận điểm 2: Những p/chất cao đẹp của người đồng mình và lời nhắn nhủ con. + Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân miền núi với cách nói dân dã, mộc mạc về những phẩm chất cao quý của người dân quê hương. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất người cha mở ra cho con những ký ức đẹp đẽ về gia đình, quê hương thì ở khổ thơ thứ 2 người cha đã nhấn mạnh sự gắn bó của con với những con người quê hương. Cụm từ “Người đồng mình” được điệp đi, điệp lại: “ Người đồng mình thương lắm con ơi”. Cách gọi ấy gợi cảm giác thân quen gây 1 ấn tượng sâu sắc về con người quê hương, lời gọi con cất lên thật tha thiết, chân thành “con ơi”. Người cha lần lượt ca ngợi những phẩm chất của người đồng mình với cách nói cụ thể: “Cao đo nỗi buồn - Xa nuôi chí lớn” Đó là những con người giàu ý chí, nghị lực, luôn luôn vượt lên mọi khó khăn thử thách với bao nỗi buồn, niềm vui của cuộc đời. Nhà thơ lấy sự từng trải để đo chiều cao; lấy ý chí để đánh giá sự bền vững. Hai câu thơ 4 chữ đăng đối như một câu tục ngữ đúc kết 1 thái độ, 1 phương châm ứng xử cao quý, thể hiện 1 bản lĩnh sống đẹp của người dân tộc Tày. + Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình cứ lần lượt hiện dần lên qua lời tâm tình với con, nhẹ nhàng gieo vào lòng con những cảm xúc chân thành tha thiết. Đó là lối sống thuỷ chung tràn đầy niềm tin của người đồng mình: “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông, như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Giọng điệu tâm tình của đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc trước những lời căn dặn thân thương, tha thiết. Đó cũng là ước muốn của người cha dù hoàn cảnh ntn, cuộc sống ra sao, trên đường đời dẫu chiến thắng hay thất bại thì con phải biết chấp nhận và không bao giờ gục ngã. Con hãy sống xứng đáng với người đồng mình bởi người đồng mình không bao giờ sợ gian khổ, sợ nghèo đói. Sự chấp nhận và đương đầu với gian khổ được thể hiện trong các điệp ngữ “ không chê, không lo” và cũng là lời nhắc nhở chân tình mà cha muốn truyền dạy cho con bài học đạo lý làm người: Con phải biết gắn bó với quê hương xứ sở. Ba từ “sống” được đặt ở dầu câu cùng với phép so sánh đã trở thành lời nhắc nhở con về lẽ sống ở đời. Bằng các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” kết hợp các điệp từ “sống” vang lên, đoạn thơ đã khảng định 1 tâm thế, 1 bản lĩnh sống, 1 dáng đứng của người đồng mình và đó cũng là điều mà người cha hy vọng con hãy sống sao cho xứng đáng với quê hương. + Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình còn được nhà thơ thể hiện bằng cách nói rất cụ thể của bà con dân tộc Tày, không hề biết nói hay, nói khéo: “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” Đó là vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng, của nhân cách làm người được diễn tả qua cách nói tương phản đối lập giữa hình thức và phẩm chất bên trong. Dù mộc mạc, giản dị như cây cỏ thì cũng không được sống tầm thương mà phải ngẩng cao đầu. Bộc lộ những suy nghĩ về người dân quê hương, người cha như nhắn nhủ con phải biết gắn bó, qúi trọng nơi sinh thành; trân trọng yêu mến con người quê hương. + Chính vẻ đẹp ấy mà người đồng mình sống rất thuỷ chung, nhân hậu: 6
  7. “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục” Người đồng mình kiên trì, bền bỉ trong công cuộc lao động để vun đắp, xây dựng xóm làng, biết dệt lên những phong tục để tôn vinh quê hương. Với cách nói cụ thể “ đục đá kê cao quê hương” - Nhà thơ đã sử dụng h/a ẩn dụ thật đọc đáo để ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ như cần cù, chăm chỉ, chịu khó và ý thức tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ cội nguồn. Có thể nói người cha đã nói với con tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người quê hương – Cái nôi đã sinh ra con, nuôi con lớn khôn và trưởng thành. Một lần nữa quê hương hiện lên như nguồn tiếp sức nhưng không phải là vỗ về, âu yếm giống như thời thơ bé mà giờ đây là lời nhắc nhở con ngẩng cao đầu mà đi. + Kết thúc bài thơ là lời khuyên con của người cha thật tha thiết, chân thành với tiếng gọi âu yếm: “Con ơi! Tuy thô sơ da thịt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con” Đó cũng là lời căn dặn con không bao giờ được nhỏ bé, tầm thường mà phải biết gữi lấy cái cốt cách giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Hai tiếng “ Nghe con” là cả 1 tấm lòng mênh mông của người cha. Cái điều cha nhắn nhủ thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc biết nhường nào. Ta nghe âm vang của nó như có cả mệnh lệnh của trái tim. Câu thơ ngắn lại, có câu chỉ có 2 tiếng nhưng lại là sức mạnh của người cha đang tiếp cho con, nhắc nhở con phải khắc cốt ghi tâm để khi con bước trên con đường đời phải biết sống cao thượng, tự trọng, xứng đáng với những phẩm chất cao quí của người đồng mình. áng thơ đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của tình phụ tử cao quý và sự xúc động trước lời căn dặn yêu thương mà người cha muốn con thấu hiểu. 3. Kết bài: “Nói với con” là 1 bài thơ đặc sắc của Y Phương với thể thơ tự do, bằng cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh phóng khoáng vừa cụ thể vừa giàu sức khái quát, các BP điệp từ, điệp ngữ được vận dụng linh hoạt. Bài thơ là một điệp khúc về t/y con, t/y quê hương đất nước, đồng thời cũng là điệp khúc về lòng tự hào về những truyền thống cao đẹp của dân tộc. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của người dân miền núi và ta cũng như đang bắt gặp lại chính làng quê mình, tâm hồn mình. Đọc xong bài thơ, một lần nữa ta cúi đầu thành kính nhớ về cội nguồn với những gì thân thương nhất và đem đến cho chúng ta một bài học làm người : “ Không bao giờ được quên đi xứ sở, cội nguồn. Đó là sức mạnh, là niềm tự hào của lòng ta”. ĐỀ BÀI SỐ 4: Phân tích bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. 1. Mở bài: Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, người ta thường hay bộc lộ tâm trạng bi quan, chán nản và tuyệt vọng nhưng với nhà thơ Thanh Hải lại khác. Bởi trước khi ra đi mãi mãi, ông đã để lại cho đời những vần thơ thiết tha, thanh thản không hề gợn nét u buồn của một một cuộc đời sắp tắt. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh kề cận với cái chết. Bài thơ không giống như một lời trăn trối mà là cảm xúc về một mùa xuân tươi tắn, rộn ràng và ước nguyện chân thành, cao đẹp muốn làm một mùa xuân nho nhỏ để dâng cho cuộc đời. 2. Thân bài: * Khái quát: Với thể thơ 5 chữ, nhịp điệu biến đổi linh hoạt theo mạch cảm xúc, âm hưởng nhẹ nhàng, tha thiết – Bài thơ là tiếng lòng tha thiết mến yêu và gắn bó với đất nước, cuộc đời và khát vọng được sống cống hiến, góp một phần nhỏ của mình vào mùa xuân của đất nước, dân tộc. Luận điểm 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của TN, đất trời, sông núi. 7
  8. + Mạch cảm xúc bắt nguồn từ những t/c hồn nhiên, trong trẻo của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp của xứ Huế: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời”. Bằng 3 nét chấm phá: Dòng sông xanh, bông hoa tím, âm thanh chim chiền chiện nhà thơ đã khắc hoạ cảnh mùa xuân tươi đẹp tràn đầy sức sống. Nhà thơ đã vẽ ra một không gian cao rộng với màu sắc tươi thắm của dòng sông xanh, màu tím mộc mạc của bông hoa lục bình và âm thanh vang vọng, tươi vui của tiếng chim hót vang trời. Hai câu thơ đầu, ta gặp 1 cách viết rất lạ. Tác giả đảo trật tự cú pháp: ĐT “ Mọc” được đảo lên trước CN, đầu đoạn, đầu bài thơ đã tạo ra ấn tượng đột ngột, bất ngờ, sống động về hình ảnh 1 bông hoa đang từ từ xoè nở trên dòng sông như hiện dần ra trước mắt người đọc. Bức tranh xuân không chỉ có màu sắc mà còn có âm thanh vang vọng đậm chất Huế. Nhà thơ dùng từ cảm “ Ơi” ở đầu câu và từ “chi” liền sau ĐT “Hót” là cách nói dịu dàng, trìu mến, yêu thương. Bốn câu thơ đầu, cho ta cảm nhận về 1 bức tranh mùa xuân trong sáng, đằm thắm, tươi vui, ấm áp, rộn ràng, náo nức. + Từ vẻ đẹp của khung cảnh mùa xuân ấy, cảm xúc nhà thơ rạo rực: “Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng”. Chim chiền chiện là loài chim nhỏ thường bay cao, bay thành đôi mới cất tiếng hót. Tiếng hót lảnh lót, trong trẻo như cô đúc thành giọt âm thanh có thể đưa tay ra nhẹ nhàng hứng được. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Âm thanh của tiếng chim được cảm nhận từ thính giác chuyển sang cảm nhận bằng xúc giác. Âm thanh đã hoá thành vật thể, tiếng chim hót vang trời ấy không còn là âm thanh bình thường nữa mà là tiếng của mùa xuân, từng giọt âm thanh của mùa xuân long lanh rơi xuống. Động tác “hứng” là 1 cử chỉ diễn tả sự nâng niu, trân trọng, quyến luyến của thi nhân trước vẻ đẹp của mùa xuân. Hình như lúc này, nhà thơ đang quên đi thực tại của mình để sống trọn vẹn, tắm mình trong sức xuân tươi đẹp để tận hưởng những giây phút ngọt ngào của mùa xuân xứ Huế với niềm say sưa, ngây ngất. Luận điểm 2: Cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, của CM. + Từ cảm xúc trước mùa xuân của TN, đất trời nhà thơ chuyển sang suy ngẫm về mùa xuân của đất nước, CM. Khi đất nước vào xuân, khi bản nhạc mừng xuân như vang cả đất trời, tràn ngập cả không gian và làm bừng lên cuộc sống – Thì nhà thơ nhắc đến 2 hình ảnh tiêu biểu: “Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải đầy nương mạ”. “Người cầm súng” là người bảo vệ đất nước; “Người ra đồng” là người xây dựng đất nước. Khổ thơ có cấu trúc song hành, nhà thơ chỉ rõ 2 nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta những năm 1980 là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước. Ý thơ vừa có hình ảnh tả thực chỉ mùa xuân với chồi non lộc biếc, vừa là hình ảnh ẩn dụ chỉ sức sống mãnh liệt của đất nước. H/a người cầm súng giắt lộc trên lưng vòng lá nguỵ trang như mang theo sức xuân vào trận đánh. Người ra đồng như gieo sự sống mùa xuân trên từng nương mạ. “Tất cả như hối hả, xôn xao” gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Tác giả sử dụng điệp từ, điệp ngữ, các từ láy đã diễn tả không khí khẩn trương, sôi động của đất nước đang vào xuân. Nhịp thơ rộn ràng, tươi vui như nhịp sống đi lên của đất nước đang vào xuân. + Từ sức sống rộn ràng của mùa xuân đất nước, nhà thơ suy ngẫm: “ Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”. Đất nước được nhân hoá như một bà mẹ tần tảo, vất vả, gian nan. Chặng đường 4000 năm văn hiến của DT với bao thăng trầm, thử thách đã tạo nên sức mạnh vĩnh cửu. Đất nước đã được so 8
  9. sánh với vì sao – Một h/a tuyệt đẹp biểu tượng cho sức mạnh trường tồn mà không có 1 thế lức nào ngăn cản nổi. Đồng thời diễn tả niềm tự hào, kiêu hãnh và niềm tin sắt đá, ý chí quyết tâm trong hành trình dẫn đến ngày mai của DT. Luận điểm 3: Ước nguyện chân thành của nhà thơ. + Từ cảm xúc về mùa xuân của đất nước, của CM – Nhà thơ đã tự nhìn lại cuộc đời mình và bộc lộ tâm nguyện, ước vọng chân thành: “ Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến” Điệp từ “Ta làm” được điệp đi điệp lại cùng các ĐT “nhập, hoà” và các hình ảnh “ Con chim, cành hoa, nốt trầm”. Đó là ước nguyện được hoá thân – Một sự hoá thân kỳ diệu. Đây là các h/a ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, cho tài trí của mỗi chúng ta. Đoạn thơ đã có sự thay đổi đại từ. “Ta” là nhà thơ và cũng là của tất cả mọi người. Cái riêng như đã hoà quện vào cái chung. Đó là khát vọng được sống có ý nghĩa, hoà nhập, cống hiến cho cuộc đời. Tâm niệm của nhà thơ thật nhỏ bé tự nhiên, giản dị, chân thành mà cao đẹp biết bao. Nếu đã là một cành hoa thì cả đất nước ta sẽ là một vườn hoa rực rỡ khoe sắc, toả hương. Nếu mỗi người là 1 nốt nhạc thì cả đất nước sẽ trở thành một bản hoà ca ngân nga, hùng tráng. Nếu mỗi người là 1 mùa xuân nho nhỏ thì cả đất nước sẽ là 1 mùa xuân rực rỡ. => Bằng các h/a đẹp, tự nhiên, giọng thơ chân thành, giàu cảm xúc đã thể hiện nguyện ước cao đẹp: Đó là sống cống hiến cho cuộc đời, Tổ quốc. + Nhà thơ muốn làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng cho đời: “ Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc”. Mùa xuân nho nhỏ là 1 h/a ẩn dụ độc đáo tượng trưng cho những tấm lòng cao cả của nhà thơ. Cả cuộc đời cống hiến cho đời, cho đất nước không ồn ào mà thật lặng lẽ, khiêm nhường. Điệp từ “ Dù là” được nhắc đi nhắc lại như 1 lời nhắc nhở dù bất cứ hoàn cảnh nào. Còn sống là còn cống hiến, cống hiến cho đến hơi thở cuối cùng. Nhà thơ luôn nhìn đời với cái nhìn lạc quan nhất, muốn làm tất cả để dâng cho đời dù thân xác có trở thành cát bụi nhưng nguyện ước được làm 1 mùa xuân nho nhỏ vẫn còn mãi với thời gian, vẫn lặng lẽ dâng cho đời. Đó là lẽ sống cao cả, đẹp đẽ, đáng trân trọng. Chính vì vậy mà mùa xuân nho nhỏ của ông ánh lên 1 sức xuân tươi sáng: Niềm tin vào cuộc sống. Đó là nguyện ước của 1 con người có cuộc đời đẹp như những mùa xuân, muốn giữ cho tâm hồn tràn đầy sức xuân và luôn muốn mình là 1 mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ dâng cho đời, muốn làm 1 nốt trầm thôi để góp vào bản hoà ca của đất nước thật lặng lẽ, khiêm nhường. Luận điểm 4: Niềm tự hào về những giá trị truyền thống bền vững của dân tộc. Khổ thơ cuối là tiếng hát về mùa xuân xứ Huế yêu thương: “ Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế”. Khổ thơ cuối ngân lên khúc hát mùa xuân vang vọng trải dài cùng âm hưởng của dân ca xứ Huế mênh mang, tha thiết. Nhà thơ muốn hoà lòng mình vào làn điệu dân ca nổi tiếng xứ Huế. Nhịp phách tiền là nhạc cụ dân tộc để nhịp cho lời ca. Nhà thơ có cảm xúc dạt dào với quê hương yêu dấu trong buổi xuân về. Quê hương, đất nước trải ngàn dặm chan chứa yêu thương. Đó là ngàn dặm mình, ngàn dặm tình với nước non và đất nước, quê hương. Câu thơ của người con sông Hương núi Ngự thật ngọt ngào trong điệu dân ca với cảm xúc dạt dào. 3. Kết bài: 9
  10. “Mùa xuân nho nhỏ” là 1 bài thơ đặc sắc. Trước khi từ giã cõi đời, Thanh Hải đã để lại cho đời 1 bài thơ xuân đậm đà tình nghĩa. Với thể thơ 5 chữ, giọng điệu biến đổi linh hoạt: Lúc thì tha thiết, ngân vang- lúc thì mạnh mẽ, hào hùng. Ngôn ngữ trong sáng, giàu sắc thái biểu cảm. Các BPTT ẩn dụ, điệp từ, so sánh, nhân hoá được vận dụng linh hoạt. Bài thơ là 1 bức tranh mùa xuân tươi sáng, sống động và là tiếng lòng tha thiết, yêu mến gắn bó với đất nước, với cuộc đời – Thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ góp 1 mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân lớn của DT. Chính vì vậy mà “Một mùa xuân nho nhỏ” sống mãi với thời gian. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành 1 khúc ca xuân say đắm lòng người. Đọc bài thơ, ta thêm yêu cuộc sống, như tiếp thêm cho ta sức mạnh, bồi dưỡng cho ta niềm lạc quan, yêu đời và nhắc nhở chúng ta hãy sống có ích, hãy sống cống hiến để làm nên mùa xuân tươi đẹp cho đất nước. ĐỀ BÀI SỐ 5: Phân tích nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. 1. Mở bài: “Chiếc lược ngà” là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng được viết năm 1966 và in trong tập truyện cùng tên. Truyện ca ngợi vẻ đẹp cao cả của tình cha con trong chiến tranh trong đó nhân vật bé Thu là môt người con có tình yêu cha sâu sắc mãnh liệt. Đây là nhân vật chính thể hiện tài năng miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật của Nguyễn Quang Sáng. 2. Thân bài: * Khái quát: Đây là một trong những truyện thành công của nhà văn viết về tình cảm cao đẹp của con người: Tình cha con, tình đ/c, đồng đội. Những t/c ấy được khai thác qua những tình huống rất đặc biệt, cụ thể. Trong đó diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu được thể hiện một cách sâu sắc: Một cô bé có cá tính mạnh mẽ, có t/y cha sâu nặng. * Luận điểm 1: Tình cảm của bé Thu khi ông Sáu về thăm nhà (Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ông Sáu là cha) + Ông Sáu một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc k/c chống Pháp và Mĩ. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến 1954 khi hoà bình lập lại, ông mới được về thăm nhà vài ngày. + Chiến tranh làm cha con phải xa nhau. Bé Thu được 1 tuổi thì cha biền biệt xa nhà đi k/c. Em chưa hề được biết mặt cha. Người cha trong tâm tưởng của em là người đàn ông trong tấm hình chụp chung với má. Đến khi Thu 8 tuổi hai cha con mới có dịp gặp nhau. + Bé Thu gặp cha trong hoàn cảnh đặc biệt: Khi thuyền cập vào bờ thì bé đang chơi nhà chòi bên bờ kênh. Ông Sáu không kịp chờ thuyền cập bờ kênh, vội vàng bước những bước dài rồi kêu to, giọng lặp bặp run run xúc động: Thu, ba đây con! Trái với mong đợi của người cha, bé Thu tỏ ra ngờ vực, nó giật mình tròn mắt nhìn, mặt tái đi, ngơ ngác lạ lùng, sợ hãi, vụt chạy và kêu thét lên : Má! Má! + Trong 3 ngày nghỉ phép ở nhà, ông Sáu càng gần gũi âu yếm bao nhiêu thì bé Thu lại càng xa cách bấy nhiêu. Thu cương quyết không nhận cha, em cư xử một cách bướng bỉnh. Em nói năng cộc lốc, cư xử vùng vằng ương bướng. Khi cần em chỉ nói trống không Vô ăn cơm”, cơm chín rồi”. Khi lâm vào thế bí phải đánh vật với nồi cơm to trên bếp thì bé Thu dùng mọi cách để tự chắt nước chứ nhất quyết không chịu nhờ vả. Ông Sáu suốt ngày chẳng dám đi đâu chỉ quanh quẩn vỗ về mong được con bé gọi một tiếng ba. Bé Thu quyết liệt và phản ứng rất trẻ con khi ông gắp cho em một miếng trứng cá thì nó đã hất tung toé. Bị cha đánh, cô bé không hề khóc, lặng lẽ gắp trả miếng trứng cá vào bát rồi khua dây lòi tói kêu xổn kêu xảng như để trêu ngươi. Em bỏ sang nhà bà ngoại. Đó là những phản ứng quyết liệt song hoàn toàn tự nhiên của một cô bé có cá tính mạnh mẽ và một tình cảm chân thành, chứng tỏ em có một niềm tin kiêu hãnh và một t/y sâu sắc với người cha trong tấm ảnh. * Luận điểm 2: Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ra cha. 10
  11. + Tình cảm cha con tưởng chừng như không thể hình thành được. Nhưng khi sang nhà ngoại, được ngoại giảng giải thì Thu đã hiểu ra lí do vì sao mà trên mặt ông Sáu lại có một vết sẹo. Nó hiểu ra rằng chiến tranh đã làm thay đổi khuôn mặt của cha. Bé Thu ân hận vô cùng. Nó nằm im và thỉnh thoảng thở dài như người lớn. Sáng hôm sau, nó bảo bà ngoại đưa về nhà. + Trong buổi sáng chia tay cha trở về đơn vị, bé Thu đứng nép lặng lẽ bên cánh cửa, vẻ mặt buồn rầu, đôi mắt mở to với vẻ ngơ ngác, lạ lùng, nghĩ ngợi. Khi ông Sáu đưa cặp mắt trìu mến chào tạm biệt thì “đôi mắt của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt ấy là biết bao nhiêu xáo động, biết bao nhiêu ý nghĩ. Khi ông Sáu khẽ chào con “Thôi ba đi nghe con” thì bé Thu đã thể hiện một cách bất ngờ, nồng nhiệt. T/c thiêng liêng bùng cháy lên, lần đầu tiên trong đời cô cất tiếng gọi ba. Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nge thật xót xa. Đó là tiếng gọi mà em đã dồn nén bấy lâu, vỡ oà từ đáy lòng, cất lên thành tiếng gọi đầy yêu thương. Thu vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh như một con sóc, rồi nó nhảy thót lên dang hai tay xiết chặt cổ ba, hôn lên tóc, lên cổ, lên vai và lên cả vết sẹo dài trên mặt cha. Em níu chặt cha như muốn đền bù những hụt hẫng, những nghi ngờ đã được giải toả. Trong tâm hồn cô bé 8 tuổi ấy người cha đẹp lắm. Giờ đây em hiểu thêm ra một vẻ đẹp nữa ở cha: Cha em thật anh hùng. Nhà văn không viết nhiều song chỉ bằng một chi tiết nhỏ đó thôi cũng đủ để ta xúc động trước nỗi niềm trong trẻo, chân thành, sâu sắc của bé Thu với cha. + Yêu quí ba, Thu không muốn để cha đi. Nó dang cả hai tay, hai chân ôm chặt lấy cổ ba, những hành động hối hả cuống quýt xen lẫn cả sự ân hận. + Yêu ba không muốn để ba đi nhưng lại nhượng bộ một điều kiện “Ba về mua cho con một cây lược nghe ba” – Bé nói trong tiếng nấc nghẹn ngào. + Nhà văn tỏ ra am hiểu tâm lí nhân vật và diễn tả một cách sâu sắc, sinh động những thay đổi của bé Thu. T/c mà em dành cho cha thật sâu sắc, mãnh liệt. Điều đó cho thấy bé Thu là một cô bé cứng cỏi, dứt khoát và cũng rất hồn nhiên trong sáng, thơ ngây: Khi chưa nhận ra cha thì lạnh lùng, thờ ơ, ương ngạnh – Còn khi nhận cha rồi thì bộc lộ t/c một cách chân thành, mãnh liệt. Chứng tỏ Thu có một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng chan chứa yêu thương. Nhà văn đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện t/c của nv để thể hiện sinh động, sâu sắc. Giây phút bé Thu nhận cha được diễn tả bằng lối văn giàu chất trữ tình, giàu sức truyền cảm. Có lẽ nhiều người không cầm được nước mắt khi đọc những trang văn xúc động ấy, quả là tình phụ tử thiêng, cao đẹp. 3. Kết bài: Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là truyện tiêu biểu viết về đề tài chiến tranh. Với cách xây dựng nhân vật tiêu biểu, các chi tiết bất ngờ, ngôi kể linh hoạt, ngôn ngữ thân mật giàu chất Nam Bộ, đặc biệt là NT miêu tả tâm lí tâm lí trẻ thơ - Tác giả đã ca ngợi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng cao cả. Qua đó ca ngợi mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, tình cha con, tình đồng chí đồng đội và t/c CM cao cả. Tuy truyện ra đời những năm 60 của thế kỉ trước, khi cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước đang diễn ra khốc liệt nhưng qua nv ông Sáu và bé Thu, nhà văn đã khắc hoạ vẻ đẹp của tình cha con nhưng đầy chất trữ tình. Đó chính là sức hấp dẫn kì lạ của “Chiếc lược ngà”. Đọc tác phẩm, ta càng thêm trân trọng tình cha con ĐỀ BÀI SỐ 6: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân. 1. Mở bài: * C1: Kim Lân là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông viết về cuộc sống thôn dã và cảnh ngộ của những người nông dân. “Làng” là một trong số truyện ngắn như vậy. Truyện viết năm 1948 trong thơidf kì k/c chống Pháp. Nhà văn đã thể hiện tình yêu làng, yêu đất nước sâu đậm qua nhân vật ông Hai – một lão nông thật thà, chất phác, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng mình theo Tây làm Việt gian. * C2: Năm 1948 là thời kì đầu của cuộc k/c chống thực dân Pháp. Lúc đó CMVN đang gặp nhiều gay go, ác liệt. Đảng vận động nhân dân đi tản cư k/c. Đại đa số đồng bào ủng hộ chính 11
  12. sách đó, tạm thời xa quê hương làng xóm để đến nơi an toàn nhưng hình ảnh làng quê vẫn nhức nhối khôn nguôi trong lòng họ. Vốn là một nhà văn am hiểu sâu sắc tâm lí của người nông dân nên Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất cao đẹp đó qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”. Ông Hai là một người nông dân chất phác, giàu lòng yêu làng xóm, quê hương đất nước. T/y ấy được thể hiện rất đặc sắc qua tình huống ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây làm Việt gian. 2. Thân bài: * Khái quát: “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân viết về người nông dân. Tác giả đã khai thác t/c bao trùm và phổ biến của người nông dân qua nv ông Hai là t/y làng quê gắn bó với t/y đất nước. Với cách kể rất khéo léo, tự nhiên, kịch tính cao, cách cởi nút, thắt nút rất hợp lí truyện đã xây dựng thành công nv ông Hai là một người nông dân có t/y làng, yêu quê hương đất nước tha thiết. Đó là nét phẩm chất đáng quí của người nông dân VN trong cuộc k/c chống Pháp. Luận điểm 1: Ông Hai có t/y làng rất đặc biệt, và cách ông thể hiện t/y ấy cũng đặc biệt. Khi đi tản cư, đến nơi ở mới, ông say mê kể chuyện về ngôi làng Chợ Dầu- nơi chôn rau cắt rốn của mình. Mỗi khi kể về làng, thì ông kể một cách say mê, hai con mắt sáng rực lên, cái mặt biến chuyển linh hoạt. Đặc biệt ông Hai có tính hay khoe làng. Đi đâu ông cũng nói về làng mình. Tại sao ông Hai lại yêu làng bằng một t/y say mê đến thế? Bởi đây là mảnh đất nơi ông sinh ra và lớn lên với biết bao kỉ niệm gắn bó nên ông yêu làng với tất cả sự tôn thờ những gì mà làng ông có. + Trước CM, t/y làng, tự hào về làng của ông Hai là niềm tự hào kiêu hãnh về cái sinh phần của viên quan tổng đốc. Đi đâu ông cũng ông cũng khoe cái sinh phần ấy với cách gọi thân mật là “cụ làng tôi”. Ông những tưởng rằng cái sinh phần ấy có cả phần của ông nên với ông đây là một t/y mù quáng khi chưa tiếp nhận được ánh sáng của Đảng. + Sau CM, ông hiểu ra chính xác cái lăng ấy đã làm cho ông và biết bao nhiêu người dân nữa phải khổ thì ông lại căm thù nó. Nếu như trước CM ông tự hào về cái lăng ấy bao nhiêu thì sau CM ông căm thù nó bấy nhiêu. Đó là biến chuyển quan trọng trong tư tưởng của người nông dân khi đến được với ánh sáng của Đảng, CM. + Bây giờ đến nơi tản cư mới, ông vẫn khoe về làng. Ông khoe làng ông có chòi phát thanh cao bằng ngon tre, có phòng thông tin tuyên truyền rộng nhất vùng, chiều chiều gọi loa cả làng nghe thấy. Ông khoe tất cả những gì của làng ông cũng hơn đứt thiên hạ, rồi ông khoe làng ông có những hố, những ụ, những hào giao thông, những buổi luyện tập quân sự để chuẩn bị cho k/c. Đó là niềm vui sướng của ông Hai trước sự thay đổi của làng Chợ Dầu. Ông tự hào và gắn bó với làng không phải vì làng ông giàu mà làng ông là làng k/c. Khi phải đi tản cư ông muốn ở lại làng để đánh giặc, sống chết bảo vệ làng. Nhưng khi hiểu ra đi tản cư cũng là k/c nên ông vui vẻ ra đi. Xa làng, ông luôn hỏi thăm tin tức về làng để giải toả nỗi nhớ làng bằng cách tối tối sang kể chuyện làng mình cho bác Thứ nghe. Tiếng là kể chuyện cho bác Thứ nghe nhưng thực chất là ông đang nói cho chính mình nghe để nguôi ngoai nỗi nhớ làng, lúc ấy ta thấy t/y của ông Hai mới sâu sắc biết nhường nào. Luận điểm 2: Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin dữ về làng. + T/y làng của nv ông Hai còn bùng cháy và toả sáng hơn khi nhà văn KL đưa câu chuyện vào một tình huống rất đặc sắc, bất ngờ để bộc lộ t/y sâu sắc của ông Hai với làng quê, đất nước. Đó là tin làng Chợ Dầu theo Tây làm Việt gian. + Ông đang ở phòng thông tin tuyên truyền và tâm trạng ông náo nức khi nghe tin quân ta thắng trận. Ông bỗng nghe được tin làng Chợ Dầu lầm Việt gian từ miệng một người đàn bà. Như tiếng sét ngang tai, ông Hai sững sờ, lắp bắp hỏi lại để xác minh cái tin dữ ấy. Da mặt ông tê rân rân, cổ họng nghẹn ắng lại. Đó là tâm lí của người bị bắt quả tang. Ông sợ người ta biết mình là dân Chợ Dầu và ông có cảm giác là tất cả mọi người đều biết điều đó nên ông lặng đi tưởng như không thở được nữa. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ hoàn toàn trước cái tin sét đánh ấy. Nếu chưa chót khoe về làng, chưa tự hào về làng thì có lẽ ông chưa đến nỗi đau đớn như thế. 12
  13. + Khi nghe cái tin sét đánh ấy, ông cố làm ra vẻ bình thường, cười nhạt vươn vai đứng dậy : Hà, nắng gớm, về nào và lảng ra chỗ khác đánh trống lảng. Ông giống như một kẻ phản bội sợ người ta phát giác nên ông cứ cúi gằm mặt mà đi, dù không có ai ông cũng bẽ bàng, xấu hổ. + Về tới nhà ông nằm vật ra gường, nước mắt cứ trào ra, ông khóc. Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn nghe ngóng : Một đám đông xúm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười xa xa ông cũng chột dạ. Lúc nào ông Hai nơm nớp : Thôi đúng là chuyện ấy rồi ! Cứ nghe thấy ttiếng Tây hay Việt gian là ông lại lùi vào góc nhà im thin thít. Kim Lân đã đã diễn tả rất cụ thể, sâu sắc tâm trạng trĩu nặng thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí ông Hai . Trước đây ông tự hào, hãnh diện về làng bao nhiêu thì nay ông lại đau đớn và tủi hổ bấy nhiêu. Giá như không có t/y thì ông đâu đến nỗi đau khổ đến thế. Ông cảm thấy mình mang cái cực nhục của 1 tên bán nước và các con ông cũng phải mang nỗi nhục ấy. Ông đau đớn dằn vặt : Chúng nó cũng là con của làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị mọi người hắt hủi đấy ư ? Thậm chí khi bị sức ép của mụ chủ nhà : Người ta không ai chứa người làng Việt gian nữa – càng làm cho ông đau khổ. Cái khổ của ông Hai không phải vì sợ người ta đuổi mà là vì mình là người dân làng Việt gian bán nước. * Một cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra trong lòng ông Hai rất gay gắt. Về làng hay ở lại ? Ông đã từng nhớ làng da diết, ước ao được trở về làng nhưng giờ đây làng đã theo tây rồi. Vừa chớm nghĩ trở về làng thì ông lại tự phản đối ngay.Về làng bây giờ là bỏ k/c, bỏ cụ Hồ, cam tâm trở lại kiếp nô lệ nhục nhã. Mới nghĩ đến đấy ông lão đã rùng mình. Lúc này t/y làng dù có tha thiết, mãnh liệt đến đâu cũng không bằng t/y đất nước.Nhà văn đã thể hiện sâu sắc và tinh tế t/y làng, yêu đất nước của ông qua một mâu thuẫn : Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Phải thù nhưng vẫn yêu nên ông càng đau đớn. Phải chăng lúc này trong lòng ông Hai t/y đất nước rộng lớn bao trùm lên t/c làng quê ? Vì thế ông bị đẩy vào tình thế tuyệt vọng, bế tắc. Nói là thù làng nhưng vẫn yêu làng. Thì ra t/y làng của ông Hai trước sau vẫn như một. * Câu chuyện tâm sự của ông Hai với đứa con út thật cảm động. Điều đó cho thấy rõ t/y nước sâu sắc của một lão nông trong thử thách. Nước mắt ông lão chảy ròng ròng trên má khi nghe đứa con nói một cách ngây thơ : ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm ! Chi tiết ấy đã chứng tỏt/c gắn bó thuỷ chung biến thành niềm tin thiêng liêng với cụ Hồ, với k/c. Tâm trạng buồn khổ ông không biết ngỏ cùng ai, ông chỉ biết thủ thỉ với con để ngỏ lòng mình và vơi đi nỗi buồn khổ. Đó là tấm lòng gắn bó trước sau như một với đất nước, với anh em đ/c biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông. Cái lòng của bố con ông là như thế, có bao giờ dám đơn sai. Luận điểm 3: Tâm trạng ông Hai khi nghe làng cải chính. Mọi sự hoài nghi đau đớn được giải toả khi nghe ông chủ tịch báo tin làng ông k/c. Ông Hai như người chết đi được sống lại. Ông hoàn toàn thay đổi tâm trạng : Hồ hởi đi khắp làng để khoe tin : Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn ! Với niềm vui sướng thực sự vì đó là bằng chứng làng ông không hề theo giặc. Ông Hai lật đật chưa đi hết nơi này ông lại đi nơi khác, miệng bỏm bẻm nhai trầu, hai con mắt hung hung đỏ hấp háy. Ông lại trở về bản chất của mình lại khoe làng. Đó là nỗi lòng của một lão nông với niềm vui sướng được bộc lộ 1 cách tự nhiên, dẫu cho nhà mình bị giặc đốt, ông không khoe chung chung như trước đây mà ông khoe làng ông chống càn, ông khoe bằng trí tưởng tượng nhưng cụ thể, sinh động y như ông vừa được dự trận đánh về vậy. Ông Hai là 1 người nông bình thường như bao lão nông khác. Ông mang trong mình phẩm chất tốt đẹp của người nông dân gắn bó với làng quê, đất nước. Nổi bật lên là lòng yêu Tổ Quốc, thuỷ chung với k/c, CM. Ông là h/a tiêu biểu của người nông dân trong cuộc k/c chống Pháp. 3. Kết bài: “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc: Cách dẫn dắt tự nhiên khéo léo, kịch tính phát triển cao, cách thắt nút cà cởi nút hết sức tức tự nhiên, cách xây dựng tình huống bất ngờ. Đặc sắc nhất là NT khắc hoạ tâm lí nv phù hợp. Đó là tâm lí của người nông dân qua nv ông Hai. Truyện ca ngợi t/y làng hoà quyện vào tình yêu nước, yêu k/c. Đó là t/y Tổ Quốc, sự gắn bó chung thuỷ với k/c của người nông dân trong cuộc k/c chống Pháp. Đọc truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, 13
  14. em thêm yêu mến cảm phục người nông dân. Những phẩm chất của nv ông Hai đã bồi dưỡng cho em t/y Tổ Quốc, sự gắn bó tha thiết với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. ĐỀ BÀI SỐ 7: Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận. 1. Mở bài: * Cách 1: Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới”. Trước CM 1945 với các tập thơ nổi tiếng như “ Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca” là sự cảm nhận cô đơn nhỏ bé, bơ vơ qua hình ảnh “cành củi khô” hay những cánh bèo dập dếnh trôi nổi. Nhưng sau CM tháng 8 ông có một sự đổi thay rất kì diệu. Ông mau chóng hoà nhập vào cuộc k/c vĩ đại của dân tộc. Ánh sáng cuộc sống mới đem lại cho nhà thơ một cái nhìn tươi trẻ, ấm áp, tràn đầy niêm tin và hạnh phúc. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” là một minh chứng được sáng tác năm 1958 nhân dịp đi thực tế ở vùng biển Quảng Ninh, phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng cnxh. Cả bài thơ là một bức tranh TN tráng lệ ca ngợi vẻ đẹp của biển quê hương và là bài ca hào hùng về những con người lao động phấn khởi, hăng say của cuộc đời làm chủ. * Cách 2: Trước CM tháng 8, thơ Huy Cận thường mang nỗi sầu thiên cố “buồn não nhưng lòng chẳng thấy nguôi” thì sau CM thơ ông có một bước chuyển biến mới từ cảm hứng, cách nhìn. Đọc thơ ông ta thấy tràn ngập một niềm vui của những con người làm chủ cuộc sống mới. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ như thế. Bài thơ được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai – Quảng Ninh, in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của vùng biển quê hương và phản ánh khí thế lao động hăng say, sôi nổi của người ngư dân trong buổi đầu xây dựng cuộc sống mới. 2. Thân bài: * Khái quát: Cảm hứng bao trùm cả bài thơ là cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian từ hoàng hôn đến đêm trăng tới lúc bình minh trong cái nhìn lạc quan yêu đời của những con người thực sự làm chủ cuộc sống mới. Với bút pháp lãng mạn bay bổng, tác giả đã vẽ nên một bức tranh TN tươi tắn, tráng lệ và ca ngợi khí thế hào hùng của ngư dân trong buổi đầu làm chủ cuộc sống mới. Luận điểm 1: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi. + Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh hoàng hôn. Nếu như trong thơ cổ hoàng hôn là những ngày tàn gợi cảm giác buồn, lạnh lẽo thì ở đây hoàng hôn lại bắt đầu bằng hình ảnh mặt trời: Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Cách nhìn của nhà thơ thật độc đáo, càng độc đáo hơn khi liên tưởng so sánh mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang từ từ lặn xuống biển. Phép so sánh ấy cho ta thấy hoàng hôn ở đây không hề ảm đạm mà vô cùng ấm áp, tràn đầy sức sống. Hoàng hôn buông xuống nhường chỗ cho màn đêm. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc bóng tối mịt mùng. Phép nhân hoá “sóng cài then, đêm sập cửa” được vận dụng độc đáo. Những con sóng chạy qua chạy lại giống như chiếc then cài vào màn đêm. Cảm hứng vũ trụ được kết hợp với các ĐT “cài, sập”diễn tả cảnh biển đêm âm u, huyền bí như một sự thr thách con người. Hai câu thơ miêu tả cảnh hoàng hôn thật kì vĩ, tráng lệ mà tĩnh lăng. + Với TN một ngày đã khép lại, mọi vật đi vào trạng thái nghỉ ngơi yên tĩnh, còn với con người lại là sự khởi đầu của công cuộc lao động: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Từ lại” cho ta thấy đây là công việc thường ngày của ngư dân, khảng định nhịp điệu lao động đã ổn định đi vào nề nếp. Khúc hát lên đường vang động, tràn ngập niềm vui phơi phới. Gió thổi mạnh, cánh buồm no gió. Câu thơ sử dụng NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Từ cảm nhận tiếng hát bằng thính giác đưa ta sang cảm nhận bằng thị giác về câu hát căng buồm”. Câu thơ 14
  15. gợi nên khung cảnh hùng vĩ. Tiếng hát, gió khơi, buồm” là 3 chi tiết mang t/c tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say, niềm tin yêu cuộc sống của những con người làm chủ. Hai câu thơ sau đối lập hai câu thơ đầu. Vũ trụ nghỉ ngơi – con người hoạt động; TN tĩnh lặng – con người náo nức, khẩn trương; Cảnh đoàn thuyền ra khơi trong ngày tàn – gợi ra sự ấm áp. + Đoàn thuyền ra khơi trong tiếng hát lạc quan phơi phới: “ Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”. Âm thanh của những câu hát vang lên làm nổi bật tâm hồn hiền hậu người dân chài. Đó là tiếng hát cầu mong sóng yên biển lặng. Niềm mong ước ấy phản ánh niềm lạc quan của ngư dân đã từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào cùng bút pháp LM bay bổng, kết hợp với các từ cá bạc, đoàn thoi, dệt biển”là những h/a so sánh, ẩn dụ, nhân hoá đem đến nhiều liên tưởng thú vị về vẻ đẹp của lao động. Luận điểm 2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm tuyệt đẹp, + Nếu ra khơi trong khung cảnh TN tuyệt đẹp thì cảnh đánh cá đêm trăng cũng đẹp biết chừng nào: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”“. Với bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã tả cảnh đánh cá trên biển một đêm trăng bằng bao hình ảnh nhân hoá tuyệt vời. Đoàn thuyền ra khơi có gió làm bánh lái, có ánh trăng làm buồm. Biển khơi như một trận địa khổng lồ “dàn đan thế trận” mà ngư dân là chiến sĩ, con thuyền và mái chèo là vũ khí. Chữ “lướt” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường. Âm điệu khổ thơ hào hùng, khoẻ khoắn diễn tả sức mạnh con người lao động trên con đường chinh phục và khám phá thiên nhiên. + Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp của biển quê hương: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Nhà thơ vận dụng sáng tạo câu thành ngữ “Chim thu nhụ đé”để miêu tả các loài cá quý hiếm, ngon nổi tiếng. Phép liệt kê, NT so sánh, ẩn dụ “như đoàn thoi” và NT phối sắc tuyệt đẹp. Bầy cá như những nàng tiên vũ hội rực rỡ. Cá song là một nét vẽ tài hoa: Vẩy cá đen hồng lấp lánh trên nước biển sóng sánh chan hoà ánh trăng. Hình ảnh “Cái đuôi quẫy trăng vàng choé” là một hình ảnh hùng vĩ, lộng lẫy của biển đêm: Những chiếc đuôi cá vẫy dưới làn nước lấp lánh ánh trăng, ánh sáng chói loá cả không gian. Câu thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Biển đêm không chỉ có tiếng sóng rì rầm, nhà thơ lại cảm nhận một âm thanh khác: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”. Tác giả sử dụng NT nhân hoá để cảm nhận tiếng thở của biển, của TN, của sự sống mơ mộng lãng mạn. Đây là âm thanh của thuỷ triều và gió tạo thành. ánh sao như lung linh trên mặt nước, biển tĩnh lặng với những gợn sóng phập phồng trong lồng ngực. Câu thơ huyền ảo như đang đưa người đọc vào cõi mộng. Hẳn phải có 1 t/y biển sâu nặng mới viết được những vần thơ tuyệt bút đến thế. + Trong cảm xúc vui sướng nhìn đàn cá “dệt lưới”, người dân chài cất cao tiếng hát ngọt ngào: “ Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Lần thứ hai tiếng hát vang xa trên biển. Tiếng hát, tiếng gõ thuyền đuổi cá hoà vào với tiếng sóng biển lấp lánh ánh trăng vàng tan ra vỗ vào mạn thuyền. Biển hào phóng, bao dung, chở 15
  16. che như lòng mẹ. Biển cho cá, tôm và biết bao hải sản quý hiếm, nuôi sống người dân chài từ bao đời nay. Cách so sánh độc đáo ấy nói lên niềm tự hào, biết ơn hoà quyện trong tiếng hát ngợi ca ấm áp, chan chứa nghĩa tình. + Một đêm trôi qua nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say: “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. ánh sao đã thưa và mờ dần nhưng ngư dân vẫn hăng say kéo lưới, những cơ thể rắn chắc, những cánh tay khoẻ mạnh đang “ kéo xoăn tay”. Đây là hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khoẻ và đẹp. “Chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ đầy độc đáo, gợi tả được mùa cá. Những con cá mắc vào lưới được so sánh như những chùm quả lủng lẳng thật thích mắt. Khoang thuyền đầy ắp màu vàng của đuôi cá “loé rạng đông”. Một lần nữa ta thấy NT miêu tả màu sắc của nhà thơ thật điêu luyện. Màu bạc” của vẩy cá, màu vàng của của đuôi cá lấp lánh dưới ánh rạng đông. Luận điểm 3: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong ánh bình minh rực rỡ. + Nếu đoàn thuyền thuyền ra khơi trong cảnh hoàng hôn ấm áp thì nay đoàn thuyền trở về trong buổi sáng bình minh rực rỡ. Niềm vui phơi phới của người dân chài được nhân lên gấp bội. Lần thứ 3, tiếng hát của họ vang lên: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Vẫn là khúc tráng ca hăng say lao động tạo cảm giác tuần hoàn, đó là tiếng hát thắng lợi hân hoan. Cảnh rạng đông nhô dần lên, ánh sáng chan hoà một màu rực rỡ bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” là 1 h/a nhân hoá tuyệt đẹp tạo ra ấn tượng phi thường, lãng mạn bay bổng: Đoàn thuyền phóng như bay về bến như như muốn giành lấy TG, chạy đua với TG trở về cho kịp trời sáng. Con người trong tư thế chủ động và chiến thắng bởi trong cuộc chạy đua này, con người đã về đích trước. Nếu như ở khổ đầu, mặt trời xuống biển để thử thách con người thì ở giờ đây lại nhô lên để chứng kiến thành quả lao động của họ sau một đêm miệt mài. Câu thơ :Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là h/a hoán dụ, ẩn dụ đầy sáng tạo. Mắt cá ánh lên phô ra vẻ đẹp rực rỡ dưới ánh bình minh gửi gắm mơ ước về cuộc sống ấm no hạnh phúc của người ngư dân vùng biển. Cả bài thơ là một bức tranh lung linh mang âm hưởng của khúc tráng ca lao động. Đặc biệt câu hát đã trở thành âm hưởng chủ đạo của toàn bài. Câu hát đó thổi vào bài thơ một ngọn gió tin yêu cuộc sống với một chất men say lãng mạn – Một khúc ca phơi phới, lạc quan yêu đời. 3. Kết bài: Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận sau CM T8. Với âm điệu ngọt ngào, bút pháp lãng mạn bay bổng, phép liên tưởng kì thú, cách gieo vần linh hoạt, âm điệu khoẻ khoắn; NT so sánh, ẩn dụ, nhân hoá được kết hợp tài hoa. Bài thơ là khúc ca của người lao động trong khung cảnh TN rộng lớn, kì vĩ, rộng lớn và tráng lệ. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ cuộc đời với những phẩm chất đáng quí, đáng trân trọng: Cần cù, sáng tạo, dũng cảm, chủ động và tinh thần lạc qua yêu đời. Đọc bài thơ, ta càng thêm yêu cuộc sống mới, yêu thêm vẻ đẹp TN của quê hương, đất nước mình. Em hứa sẽ cố gắng học tập và tu dưỡng để sau này góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp./. 16