Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Phùng Đức Nguyên

doc 25 trang thaodu 5790
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Phùng Đức Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_chu.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Phùng Đức Nguyên

  1. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ĐỀ TÀI MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Trãi qua hơn mười ba năm công tác trong ngành giáo dục, bản thân tôi từng ngày từng giờ được trau dồi hơn về chuyên môn nghiệp vụ, cũng như công tác chủ nhiệm thông qua quá trình học hỏi đồng nghiệp, tự nổ lực của bản thân. Từng ấy năm công tác, cũng là từng ấy năm tôi vinh dự được Ban giám hiệu nhà trường tin tưởng giao cho công tác chủ nhiệm lớp, từ lớp 6 đến lớp 9. Những trăn trở, băn khoăn luôn hiện hữu trong tâm trí, hành động của tôi, là phải đưa ra những biện pháp, cụ thể hóa bằng việc làm, áp dụng làm sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh để làm cho lớp chủ nhiệm của mình ngày càng đi lên về mọi mặt học tập, rèn luyện, hoạt động phong trào. Nghĩ là nghĩ như thế, quyết tâm là quyết tâm như thế, nhưng khi bắt tay vào công việc thì thật là không đơn giản chút nào. Đặc biệt hơn là trong giai đoạn hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ tri thức và phẩm chất đạo đức ngày càng cao. Đây là trách nhiệm hết sức to lớn đối với ngành giáo dục, và một phần công sức không nhỏ của đội ngũ nhà giáo làm công tác GVCN lớp. Đồng thời, các tệ nạn xã hội, những thói hư tật xấu ngày càng len lỏi sâu hơn vào các tầng lớp thanh thiếu niên, trong đó đối tượng chịu tác động nhiều chính là các em học sinh. Bên cạnh đó, sự thiếu quan tâm của gia đình đối với các em là một trong những nguyên nhân chính đưa các em đến với các tệ nạn xã hội, lười biếng trong học tập, suy thoái về đạo đức, lối sống Những khó khăn, vất vả trên chính là những thách thức vô cùng to lớn đã và đang đặt ra đối với vai trò của người GVCN lớp hiện nay. Cảm nhận được những khó khăn ấy, bản thân tôi đã mạnh dạn đưa ra những kinh nghiệm mà mình đã được trải qua, học hỏi, trau dồi thông qua đề tài “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”. Mặc dù vẫn biết, đây là chủ đề không còn xa lạ đối với đội ngũ mỗi thầy cô giáo. II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 1. Mục tiêu của đề tài Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở Trường THCS Phan Bội Châu. 2. Nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về vai trò của GVCN lớp, tâm lí lứa tuổi học sinh THCS, từ đó áp dụng các biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm. III. Đối tượng nghiên cứu Một số kinh nghiệm trong công tác chủ chủ nhiệm lớp được áp dụng trong nhà trường THCS. IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Công tác chủ nhiệm tại lớp 7A2 và công tác chủ nhiệm tại một số lớp thuộc trường THCS Phan Bội Châu, huyện Krông Búk, tỉnh Đăk Lăk. V. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Trang 1
  2. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, dựa trên cơ sở lí luận về vai trò của người GVCN lớp, tâm lí lứa tuổi học sinh THCS được thu thập từ những thông tin trên các trang web 2. Phương pháp điều tra cơ bản - Điều tra thực trạng công tác chủ nhiệm tại trường THCS Phan Bội Châu, nơi tôi đang công tác. - Tham khảo kinh nghiệm của một số đồng nghiệp. - Theo dõi diễn biến tâm sinh lí của các em học sinh trong suốt thời gian gần một năm học. 3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm Dựa vào theo dõi trong quá trình giảng dạy, chủ nhiệm trong thời gian gần 10 năm qua, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để đưa ra những biện pháp, giải pháp nhằm áp dụng sao cho phù hợp nhất. B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1. Vai trò của người GVCN lớp Đối với giáo dục phổ thông, người GVCN lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GVCN trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. GVCN lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, GVCN còn là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục, Có thể nói vai trò xã hội của người GVCN trở nên lớn hơn nhiều so với chức năng của người giảng dạy bộ môn. GVCN là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh quản lý toàn diện học sinh lớp mình phụ trách. Điều này đòi hỏi GVCN vừa quản lý tập thể học sinh, vừa quan tâm đến từng cá nhân trong lớp về mọi phương diện: học tập, tu dưỡng, lao động và sinh hoạt tập thể. GVCN lớp là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc lớp mình phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường. GVCN là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh trong tập thể lớp. GVCN lớp là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai chiều: nhà trường – tập thể học sinh, tập thể học sinh – xã hội. Như vậy, một mặt GVCN lớp vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa đại diện cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác, GVCN lớp phải làm cho quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn. GVCN xây dựng, tổ chức tập thể lớp mình thành đơn vị vững mạnh, tổ chức điều khiển, lãnh đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. GVCN luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh. 2. Các đặc điểm tâm sinh lý cơ bản ở học sinh THCS Học sinh THCS có tuổi đời ứng với tuổi thiếu niên, do vậy các em còn có tên gọi khác là thiếu niên. Cách đây khoảng 20 năm, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, học sinh đầu bậc THCS, về phát triển cơ thể không có gì khác so với trẻ cuối bậc Tiểu học; Các Trang 2
  3. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp em chỉ “lớn vọt” lên ở các năm tiếp theo. Nhưng đến thời điểm hiện nay, quy luật trên không còn tồn tại trong số đông trẻ em Việt Nam cả ở thành phố lẫn nông thôn, bởi lẽ, tuổi dậy thì của các em đã được “kéo xuống” ở đầu bậc THCS (em trai thường chậm hơn em gái 2 năm). Với hiện tượng dậy thì - một hiện tượng sinh lí trong phát triển, nhưng do liên quan đến biến đổi nội tiết nên cũng dễ dẫn đến các rối loạn, biến đổi “giao thời” trong đời sống tâm sinh lí của các em. Đối với tuổi thiếu niên, có một số các rối loạn tâm lý mang tính chất đặc trưng. Nếu như có rối loạn phát triển tâm lý từ trước, thì đến tuổi thiếu niên, chúng cũng sẽ có những biến đổi nhất định. Tuổi thiếu niên ở trong khoảng từ 11- 14 tuổi (2 năm). Đây là thời gian xảy ra rất nhiều các biến đổi ở các mức độ khác nhau trong cơ thể trẻ; sự hình thành nhân cách được hoàn thiện. Ở góc độ nội tiết, sự hoạt hóa của tuyến yên, của các tuyến sinh dục, của tuyến thượng thận được tăng cường, dẫn đến sự tăng trưởng mạnh về chiều cao, trọng lượng cơ thể, các dấu hiệu sinh dục phụ xuất hiện. Tuy nhiên, người lớn (cha mẹ, thầy, cô giáo, người nuôi dưỡng trẻ) phải ý thức rằng, những phát triển trong cơ thể trẻ lúc này diễn ra chưa đồng bộ và với diện mạo “to cao” bên ngoài như vậy, các em vẫn chưa là người lớn thực thụ về tất cả các chức năng trong cơ thể. Về trí tuệ, ở giai đoạn lứa tuổi này, tiếp tục diễn ra sự phát triển của trí nhớ, đặc biệt trí nhớ ý nghĩa, chú ý có chủ định, và vận động, tư duy lôgic và trừu tượng cũng phát triển mạnh. Trẻ - thiếu niên hoàn toàn có khả năng tiếp thu các khái niệm Toán học, Vật lý học và Triết học trừu tượng. Mặt khác, sự thay đổi trong lĩnh vực động cơ của nhân cách cũng diễn ra cùng với động cơ học tập, nhu cầu trong giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá trị môi trường của thiếu niên cũng bắt đầu diễn ra. Trong quan hệ với cha mẹ, xuất hiện các dấu hiệu từ phản ứng, muốn thoát khỏi sự áp đặt quan điểm của người lớn về các vấn đề khác nhau đến việc bỏ trốn khỏi nhà. Liên quan tới việc hình thành tính tích cực nhân cách trong giai đoạn này là việc đẩy nhanh tính chất mạnh mẽ trong hình thành các đặc điểm nhân cách ở trẻ. Chính sự đẩy nhanh tốc độ cả về cơ thể lẫn nhân cách là bước chuyển từ trạng thái trẻ em sang người lớn. Sự phụ thuộc vào cha mẹ và người lớn dần phải được thay thế định hướng cho trẻ hướng tới tương lai của chính bản thân nó. Sự chuyển dịch này đưa ra yêu cầu khá cao không chỉ đối với hệ thần kinh trung ương, mà cả hệ thống giá trị, chuẩn mực, niềm tin vốn đã được hình thành trước đó ở trẻ. Với những trẻ thiểu năng trí tuệ mức nhẹ, vào tuổi thiếu niên, việc định hướng cuộc sống, các kỹ năng tự phục vụ và lao động được cải thiện. Tuy nhiên, một số chức năng vào lúc này cũng không thể được bù trừ, chẳng hạn như thoát khỏi ức chế tình dục, xâm kích hay thích tham gia vào các nhóm thiếu niên lịch lãm với tư cách là thành viên. Với trẻ phát triển theo kiểu nhi tính, chậm phát triển tâm lý có thể được bù trừ, nhưng nhân cách, cũng như động cơ vẫn không thoát khỏi nhi tính. Còn với trẻ thiếu niên, nhi tính do căn nguyên tâm sinh lý thì chậm phát triển tốc độ chín muồi sinh dục vẫn diễn ra. Ở các thiếu niên có tổn thương thực thể hệ thần kinh trung ương các rối loạn trí tuệ có thể được phục hồi tương đối, nhưng hiện tượng mệt mỏi và rối loạn hành vi lại tăng cường. Nếu trẻ bị động kinh từ nhỏ, và không được điều trị kịp thời, thì vào tuổi thiếu niên, các khiếm khuyết trí tuệ, sự thay đổi nhân cách, biểu hiện sự dữ tợn, càng tăng hơn. Do vậy, ở tuổi thiếu niên, cơ chế bù trừ chức năng thường hình thành chưa đầy đủ, nên dễ dẫn đến các hành vi lệch lạc. Song nếu được quan tâm đầy đủ và được giáo dục tế nhị thì mọi lệch lạc đều có thể được điều chỉnh và đứa trẻ hoàn toàn có cơ hội phát triển bình thường ở những giai đoạn phát triển tiếp theo. II. Thực trạng 1. Thực trạng chung Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình ít con, kinh tế Trang 3
  4. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Sự phối kết hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho GVCN trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều cơ sở kinh doanh chỉ chú ý đến lợi nhuận. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực thu hút học sinh. Vì thế, hiện tượng trốn tiết, giấu tiền để chơi game là điều không tránh khỏi. Không những thế, hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực khôn lường. Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với GVCN trong 3 buổi họp phụ huynh trong một năm học. còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không nhiều GVCN thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít, chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình , trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ GVCN. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều GVCN tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung. 2. Thực trạng nghiên cứu: Năm học 2018 - 2019, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công phụ trách công tác chủ nhiệm lớp 7A2. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, bản thân tôi có một số nhận xét như sau: Trang 4
  5. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 2.1. Thuận lợi - khó khăn a. Thuận lợi - Được sự quan tâm về mọi mặt của Phòng GD & ĐT huyện Krông Búk cũng như sự lãnh chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ, BGH nhà trường, các cấp đã động viên tinh thần dạy - học, cũng như rèn luyện của tập thể thầy cô và các em học sinh. - 100% các em học sinh trong lớp là dân tộc Kinh nên khả năng tiếp thu kiến thức, nhận thức có thể sẽ thuận lợi hơn. - Hầu hết các em đang sinh sống cùng gia đình tại địa phương, gần gũi với cha mẹ, người thân nên sẽ được quản lí chặt chẽ hơn. - Bản thân tôi cũng có một ít kinh nghiệm trong hơn 13 năm làm công tác giảng dạy - Đa số học sinh ngoan hiền, chú ý đến việc học tập, biết sửa đổi khi phạm sai lầm, chấp hành tốt nội quy trường, lớp. b. Khó khăn * Về phía nhà trường - Một số thầy cô chưa có sự quản lý chặt chẽ, nghiêm túc đối với học sinh trong tiết dạy nên dẫn đến các em có thể chán học, lười học, dễ phát sinh tiêu cực. * Về phía PH và HS - Phụ huynh học sinh thiếu thông tin về kiến thức xã hội, kiến thức nuôi dạy con, chưa tự giác, chủ động phối hợp với nhà trường hoặc GVCN trong việc quản lý con em mình, chỉ khi nào mời thì các bậc phụ huynh mới đến, đôi khi không đến. - Một số em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cha mẹ phải đi làm thuê, làm mướn suốt ngày nên chưa quan tâm đến việc học của các em. - Cũng có những học sinh là con của gia đình khá giả nhưng chưa có nề nếp và thói quen tốt trong gia đình. Họ phó mặc con cái cho nhà trường, cho giáo viên giáo dục. Nên học sinh chưa thực hiện đồng bộ những yêu cầu đặt ra. - Một số học sinh ngại lao động, thường xuyên đi học trễ, ăn mặc có lúc chưa đúng theo nội qui nhà trường, chưa chú ý lắng nghe thầy cô giảng bài, nghỉ học không lý do thỉnh thoảng chửi thề, nói tục, đánh nhau Một bộ phận không nhỏ các em còn ham chơi hơn ham học. - Các em mới chuyển từ lớp năm lên lớp sáu, môi trường mới còn bỡ ngỡ, lạ bạn, lạ thầy. Ở cấp tiểu học thầy, cô chủ nhiệm theo dõi việc học tập, nề nếp suốt buổi học, còn đối với học sinh THCS giáo viên chủ nhiệm theo dõi, bám lớp với số tiết ít hơn nhiều. Ngoài ra, trường THCS Phan Bội Châu đóng trên địa bàn tương đối phức tạp về các tệ nạn xã hội (bài bạc, hút chích, ), đặc biệt trong thời gian gần đây, các nhóm đối tượng này hoạt động liều lĩnh hơn, đã rủ rê, lôi kéo một lượng lớn thanh thiếu niên hư hỏng, trong đó có cả học sinh. Bên cạnh đó, một số cơ sở kinh doanh vì lợi nhuận mà đã có những việc làm gây tác động tiêu cực đến một bộ phận không nhỏ học sinh. Tóm lại, trước những thực trạng trên thì bản thân là một GVCN tôi luôn trăn trở, suy nghĩ với phương pháp quản lý của mình như thế nào để lớp chủ nhiệm ngày càng tiến bộ hơn, lớp luôn đạt là Chi đội mạnh, học sinh của lớp đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập, giảm đi những hành vi sai lệch vi phạm nội qui trường, lớp, bản thân các em luôn thấy an toàn và an tâm trong học tập, kết quả học tập ngày càng tiến bộ? Với những trăn trở đó tôi đã đưa ra nhiều giải pháp để hoàn thành được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với lãnh đạo ngành cũng như lương tâm của một nhà giáo, một sứ mệnh mà xã hội đã giao cho. Trang 5
  6. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 2.2. Thành công - hạn chế Là một giáo viên với tuổi nghề hơn 13 năm công tác, bản thân tôi cũng trải nghiệm được nhiều điều nơi trường lớp, đặc biệt là những trải nghiệm trong việc truyền đạt kiến thức cho các em học sinh, giáo dục đạo đức để hướng tới giáo dục toàn diện. Bản thân luôn trau dồi chuyên môn, học hỏi đồng nghiệp, mạnh dạn áp dụng một số phương pháp mới nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy - học, giáo dục đạo đức cho các em. Vì vậy, việc áp dụng “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp” sẽ là một trong những giải pháp thiết thực hơn. “Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp” này tôi đã thực hiện tương đối thành công ở các khóa trước trong một vài năm trở lại đây, đã hỗ trợ đắc lực cho tôi trong công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên, với tất cả những biện pháp, giải pháp mà tôi đưa ra sau đây chưa chắc sẽ phù hợp hoàn toàn với đối tượng là các em học sinh lớp 6. Và chắc chắn một điều là không thể tránh khỏi những thiếu sót. 2.3. Mặt mạnh - mặt yếu * Mặt mạnh: Bản thân là giáo viên chủ nhiệm luôn ý thức vai trò quan trọng của việc dạy người thông qua công tác chủ nhiệm, đầu tư thời gian nhất định cho công tác này. Đa số học sinh hưởng ứng và thực hiện tôt nhiệm vụ đề ra. Sau một thời gian áp dụng một số biện pháp, giải pháp trong công tác chủ nhiệm lớp, bản thân tôi nhận thấy rằng phương pháp này sẽ phù hợp và thành công hơn đối với đối tượng học sinh lớp lớn (lớp 8, lớp 9 ) vì lúc này khả năng tư duy, nhận thức vấn đề của các em đã dần hình thành và nâng cao. * Mặt yếu: Giáo viên chủ nhiệm cũng còn những lúc chưa thực sự sát sao được với các em, công tác liên hệ, quan hệ giữa các môi trường giáo dục chưa được chặt chẽ và thường xuyên. Một bộ phận học sinh với khả năng giao tiếp, sự khép kín trong các hoạt động dẫn đến yếu điểm trong công tác chủ nhiệm. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Với sự bùng nổ của các yếu tố, các nguồn thông tin, phương tiện thông tin ngày càng phát triển tác động không nhỏ đến sự phát triển đi lên của đời sống xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó một bộ phận thế hệ trẻ bị tác động sao nhãng đến việc học tập và rèn luyện. Một số gia đình bươn chải với cuộc sống khó khăn đầy biền động đã không thường xuyên quan tâm đến con em. Sự phối hợp, trách nhiệm của các cơ quan có trách nhiệm đôi lúc chưa được chặt chẽ là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ tác động xấu đến thế hệ của các em. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng công tác chủ nhiệm lớp Thông qua lý luận và thực tiễn, thì hiệu quả của công tác chủ nhiệm phụ thuộc rất lớn vào năng lực của người làm công tác chủ nhiệm. Thế nhưng, số giáo viên có kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm ở hầu hết các đơn vị trường học còn ít, không đủ trang trải cho các lớp học. Vì thế, công tác chủ nhiệm có phần hạn chế, hiệu quả giáo dục học sinh chưa cao trong lúc tình trạng đạo đức học sinh có một số biểu hiện xuống cấp đáng lo ngại. Đã biết, thế hệ trẻ luôn luôn hiếu động, nhạy bén trước cái lạ, cái mới Thế nhưng, không ít giáo viên làm công tác chủ nhiệm vẫn còn thụ động, chạy theo đuôi các vụ việc. Phần lớn các công việc của giáo viên lệ thuộc quá nhiều ở sự nhắc nhở, chỉ bảo của ban giám hiệu nhà trường. Họ còn trông chờ, ỷ lại, chưa thể hiện sự chủ động của mình trong công tác Trang 6
  7. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp chủ nhiệm. Ban giám hiệu nhà trường không thể làm thay phần việc của giáo viên chủ nhiệm, và cũng không thể lúc nào cũng nắm bắt kịp thời tình hình cụ thể của từng lớp, của từng đối tượng học sinh. Thực trạng đó đã dẫn đến một số tồn tại, khuyết điểm phổ biến như: không kịp thời ngăn chặn các biểu hiện xấu của học sinh khi vụ việc còn trong bọc, cách thức xử lý học sinh vi phạm cũng khá ngẫu hứng, đôi khi không đúng phương pháp sư phạm và thiếu tính chuyên nghiệp, dễ vi phạm đạo đức nhà giáo, xúc phạm nhân phẩm học sinh, đồng thời gây bực dọc đối với phụ huynh. Việc vận dụng yếu tố tâm lý trong giáo dục hành vi học sinh của giáo viên còn khập khểnh, khô khan, nghèo nàn, đơn điệu, không hài hòa giữa tình và lý, thậm chí mang nặng tính áp lực, răn đe buộc học sinh vâng lời tức thời, không làm cho học sinh tâm phục, khẩu phục. Không kịp thời, còn nóng vội và thiếu kinh nghiệm khi xử lý các vụ việc, thiếu bao dung cần thiết mà thiên về xử phạt. Chưa thấu hiểu hết nguyên nhân sâu xa dẫn đến những tâm sự riêng của học sinh, chưa cùng các em chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn, bế tắc, vướng mắc một cách chân tình, thực sự. Chưa tin tưởng, mạnh dạn bố trí, giao việc để tạo điều kiện thuận lợi, qua đó đánh giá, động viên, khích lệ các em phấn đấu trở thành học sinh tốt. Trong công tác kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo viên, ban giám hiệu thỉnh thoảng phát hiện ra giáo viên còn qua loa trong việc nắm bắt tình hình học sinh, buộc phải điều chỉnh, bổ sung. Nhiều thông tin về học sinh không cụ thể, không thực chất. Còn áp đặt thông tin, sao chép sử dụng lại thông tin cũ của năm học trước - không còn phù hợp. Khả năng giao tiếp, phối hợp của giáo viên chủ nhiệm với các thành viên khác trong nhà trường, với đoàn - đội, phụ huynh, chính quyền còn hạn chế dẫn đến phương pháp, biện pháp giáo dục học sinh không đồng bộ gây mất niềm tin ở học sinh. Trong quá trình chủ nhiệm, khả năng dự báo của một số giáo viên chưa tốt, chưa cụ thể hóa các nhiệm vụ, quy định trong Điều lệ thành chương trình, kế hoạch, công việc hành động cụ thể sao cho phù hợp tình hình thực tế của lớp, vì thế công tác chủ nhiệm kém phần phong phú. Nội dung, hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt lớp thiếu đầu tư, nghèo nàn, nặng nề hành chính, không thu hút lôi cuốn học sinh hiệu quả giáo dục kém. Trong các buổi sinh hoạt tập thể lớp, ngoại khóa chưa thấy giáo viên chủ động tổ chức cho các em tự thảo luận, tranh luận về một chủ đề thiết thực nào đó để giáo dục, như từ những mẫu chuyện người thật, việc thật có tính thời sự, gần gũi giúp các em nhận thức hành vi đúng - hành vi sai, chân - thiện - mỹ, việc lợi - việc hại. Thông qua đó giáo dục kỹ năng sống, lý tưởng sống cho các em. Tóm lại, một số giáo viên chưa tạo điều kiện thuận lợi để các em tự giác, chủ động, tích cực gây dựng niềm tin, động lực để có ý thức quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trở thành người tốt. Phải khẳng định rằng, thực trạng công tác chủ nhiệm những năm qua chưa linh hoạt, sáng tạo, thiếu đầu tư. Công tác chủ nhiệm của giáo viên chưa xứng tầm với vai trò của nó đối với việc hình thành nhân cách học sinh trong bối cảnh đổi mới của giáo dục hiện nay. Thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến yếu kém, hạn chế nói trên chính là trình độ nghiệp vụ còn yếu và nhiệt huyết chưa cao của một bộ phận giáo viên làm công tác chủ nhiệm. Mặt khác, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh chậm đổi mới, lạc hậu và có phần bế tắc. Trong khi đó, diễn biến tâm sinh lý của học sinh ngày càng phức tạp, nhất là trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế và thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại trường THCS Phan Bội Châu, nơi tôi đang công tác, có không ít thầy cô làm công tác chủ nhiệm rất tốt, cảm hóa được nhiều thế hệ học trò chưa ngoan, từ lớp vi yếu trở thành lớp có phong trào thi đua đạt thứ hạng cao trong nhà trường. Cụ thể như thầy Hồ Viết Tường, thầy Lê Huy, thầy Trần Mạnh Lợi, cô Nguyễn Thị Ngọc Hà, thầy Nguyễn Văn Sáng Đây cũng chính là cơ hội để bản thân tôi được trau dồi, học hỏi nhiều hơn. III. Giải pháp, biện pháp: Trang 7
  8. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 1.1. Đối với giáo viên: - Phần nào giúp GV phát huy năng lực của mình trong công tác chủ nhiệm lớp; - Đảm bảo sự gắn kết giữa thầy với trò, giữa đồng nghiệp với nhau; - Đảm bảo tính khoa học và chặt chẽ hơn trong công tác quản lý lớp; - Giúp GVCN thể hiện xứng đáng vai trò là “cầu nối” giữa nhà trường với tập thể lớp, giữa nhà trường với PHHS 1.2. Đối với học sinh: - Góp phần xây dựng nhu cầu nhận thức, nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh trong học tập, rèn luyện; thấy được vai trò của bản thân mình trong việc xây dựng tập thể lớp, tập thể nhà trường ngày thêm vững mạnh. - Hình thành nên khối đoàn kết trong tập thể lớp; - Nâng cao kĩ năng sống cho bản thân, sống đẹp - sống hay - sống có ích. 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 2.1. Xây dựng hình tượng, rèn luyện nhân cách của giáo viên Lao động của người giáo viên, lao động sư phạm là loại hình lao động đặc biệt; đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đang lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này không phải là vật vô tri, vô giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc mà là một con người rất nhạy cảm với những tác động của môi trường bên ngoài theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Như vậy, người giáo viên phải nâng cao toàn bộ phẩm chất của người giáo viên, tạo được hình tượng tốt đối với học sinh là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội như Mác đã nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục". Một là, người giáo viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức tác phong chuẩn mực, phải là người gương mẫu đi đầu trong công việc, lời nói phải đi đôi với việc làm, phải có sức khỏe tốt, năng nổ nhiệt tình. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, là một người có ích cho xã hội. Nói không với cái xấu, tội ác, thù hằn, hiềm khích, ghen tị đó là sự nêu gương để cho học sinh noi theo. Hai là, luôn luôn tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, làm sao để trở thành một kho tàng kiến thức để cho học sinh tìm hiểu và khai thác, chính điều này sẽ giúp giáo viên tiếp cận học sinh dễ dàng hơn và tìm hiểu tâm lý cũng như hoàn cảnh học sinh thuận lợi hơn. Ba là, GVCN phải có đức, điềm tĩnh, biết kiềm chế và kiên nhẫn, mới có thể lựa chọn dùng các phương pháp giáo dục đúng đắn, đừng thể hiện sự bực tức, có hành vi bạo lực là điều quan trọng, vì bạo lực sẽ đẻ ra bạo lực. Học sinh sẽ dùng hành vi đó để hành xử tiếp với người khác, hoặc ngay chính người GVCN sẽ bị học sinh hành xử lại như thế. Bốn là, sẵn lòng giúp đỡ các em khi có hoàn cảnh khó khăn. Sống với một trái tim tràn ngập tình yêu thương sẽ giúp cho học sinh cảm thấy được là có người luôn quan tâm đến các em, lo lắng cho các em, là một hậu phương tinh thần vững chắc để cho các em yêu đời và lạc quan hơn, có như thế sẽ là một động lực thúc đẩy các em học tập tốt hơn. Tóm lại, học sinh trong độ tuổi này phát triển, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện, trong đó, có những học sinh do hoàn cảnh xuất thân, cá tính đặc biệt, khó giáo dục nên gia đình phải hỗ trợ rất nhiều, giáo viên phải hết sức kiên nhẫn. Giáo viên đều phải là tấm gương tốt để các em thấy hành vi không đúng của mình, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh và xóa dần đi những lệch lạc của các em, các em sẽ chú tâm đến việc học nhiều hơn. Trang 8
  9. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 2.2. Tạo niềm tin đối với học sinh Ở lứa tuổi này các em đang còn rất vô tư, thật thà, đòi hỏi sự công bằng trong công việc, trong học tập cũng như trong cách đối xử. Do đó khi tiếp xúc với các em cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị, đảm bảo công bằng trong: cách cho điểm; đánh giá học lực, hạnh kiểm; xử lý những mâu thuẫn của học sinh với học sinh, mâu thuẫn giữa học sinh với giáo viên; đặc biệt người GVCN cần phải thực hiện đúng lời hứa Như vậy, công bằng, tế nhị, khéo léo sẽ tạo được niềm tin đối với các em, các em luôn tin tưởng đồng thuận theo định hướng, kế hoạch phương pháp của giáo viên. Từ đó, sẽ đưa phong trào của lớp tiến bộ, kết quả học tập của các em cao hơn, lớp đoàn kết, hăng hái tham gia các phong trào của nhà trường 2.3. Tiếp cận và tìm hiểu hoàn cảnh Khi đã tạo được niềm tin, hình tượng tốt đối với học sinh thì việc tiếp cận đối với học sinh rất dễ dàng. Với thuận lợi đó giáo viên tìm hiểu thêm được tâm tư, nguyện vọng của các em, biết các em cần gì? Muốn gì? Và làm gì? Tuy nhiên, trong giao tiếp sự ân cần và tế nhị của giáo viên sẽ không làm bộc phát được những bản chất xấu của các em, do đó để rõ hơn bản chất của các em giáo viên phải tiếp cận thêm phụ huynh học sinh và những người xung quanh các em, từ đó mới đưa ra những phương pháp hợp lý để giáo dục các em. Mục tiêu của phương pháp đặt ra trong năm học là tiếp cận những học sinh, gia đình học sinh yếu kém, học sinh cá biệt của lớp sau đó sẽ tiếp cận những đối tượng còn lại sao cho đến nửa đầu học kỳ II thì tất cả gia đình học sinh đều tiếp xúc đầy đủ. Thực tế trong lớp chủ nhiệm của tôi, có đến 07 em học sinh có hoàn cảnh gia đình thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, điều này đả ảnh hưởng phần nào đến việc học tập của các em mặc dù đã có sự hỗ trợ từ những chính sách của Đảng, nhà nước và của nhà trường. 2.4. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục đạt kết quả cao cần phải có kế hoạch sát đúng, phù hợp. Trong kế hoạch giáo dục phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục khác để đạt mục đích đề ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến mục đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao. - Xây dựng kế hoạch chủ nghiệm lớp đòi hỏi phải khoa học. Tránh tình trạng tùy hứng, tùy tiện, qua loa. Vì thế xây dựng kế hoạch chủ nhiệm là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả giáo dục học sinh: + Nắm được kế hoạch, chương trình giáo dục của nhà trường. + Nắm bắt tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm từ các thông tin nói trên GVCN dự kiến kế hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai đoạn. Sau đó, phác thảo kế hoạch chủ nhiệm thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian. + Sau khi phác thảo kế hoạch, GVCN cần tham khảo ý kiến đông nghiệp và đội tự quản lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết. - Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch: GVCN luôn có sự chỉ đạo tốt để đạt hiệu quả như mong muốn. Trang 9
  10. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp + Phổ biến rõ công tác cho tập thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch, biến kế hoạch thành chương trình hành động cụ thể. + Chuẩn bị các điều kiện vật chất và kỹ thuật để thực hiện các hoạt động. + Phối hợp với đội ngũ cán bộ tự quản thực hiện và điều hành công việc quản lý lớp. + Theo dõi kiểm tra và điều chỉnh hoạt động để các hoạt động đi đúng hướng. + Kết thúc một công việc cần tổng kết đánh giá phân tích ưu điểm và hạn chế rút kinh nghiệm. + Có sự khuyến khích tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực, thiếu cố gắng. + Triển khai các hoạt động tiếp theo. - Trong kế hoạch chủ nhiệm cần đặt ra các yêu cầu ngày càng cao nhưng vừa sức với học sinh để kích thích sự tiến bộ không ngừng. - GVCN khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ thể trong năm học. Thông qua Đại hội Chi đội đầu năm học, tập thể đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể như sau: Giỏi - Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Chất lượng SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL Học lực 05 11% 14 32% 18 41% 7 16% - - Hạnh kiểm 30 68% 14 32% - - - - - - + Đạt lớp Tiên tiến xuất sắc, Chi đội vững mạnh. + Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả xuất sắc trong tất cả các hoạt động được giao. + Duy trì sĩ số: đạt 100% * Sắp xếp chỗ ngồi: - Chú ý các em có nhu cầu về tai mắt. - Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao ngồi sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn; Tỉ lệ Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau). - Chú ý những em có cùng khuyết điểm. 2.5. Tổ chức bộ máy quản lý chặt chẽ, có khoa học Trong công tác quản lý lớp, việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp sẽ rèn luyện cho các em có khả năng lãnh đạo, mạnh dạn, linh hoạt, tự tin, rèn luyện kỹ năng sống cho các em, đồng thời đào tạo được một con người có bản lĩnh. Ngoài ra việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp còn giúp cho GVCN quản lý tất cả các mặt nề nếp, đạo đức, tác phong, học tập, vệ sinh khi giáo viên không đến lớp và nắm được tình hình của lớp hàng ngày chặt chẽ hơn. a. Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp Công việc này yêu cầu GVCN phải thường xuyên đến lớp vào đầu buổi học (sinh hoạt 15 phút đầu giờ), hoặc giờ ra chơi; cuối buổi học. Để rèn cho học sinh tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác. Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với GVCN. Trang 10
  11. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp Đầu tiên GVCN cần xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp: - Có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng gương mẫu. - Tính tình thẳng thắn, giám đấu tranh, giám phê bình. - Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động. - Có khả năng học tập tốt: Từ khá trở lên. - Được tập thể lớp tín nhiệm. - Có hoàn cảnh gia đình thuận lợi. Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần tìm hiểu thông qua GVCN cũ, bạn bè trong lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc giao một số công việc. Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cần bồi dưỡng cho các em có ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê bình. Bồi dưỡng cho các em có phương pháp quản lý lớp. Mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng tới, lập sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban một lần vào thứ 6 để thứ 7 có số liệu sinh hoạt và khen, chê kịp thời. Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cũng cần chú ý chọn đúng nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho đội ngũ cán bộ lớp. Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp theo sơ đồ sau: Lớp trưởng Lớp phó lao động Lớp phó học tập Lớp phó văn thể Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Tổ 4 Nhìn theo sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp gồm có: - Một lớp trưởng: chịu trách nhiệm chung tất cả các mặt của lớp. - Ba lớp phó: hỗ trợ lớp trưởng quản lý tổ chức các mặt hoạt động của lớp về: nề nếp học tập, lao động vệ sinh và văn hóa văn nghệ theo chức danh. - Cuối cùng lớp được chia làm 4 tổ học tập, mỗi tổ đều có một tổ trưởng, một tổ phó chịu trách nhiệm quản lý các mặt hoạt động của tổ. b. Cơ chế vận hành của tổ chức quản lý lớp Ngoài vai trò cán bộ lớp vừa nêu trên, đặc điểm nổi bật của cơ chế vận hành này là: Có thể thay đổi vị trí lãnh đạo của cán bộ lớp (nếu cán bộ lớp không thực hiện đúng chức năng của mình, do đặc thù các em là học sinh lớp 6). Hàng ngày, sau mỗi buổi học tất cả các nhóm trưởng các tổ báo cáo tình hình của tổ cho lớp trưởng và lớp trưởng sẽ tổng hợp các báo cáo đưa ra kết luận điểm mạnh, điểm yếu của lớp bằng văn bản nộp cho GVCN vào cuối tuần học để GVCN nắm được tình hình của lớp, tiếp theo lớp trưởng ghi nhận những tồn tại, yếu kém của lớp qua đầu buổi học sau sinh hoạt Trang 11
  12. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp cho lớp rút kinh nghiệm để cho các thành viên trong lớp tự điều chỉnh hành vi của mình ngày càng tiến bộ hơn. Đầu năm học, GVCN lớp sẽ hướng dẫn công tác lao động trực vệ sinh lớp: 02 học sinh/buổi (2 em ngồi kề nhau), sau đó bàn giao lại cho lớp phó lao động. Nếu trong tuần có học sinh vi phạm thì học sinh đó phải chịu trách nhiệm vệ sinh lớp vào tuần tiếp theo. Tóm lại, với cơ chế vận hành này, GVCN dễ nắm bắt được tình hình của lớp kịp thời, các em học sinh sẽ tự giác, nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình, giảm đi những hành vi vi phạm nội qui nhà trường, học sinh đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời sẽ rèn luyện cho các em là người có bản lĩnh, giải quyết được vấn đề khó khăn trong học tập và trong cuộc sống. Cụ thể trong gần một năm học qua nhờ việc chọn được đội ngũ cán bộ lớp: Lớp trưởng là em Vy ; lớp phó học tập là em Hải Anh; lớp phó lao động là em Quang Anh; lớp phó văn thể là em Huyền; một số cán sự bộ môn Nhờ đó tôi đã rất dễ dàng trong công tác chủ nhiệm, nhiều khi GVCN do một số lý do nào đó không trực tiếp quản lý đôn đốc các em nhưng các em vẫn hoàn thành tốt công việc học tập và rèn luyện. Đúng vậy quản lý lớp việc này phải dựa vào ban cán sự lớp và Ban chỉ huy chi đội. Điều quan trọng là phải chọn được những học sinh nhiệt tình và có năng lực công tác. Song dù có năng lực tốt thế nào thì các em vẫn đang ở lứa tuổi học trò, do đó GVCN phải giáo dục cho học sinh ý thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của người cán bộ lớp để các em thực sự có trách nhiệm, và nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với công tác được giao. Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng năm học và tính chất phát triển của tập thể học sinh. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa vào đặc điểm của quá trình phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản. Nên căn cứ vào 3 giai đoạn phát triển của tập thể lớp mà lựa chọn đội ngũ tự quản. Ví dụ: ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một lớp trưởng (thủ lĩnh) biết hi sinh, có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu, biết cảm hoá các bạn , không nhất thiết phải là học sinh học giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2 và 3 (khi tập thể đã phát triển) rất cần có “thủ lĩnh” năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động mọi mặt để cuốn hút các bạn. GVCN nên lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động ngoại khoá, văn hoá xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể, rèn luyện năng lực tự quản, thái độ, tình cảm và hành vi của học sinh. Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của học sinh trong lớp, biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện của mỗi tháng, mỗi học kì của từng năm học. GVCN chỉ là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá. Điều đó không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể lớp học mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động. Ngoài ra cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong ban cán sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”, biết phấn đấu vì tập thể và biết tự giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi không có GVCN. Sử dụng phiếu giao việc cũng là một hình thức tạo cho học sinh phát huy tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Trên cơ sở được giao việc học sinh phải tự lập kế hoạch và GVCN hẹn thời gian để duyệt. Nhìn chung được giao việc và nhất là được thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân chủ và tự quản các em rất phấn khởi và tất nhiên phải rút kinh nghiệm, khen chê kịp thời (trong một năm học, ban cán sự ít nhất được động viên, khen thưởng hai lần vào dịp sơ kết học kỳ I và tổng kết năm học). 2.6. Biết lắng nghe học sinh (là một nhà tư vấn tâm lý) Trang 12
  13. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp Cũng như đã trình bày ở trên, lứa tuổi này rất vô tư, thật thà ; hay thưa chuyện cho GVCN; có những thắc mắc không thể giải bày cùng ai; hoặc có những em môi trường sống trong gia đình khó khăn về kinh tế, thiếu tình thương, sự quan tâm với nhau trong gia đình, nên có khi các em tự hành động mang tính mâu thuẫn, ấu trĩ. Do đó GVCN phải tiếp cận với các em, tạo niềm tin đối với các em, để là chỗ dựa tinh thần để cho các em giãi bày tâm sự, giúp các em giải tỏa căng thẳng tâm lý, phải biết lắng nghe và kiềm chế xúc cảm của mình, cần có thái độ cởi mở khi học sinh thắc mắc, nhằm tạo bầu không khí tâm lý vui tươi, lành mạnh từ đó sẽ giúp giáo viên thuận lợi trong công tác giáo dục nhân cách học sinh. Để nắm bắt tâm tư của các em sâu hơn, khi kết thúc học kì I, tôi đã tạo điều kiện cho các em mạnh dạn chia sẻ những suy nghĩ của bản thân các em về chính các em, về tập thể lớp, về gia đình, về bạn bè và về cả GVCN lớp trên những trang giấy, mà điều này chỉ có GVCN cùng với em học sinh đó biết. Điều này đã giúp các em cởi mở hơn, tự tin hơn và làm cho tình cảm thầy trò ngày càng gắn kết hơn. 2.7. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc giáo viên bộ môn Trong học tập, học sinh sẽ gặp trở ngại về phương pháp giảng dạy của giáo viên, có những phương pháp cứng nhắc nhàm chán hay có những giáo viên quá nghiêm khắc tạo bầu không khí học tập nặng nề chỉ biết la ó, chửi mắng dẫn đến các em không hứng thú học tập dẫn đến tình trạng học sinh cúp tiết, trốn học. Việc dự giờ thăm lớp rất cần thiết, nó sẽ giúp cho GVCN nắm bắt được tình trạng không khí học tập của lớp, nguyên nhân vì sao học sinh không thích học, không hiểu bài, hay cúp tiết, trốn học và đưa ra giải pháp kịp thời giúp học sinh ổn định tâm lý, củng cố lại sự hứng thú học tập của các em, đồng thời giúp GVCN nắm được những thiếu sót trong phương pháp giảng dạy của GVBM và đóng góp chân thành, khéo léo, tế nhị sẽ giúp cho giáo viên bộ môn điều chỉnh lại phương pháp giảng dạy của mình, giúp học sinh hiểu bài, thích học bộ môn mình hơn. Ngoài ra, việc liên hệ thường xuyên với giáo viên bộ môn sẽ giúp cho GVCN nắm rõ được mức độ học tập, nề nếp của lớp hàng ngày. 2.8. Giáo dục học sinh cá biệt Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh nghịch ngợm, cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp GVCN có biện pháp giáo dục tốt sẽ là động lực để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh. + GVCN phải tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm hiểu điểm yếu của học sinh. + Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, gia đình. + GVCN không được nóng vội, uốn nắn dần, khi đưa ra tập thể lớp không nói nhiều, khi gặp riêng không được chì trích mà nhẹ nhàng tâm sự và phân tích. + Giao cho học sinh cá biệt một số việc và sau đó phải động viên khuyến khích kịp thời những việc em làm tốt. + Lập kế hoạch cho cán sự lớp để thành lập các đôi bạn cùng tiến. + Luôn thông báo kịp thời các thông tin về học sinh với gia đình và ngược lại. Như vậy đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng đối với những học sinh có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa nghiêm khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên, thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được Trang 13
  14. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp chia sẻ, cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn. Có những học sinh khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị kỷ luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm thầy giáo buồn Trong lớp, có em một số em học sinh cá biệt, hay nghịch phá, lười nhát trong học tập như: Việt, Tường, Đạt, Doanh Các em hay vi phạm về đồng phục, mất trật tự trong giờ học, thậm chí còn điều khiển xe máy, hút thuốc Tôi đã sắp xếp thời gian đến thăm gia đình các em học sinh này hoặc liên lạc trực tiếp qua điện thoại với phụ huynh Tìm hiểu nguyên nhân từng em, từ đó kết hợp thêm với gia đình trong việc giáo dục các em. Vì thế các em đã phần nào tiến bộ và tham gia rất tích cực vào các hoạt động của lớp. Một số em học sinh hay vi phạm nội quy, nề nếp. Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp cho mình hiểu học sinh hơn, tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp hằng ngày. Thi thoảng tôi lại cho học sinh viết cảm nhận về lớp mình. Có những điều thường ngày có khi khó nói ra được, nhưng khi viết cảm nhận hoặc ghi nhật kí lớp các em lại có dịp để giãi bày (đã đề cập ở phần trước). Qua những bài cảm nhận và những trang nhật ký lớp, thầy trò, bạn bè hiểu nhiều về nhau hơn và đương nhiên tập thể lớp ngày càng thêm gắn bó. 2.9. Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp GVCN nhất thiết phải dự giờ sinh hoạt lớp và xem trước kế hoạch sinh hoạt lớp của lớp trưởng và các tổ, GVCN lên một kế hoạch sinh hoạt riêng cho mình. Khi dự sinh hoạt lớp dưới sự điều khiển riêng của lớp trưởng, GVCN cần so sánh các số liệu với tuần trước, khen chê phải hợp lý, nhẹ nhàng để cho các em chấp nhận, không được chì trích. - Lớp trưởng điều khiển tiết sinh hoạt: Nhận xét tuần đọc kế hoạch tuần tới. - GVCN là người dự, góp ý kiến, nhận xét cuối buổi. - Các tổ trưởng lần lượt thông báo kết quả theo dõi và xếp loại của tổ, thành viên trong tổ nêu ý kiến. - Cờ đỏ nhận xét, đọc kế hoạch đội. - GVCN nhận xét, khen chê kịp thời, đưa ra ý kiến, nêu kế hoạch tuần tới. - Thư ký ghi biên bản: GVCN, lớp trưởng ký xác nhận. Tuy nhiên cách thức tổ chức các giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ kiểm điểm học sinh, hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc. Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành những hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho tương lai, sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ ước tuổi trẻ, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn minh trong cách tặng quà, Có thể thay những lời phê bình gay gắt bằng một câu chuyện nào đó. Chẳng hạn: để nhắc nhở các em việc đi học đầy đủ, nghỉ học phải viết giấy xin phép tôi kể câu chuyện Bác Hồ khi đã làm Chủ tịch nước, một lần phải đi công tác nước ngoài, Bác đã viết giấy xin phép nghỉ kỳ họp Quốc hội. Kết quả là những lớp tôi được phân công chủ nhiệm học sinh rất hạn chế nghỉ học và hầu như không có hiện tượng học sinh nghỉ học không xin phép. Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ sinh hoạt rõ ràng đỡ căng thẳng hơn và lại có hiệu quả. Trang 14
  15. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp Số lượng học sinh vi phạm giảm nhiều so với đầu năm. 2.10. Tổ chức mô hình “Đôi bạn cùng tiến” Phân công một học sinh kèm một học sinh. Mỗi ngày kiểm tra bài và bài tập của bạn, nhắc nhở bạn học bài, làm bài tập, thực hiện tốt nội quy của nhà trường và hướng dẫn các bạn làm những bài tập mà bạn không làm được Mỗi tuần báo cáo tình hình học tập của lớp vào tiết sinh hoạt lớp. 2.11. Tổ chức đối thoại trực tiếp Trong quá trình quản lý lớp, cán bộ lớp cũng gặp khó trong việc giải quyết xử lý tình huống trên lớp, do đó GVCN cần tổ chức một cuộc đối thoại trực tiếp với cán bộ lớp, vừa để nắm được một cách cụ thể chi tiết tình hình của từng học sinh trên lớp, vừa tạo cơ hội để cán bộ lớp thể hiện tâm tư nguyện vọng của mình, đồng thời là cơ hội để GVCN bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, phong cách giao tiếp ứng xử với bạn bè cho cán bộ lớp làm sao cán bộ lớp đủ khả năng lãnh đạo tạo được sự đoàn kết thống nhất trong tập thể giúp tập thể ngày càng vững mạnh. 2.11. Phối hợp chặt chẽ với PHHS GVCN và cha mẹ học sinh phải thống nhất được phương hướng phấn đấu của lớp đặt trong kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống nhất được các biện pháp thực hiện. Đây là điều kiện đầu tiên để GVCN có được sự ủng hộ của phụ huynh trong công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt với những học sinh vi phạm nội quy của trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi phạm GVCN thông báo với phụ huynh bằng văn bản (giấy thông báo), bằng điện thoại hoặc trực tiếp gặp để thống nhất biện pháp giáo dục. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều giáo viên đã làm và có hiệu quả: học sinh tiến bộ và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được mời đến gặp. - Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh do nhà trường đề ra. - Đi thăm và trao đổi trực tiếp với gia đình học sinh khi cần thiết. - Mời phụ huynh học sinh đến trường để trao đổi về việc giáo dục học sinh khi có những hiện tượng bất thường và khẩn cấp. - Liên hệ thường xuyên với Ban đại diên cha mẹ học sinh để tích cực hoá các hoạt động của hội phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục. - Vận động phụ huynh tham gia đóng nộp đầy đủ và đúng thời hạn các khoản tự nguyện, bảo hiểm - Thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc. Trang 15
  16. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Nắm rõ thời khóa biểu chính khóa và phụ đạo (tăng buổi) để theo dõi giờ giấc của các em, kiểm tra sổ liên lạc hàng tháng để biết kết quả học tập nhằm có sự nhắc nhở, động viên kịp thời. Do vậy, trong năm qua tôi luôn nắm bắt được tình hình cụ thể của từng học sinh và ngược lại gia đình cũng thường xuyên biết được kết quả học tập của con em mình. Không còn hiện tương học sinh bỏ học, đi học không đúng giờ. 2.12. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách nhiệm của bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi trường tự nhiên trong đó con người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên ở trường học sinh đã được bồi dưỡng cả hai mặt đức và tài. Sự phát triển của mỗi người nói chung và học sinh nói riêng được hình thành thông qua việc tiếp thu tri thức hằng ngày trong cuộc sống như kĩ năng làm việc hợp tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thích nghi, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng giữ gìn bảo vệ môi trường Những kĩ năng này không chỉ đòi hỏi cho một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người đặc biệt là chuỗi ngày đi học. Khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” xuất hiện ở các trường cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ từng người, từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp nào, đối với ai thì kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: nhân ái, vị tha, bản lĩnh tự tin, khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên bác, học vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con người bằng chính kĩ năng sống của họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội nhập với thế giới, cơ hội có được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của người lao động đang rộng mở, nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không ngừng gia tăng. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được trang bị những kĩ năng sống cơ bản của một người lao động. Chính vì vậy, kĩ năng sống cần được mỗi người chúng ta rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong bốn trụ cột của giáo dục được Unesco nêu ra là “Học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để cùng chung sống” đã có ba nội dung hàm chứa các yêu cầu kĩ năng sống. Điều này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng và cần thiết của nhà trường trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đành rằng hình thành kĩ năng sống phải qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí nền móng vì hầu hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ thông gồm nhiều lĩnh vực tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp của những bậc tiền nhân mà học sinh cần học tập noi theo. Có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm bằng các hình thức như: - Tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia vào hoạt động thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy nghĩ, tình cảm, hành vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui cũng như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên. Từ đây, tính ích kỷ cá nhân, ngại khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường chỗ cho lòng bao dung, sự tự tin, dũng cảm, tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế, hoà đồng và thân thiện. Nội dung hoạt động cũng khá đa dạng như: hội trại, thể thao, văn nghệ, tham quan bảo tàng và danh lam thắng cảnh; chăm sóc di tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể, câu lạc bộ xanh; ngoại khóa An toàn giao thông; vui Tết trung thu; tham gia sinh hoạt “Một ngày trải nghiệm”; diễn thuyết tranh luận về bảo vệ môi trường, quyền trẻ em, xử lý tình huống khẩn cấp Có thể tổ chức theo lớp, khối, toàn trường hoặc từng nhóm nhỏ từ 10 - 15 em và chú ý xác định rõ kĩ năng sống cần đạt được cho học sinh sau mỗi hoạt động. Nên để cho học sinh viết lại, nói lại những điều mà các em cảm thấy thú vị và bổ ích nhất. - Một hình thức nữa để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đó là thông qua hoạt động dạy - học trên lớp. Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến thức thì yêu cầu về kĩ năng và Trang 16
  17. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp thái độ luôn được đặt ra và đó cũng chính là yêu cầu về giáo dục kĩ năng sống. Do vậy, trong các giờ lên lớp tôi đều có sự liên hệ với thực tế cuộc sống của học sinh ở cả hai mặt tích cực và hạn chế. Tuỳ theo bài học mà hình thành những kĩ năng tích hợp cho học sinh như kĩ năng Một số hình ảnh ngoại khóa nhằm giáo dục kĩ năng sống. đặt câu hỏi và trả lời, kĩ năng trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm hay hoạt động nhóm) Trong đó, kĩ năng làm việc hợp tác cần được đặc biệt quan tâm vì đây là kĩ năng sống mang tính thời đại, nó thể hiện cách làm việc theo cơ chế phân công hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích của từng thành viên và cùng nhau phát triển. Qua sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chia thành các nhóm. Mỗi em được phân công đảm trách một công việc của nhóm (nhóm trưởng, thư ký, theo dõi thời gian, động viên phát biểu, trình bày trước lớp). Tất cả thành viên trong nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân nhưng cũng phải tôn trọng ý kiến người khác và chấp nhận sự thống nhất chung của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng nhau thảo luận để giải quyết một nội dung khó của bài học mà chỉ với mỗi cá nhân có thể không tìm được lời giải đáp. - Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những việc làm tốt và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất các việc làm, hoạt động hằng tháng và cả năm học. - Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo tháng hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý công việc đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay từ tuổi học đường. - Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh trường lớp, bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm năng lượng, phòng chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây dựng cảnh quan trường lớp với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm mỹ, những lời hay ý đẹp như “Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta”, “Mỗi lần giao tiếp là mỗi lần bạn thể hiện mình”, “Bạn có thể vấp ngã, điều quan trọng là bạn phải đứng lên” - Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối với thầy cô giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư những điều em muốn nói” và tổ chúc tư vấn cho học sinh. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phải thông qua việc làm cụ thể và sự chủ động cao của các em. - Cách rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải từ dễ đến khó. Chẳng hạn khi học sinh mới vào lớp, trong mục cùng góp ý trong giờ sinh hoạt, tôi yêu cầu học sinh “Em hãy nói vài ý kiến của mình về những vi phạm của các bạn trong tuần vừa qua”. Ban đầu, các em còn nói năng lí nhí, mắt không dám nhìn thẳng, gương mặt căng thẳng. Nhưng sau vài lần, các Trang 17
  18. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp em không còn những cái nhìn ái ngại, trở nên dạn dĩ hơn, cảm thấy tự tin và câu nói chắc gọn, cộng thêm một môi trường giáo dục thân thiện hoà đồng, cho phép các em tiến đến gần và hoà nhập với nhau, sau đó là những điều khác như đóng góp ý kiến cho tập thể, ý tưởng độc đáo cho các hoạt động của lớp phong phú hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ năng làm việc nhóm, các em được trang bị lý thuyết cụ thể, rồi thực hành để hiểu. Với kỹ năng làm việc nhóm, các em được tập làm việc để biết cách hợp tác và chấp nhận lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Mục đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống, đây là điều rất cần thiết trong cuộc sống của các em sau này. Cũng chính những biện pháp ấy đã góp công lớn trong việc xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục đã đề ra. Một số hình ảnh minh họa trong công tác giáo dục kĩ năng sống cho các em HS Ngoại khóa về An toàn giao thông Giao lưu ủng hộ Trẻ em khuyết tật Vui Tết trung thu Tham gia chương trình “Một ngày trải nghiệm” Trang 18
  19. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp 2.13. Phối hợp với các lực lượng giáo dục khác - Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy của nhà trường đến học sinh không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm hóa, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà trường xét kỷ luật nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp. - Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của giáo viên bộ môn thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn, vướng mắc của học sinh trong quá trình học tập, đề đạt nguyện vọng của học sinh với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục. Phối hợp với các giáo viên khác để dạy học có hiệu quả ở lớp chủ nhiệm. Đề xuất các ý kiến của tập thể học sinh về công tác dạy và học với giáo viên có liên quan. - Phối hợp với các tổ chức đoàn thể: + Ngoài việc các em học tập kiến thức văn hóa thì việc các em tham gia các hoạt động của Đội, Đoàn là điều tất nhiên. Thông qua những hoạt động của Đội, Đoàn các em sẽ được rèn luyện thêm nhiều phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn kết, lòng nhân ái, tinh thần cầu tiến, phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong là giáo viên chủ nhiệm, hiểu biết về hoạt động Đội của các em, luôn động viên nhắc nhở uốn nắn các em trong các hoạt động của Đội. Không chỉ thế, Đội còn có biểu điểm thi đua hàng tuần giữa các lớp. Tôi luôn nắm chắc biểu điểm này để làm cơ sở đưa ra biểu điểm thi đua cho phù hợp với trách nhiệm của mình. Trong biểu điểm thi đua có mức độ khen thưởng và kỉ luật. Để làm tốt được điều này cần có sự kết hợp theo dõi của các tổ trưởng, lớp trưởng, lớp phó, căn cứ vào sổ đầu bài. + Tham gia đầy đủ và có chất lượng các phong trào thi đua, hoạt động từ thiện: kế hoạch nhỏ, mua tăm, lịch Tết, giao lưu với Đoàn trẻ em khuyết tật, văn nghệ - ca hát, 2.14. Xây dựng các tiêu chí thi đua Để có thể “Xây dựng được tập thể học sinh tự quản, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ” có hiệu quả không thể không nói tới việc xây dựng nội qui lớp. Nội qui này được xây dựng trên cơ sở của luật GD và điều lệ trường THCS và được tập thể lớp nhất trí thông qua. Trên cơ sở đó, GVCN và BCS lớp thành lập bảng điểm thi đua của từng cá nhân. Cần cụ thể, chính xác, công khai, minh bạch và tổ chức thi đua theo từng tuần, tháng, học kỳ và cả năm học sao cho phù hợp với đặc điểm điều kiện của lớp chủ nhiệm, đồng thời thường xuyên khuyến khích được tinh thần phấn đấu vươn lên của lớp chủ nhiệm. Có hình thức khen thường, phê bình, kỷ luật, đúng người, đúng việc, đúng mức. Từ đó tạo ra một môi trường học tập thật tốt trong trường, lớp, cũng như khích lệ học sinh tích cực tham gia học tập tại gia đình. a. Các nề nếp quy định chung để xây dựng tác phong * Nề nếp về tác phong: - Vệ sinh cá nhân: + Rửa mặt sạch sẽ trước khi đến lớp. + Tay chân luôn sạch sẽ, móng tay cắt ngắn. + Tóc cắt cao, không chải tóc năm năm (đối với học sinh nam). Nữ buộc tóc gọn gàng, không để tóc lõa xõa khi viết bài. Cả học sinh nam và nữ không được nhuộm tóc vàng, nâu, đỏ đầu tóc luôn gội sạch sẽ. + Quần áo sạch, gọn gàng. - Vệ sinh văn minh, sinh hoạt để học sinh có thói quen: Trang 19
  20. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp + Che miệng mũi khi ngáp, khi hắt hơi. + Không khạc, nhổ bừa bãi. + Không xả rác trong lớp học, ngoài sân trường, cổng trường, không bỏ rác qua cửa sổ, phải bỏ rác đúng qui định. + Đi vệ sinh đúng nơi quy định, luôn giữ sạch môi trường xung quanh. * Nề nếp về đạo đức: - Lễ độ với mọi người: + Có thói quen chào hỏi thầy cô và khách khi vào trường. + Biết xin lỗi khi làm việc sai. + Biết cám ơn khi nhận quà hoặc khi người khác giúp đỡ mình. + Biết xưng hô đúng mực với mọi người xung quanh. + Không nói tục, chưỡi thề, đánh nhau. + Biết giúp đỡ mọi người, nhất là người già và trẻ em. - Làm điều tốt: + Thẳng thắn, trung thực, thật thà, không quay cóp trong khi làm bài kiểm tra hoặc thi cử. + Nhặt được của rơi biết trao trả lại cho người mất hoặc đưa giáo viên để thông báo cho người mất biết. + Giữ gìn tài sản riêng, tài sản của bạn và của nhà trường. - Kỷ luật: thực hiện nghiêm túc các quy định của trường, lớp. * Khi đi học và ra về: - Không đi học quá sớm, không được bám vào cửa sổ hoặc đứng trước cửa lớp khi lớp khác đang học. - Không tham gia chơi các trò chơi ăn tiền, hút thuốc lá, mua đồ chơi bạo lực (súng, dao, pháo ). - Không ra khỏi khu vực trường trong thời gian học chính khóa (trừ khi được sự cho phép của thầy cô, ) - Khi nghe hiệu lệnh trống phải tập trung nhanh vào lớp, ổn định chỗ ngồi. - Khi ra về phải trật tự, đi thẳng ra cổng trường không được đứng trước cửa lớp khác khi lớp khác còn học, đi thẳng một mạch về tới nhà, không la cà quán nước. - Không tự chạy xe gắn máy đi học. - Trên đường về không được đùa giỡn, chạy xe hàng hai, hàng ba (đặc biệt là trên tuyến Quốc lộ 14). * Nề nếp học tập: - Đến lớp phải chú ý học, tập trung nghe giảng, tích cực xây dựng bài, tuân thủ theo mọi yêu cầu của thầy cô giáo. - Biết giữ gìn và sử dụng tốt các đồ dùng học tập như: sách giáo khoa, viết, thước, com- pa theo đặc trưng của bộ môn. - Tập vở phải có bao bìa, dán nhãn, biết trình bày vở sạch, đẹp. - Bài kiểm tra phải được cất giữ cẩn thận trong túi đựng bài kiểm tra. Trang 20
  21. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Học bài và làm bài theo yêu cầu của thầy cô giáo. b. Nề nếp cụ thể theo từng thời điểm: * Chuẩn bị khi đi học: - Đã học bài và làm bài ở nhà đầy đủ. - Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ theo đặc trưng bộ môn. - Vệ sinh cá nhân sạch sẽ. - Ăn mặc đúng đồng phục (áo quần, khăn quàng, phù hiệu đầy đủ đúng theo qui định). - Không ăn quà trước cổng trường, không mang đồ ăn, nước uống vào lớp học. - Nghe lệnh trống phải tập trung vào lớp, ổn định trật tự. * Trong mười lăm phút đầu giờ: - Ổn định tổ chức: hát đầu giờ mỗi ngày. - Mỗi học sinh tự ôn bài, không ai được đi ra ngoài chơi. - Các tổ trưởng làm nhiệm vụ, kiểm tra nhanh vở bài tập, dụng cụ học tập, nề nếp của tổ mình. Lớp phó học tập kiểm tra bài tập của tổ trưởng. - Lớp phó học tập sửa bài tập (theo quy định chung của Liên đội). * Trong giờ học: - Cả lớp đứng dậy chào thầy, cô khi vào lớp. - Dụng cụ học tập đã để đầy đủ ở bàn trước mặt (sách giáo khoa, vở ghi, vở bài tập, giấy nháp, thước ) - Khi thầy, cô kiểm tra bài cũ học sinh phải nhanh nhẹn khẩn trương: trả lời lớn, rõ ràng, nói phải có “đầu, đuôi”, - Tập trung nghe giảng, không được nói chuyện, làm việc riêng. Ngồi học với tư thế ngay ngắn, không rút chân lên ghế, không dựa tường - Tích cực phát biểu xây dựng bài để hình thành kiến thức bài học. - Biết sử dụng đồ dùng dạy học một cách khoa học, tránh ồn ào gây mất trật tự. Giáo viên cần lưu ý: Không để lớp mất trật tự, nhưng phải có không khí thoải mái, không biến lớp thành thụ động để giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh. * Trong giờ chơi: - Chơi những trò chơi lành mạnh không chạy rượt; không xô đẩy, đánh nhau; không nói tục; không chơi những trò chơi nguy hiểm. - Không mang quà vào lớp ăn, không được xả rác ở hộc bàn, lớp học, cửa sổ, sân, cổng trường - Không leo trèo cửa sổ, bàn ghế, cây cối bảo vệ tài sản của chung và của riêng. * Ra về: - Khi ra về phải đi thẳng ra cổng, không la cà trước cửa lớp khi lớp khác còn học. - Đi một mạch về nhà. - Đồng phục tốt cho tới về đến nhà. 2.15. Hồ sơ, sổ sách Trang 21
  22. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp GVCN tự mình hoàn thành các loại hồ sơ, sổ sách liên quan trực tiếp tới công tác chủ nhiệm (sổ chủ nhiệm, sổ theo dõi cá nhân, ), đồng thời hướng dẫn các em hoàn thành một số laoị sổ liên quan đến chi đội như: sổ chi đội, sổ Vàng, 2.16. Một số giải pháp khác (tính mới trong công tác chủ nhiệm lớp) Ngoài những biện pháp, giải pháp nêu trên, tôi mạnh dạn chia sẻ thêm một vài giải pháp khác mà tôi đã vận dụng và nó đã mang lại hiệu ứng tích cực, hỗ trợ tôi rất nhiều trong công tác chủ nhiệm. Đó chính là: - “Hệ thống tình báo”: Trong lớp chủ nhiệm tôi luôn giao nhiệm vụ này cho ít nhất 3 thành viên (biệt lập nhau), có thể thuộc những nhóm đối tượng học sinh khác nhau. Các em hoạt động độc lập, không ai biết nhiệm vụ của ai, và sẽ báo cáo cho GVCN lớp về các diễn biến chính xảy ra đối với các bạn trong lớp. - Bên cạnh đó, với xu thế phát triển ngày càng mạnh của CNTT, mà đặc biệt là mạng xã hội đã và đang làm cho người với người xích lại gần nhau hơn, trong đó có trang xã hội Facebook - đây là kênh thông tin rất hữu ích, giúp tôi khai thác được rất nhiều thông tin từ các em học sinh, từ đó kịp thời ngăn chặn những tình huống không hay có thể xảy ra. Và tôi đã lập riêng một Fanpage cho trường với tên “Trường THCS Phan Bội Châu - Krông Búk”. - Ngoài ra, để góp phần giáo dục các em học sinh cá biệt, bản thân tôi đã trăn trở và mong muốn thành lập một Câu lạc bộ giành cho các em học sinh cá biệt. Định kì khoảng 2 tháng các em sẽ được sinh hoạt tập trung một lần. Tại đây, các em sẽ được nghe các thầy cô giáo nói chuyện, tâm sự, chia sẻ những thông tin bổ ích, đồng thời các em sẽ có dịp để chia sẻ những tâm tư, tình cảm của mình. Bên cạnh đó các em còn có cơ hội học tập, bồi dưỡng thêm về kiến thức; được hòa mình vào các hoạt động bổ ích như: múa hát dân vũ; trò chơi nhỏ; trò chơi lớn Nếu thực hiện được điều này, tôi nghĩ rằng công tác chủ nhiệm của bản thân sẽ đạt hiệu quả cao. 3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Để đảm bảo thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các giải pháp trên, đòi hỏi mỗi thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm phải thật sự gương mẫu; nhạy bén; tận tụy, tận tâm với nghề; thực hiện đúng phương châm “kỷ cương - tình thương - trách nhiệm” Đồng thời, lòng vị tha, bao dung, tâm lý của mỗi thầy cô sẽ là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các em. Bên cạnh đó, những lời động viên, những món quà nhỏ sẽ là nguồn khích lệ lớn nhằm giúp các em vươn tới để hoàn thành tốt nhiệm vụ của người học sinh, đóng góp công sức của mình để xây dựng một tập thể lớp toàn diện hơn. 4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Để đảm bảo làm “tròn vai” công tác chủ nhiệm của mình, bản thân tôi đã không ngừng nổ lực, học hỏi, trau dồi kinh nghiệm của thế hệ đi trước, của đồng nghiệp. Đồng thời, kết hợp hài hòa, có chọn lọc, logic với các biện pháp, giải pháp đã được nêu ở trên. Thường xuyên ghi chép những phát sinh mới, những tình huống mới nhằm bổ sung cụ thể hơn vào từng giải pháp, biện pháp. 5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Sau thời gian áp dụng các giải pháp, biện pháp trên trong công tác chủ nhiệm tại lớp 7A2, trường THCS Phan Bội Châu nơi tôi đang công tác, lớp chủ nhiệm của tôi đã thực sự chuyển biến theo hướng tích cực hơn: - Không còn học sinh đi học trễ. - Hạn chế học sinh vắng không lí do. - Phong trào thi đua đều đạt thứ hạng cao, nhất hoặc nhì hàng tuần. - Không có học sinh trốn học, cúp tiết, la cà ở các quán, tiệm game. - Gần 100% học sinh chú ý trong học tập, ít nói chuyện trong giờ học. - Học sinh trung thực, thẳn thắn, đoàn kết, không ỉ lại vào bạn bè. Trang 22
  23. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp - Các em luôn giúp đỡ nhau trong học tập và đạt kết quả đáng khích lệ IV. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Cụ thể: 1. Học kì I * Chất lượng hai mặt: Giỏi - Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Chất lượng SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL Học lực 06 14% 14 32% 16 36% 8 18% Hạnh kiểm 32 73% 12 27% - - - - - - * Hoạt động phong trào: - Tham gia đầy đủ các phong trào do nhà trường, liên đội phát động. - Hoàn thành sớm nhất các loại quỹ đạt 100%. - Công tác từ thiện: mua tăm, ủng hộ trẻ em khuyết tật, vượt chỉ tiêu. - Kế hoạch nhỏ lần 1 (mỗi học sinh nộp 2 kg giấy vụn): lớp nộp được 121kg giấy, vượt mức 33 kg so với quy định (nhiều nhất toàn trường). - Hoạt động chào mừng 20/11: đạt Tuần học tốt; 01 giải Nhì hoa điểm tốt (Trần Thị Hải Anh ), 01 giải Ba hoa điểm tốt (Phan Thị Tường Vy ); đạt giải Khuyến khích trong cuộc thi cắm hoa - Đạt giải Khuyến khích cấp huyện trong cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn giành cho học sinh THCS (Trần Thị Hải Anh , Nguyễn Thị Thanh Thảo). * Điểm thi đua học kì I giữa các chi đội trong toàn trường: xếp thứ nhất (96,8/100). * Duy trì sĩ số: đạt 100%, không có học sinh bỏ học giữa chừng. 2. Học kì II. - Tham gia đầy đủ các phong trào do nhà trường, liên đội phát động. - Kế hoạch nhỏ lần 2 (mỗi học sinh nộp 10 vỏ lon nhôm (bia, nước ngọt, )): lớp nộp được 1725 vỏ lon, vượt mức 1325 vỏ lon so với quy định (nhiều thứ hai toàn trường). - Đạt giải Khuyến khích cuộc thi Violympic Toán cấp huyện (Trần Thị Hải Anh). * Chất lượng hai mặt: Giỏi - Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Chất lượng SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL Học lực 06 14% 14 32% 20 46% 4 8% Hạnh kiểm 34 77% 10 23% - - - - - - C. PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ I. Kết luận Trang 23
  24. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp Với việc mạnh dạn áp dụng các giải pháp, biện pháp nêu trên vào công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã bước đầu gặt hái được những thành công; phần nào đã giúp cho tinh thần học tập của các em hăng say hơn, tinh thần đoàn kết, ý thức cống hiến cho tập thể cũng cao hơn, đặc biệt thầy - trò thêm hiểu nhau hơn. Từ đó đã đem lại những kết quả khả quan hơn trong học tập, rèn luyện, phong trào thi đua của lớp đạt nhiều thành tích. Đồng thời, tôi càng có thêm cơ sở để chứng minh được giải pháp của mình áp dụng là một trong những hướng đi đúng, tạo tiền đề để giáo viên tự trau dồi, học hỏi và đưa ra những sáng kiến, kinh nghiệm thiết thực hơn. II. Kiến nghị Nhìn chung biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì nhiều, tuỳ theo đặc điểm tình hình của mỗi lớp, giáo viên chủ nhiệm có thể tìm cho mình những biện pháp thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người.” Tuy nhiên điều cơ bản nhất là giáo viên chủ nghiệm phải tạo được uy tín với học sinh và đồng nghiệp về năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN tốt khi thực sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối với học sinh lớp chủ nhiệm mà còn với gia đình, đồng nghiệp, với mọi người ở nơi cư trú. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện của GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt học sinh hay không có mặt học sinh đều có ảnh hưởng đến nhân cách học sinh lớp chủ nhiệm. Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi ngoài những phẩm chất và năng lực của mọi giáo viên bình thường khác, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc, chấp nhận gian khó và rèn luyện năng lực hoạt động xã hội, đoàn thể, chính trị, để làm tốt công tác chủ nhiệm của mình. Trong công tác này giáo viên chủ nhiệm không nên nóng vội, áp đặt, mà cần có lòng kiên nhẫn, có nghệ thuật giao tiếp với học sinh, luôn đặt quyền lợi của học sinh lên trên hết, giành nhiều thời gian và tâm sức thì khi đó công tác chủ nhiệm sẽ không còn khó khăn phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi giáo viên khi đến trường. Trên đây là một số biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã sử dụng và đạt được kết quả rất tốt sau nhiều năm làm công tác chủ nhiệm. Tôi đưa ra đây để đồng nghiệp và bạn đọc cùng tham khảo. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của cấp trên, đồng nghiệp, các bạn đọc để tôi có dịp bổ sung, sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay. ___ ___ ChưKbô, ngày 2 tháng 2 năm 2020 Người thực hiện Phùng Đức Nguyên Trang 24
  25. SKKN - Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 2. Dự thảo chiến lược phát triển GD&ĐT đến năm 2020 của Bộ GD&ĐT 3. Hồ Chí Minh, Về vấn đề Giáo dục. 4. Kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm của một số đồng nghiệp 5. Hình ảnh, tư liệu từ các hoạt động được lưu trong nhà trường 6. Truy cập Website: http//www.google.com để tìm kiếm thông tin ___ DANH MỤC MỘT SỐ TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CHI TIẾT GVCN Giáo viên chủ nhiệm GV Giáo viên HS Học sinh PH Phụ huynh PHHS Phụ huynh học sinh GD Giáo dục BGH Ban giám hiệu GD & ĐT Giáo dục và Đào tạo THCS Trung học cơ sở * Fanpage Trang xã hội cho người hâm mộ một ai đấy Trang 25