Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - Ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 – Trường THPT Nguyễn Quán Nho - Năm học 2017-2018 - Lê Thị Thủy
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - Ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 – Trường THPT Nguyễn Quán Nho - Năm học 2017-2018 - Lê Thị Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_ky_nang.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - Ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 – Trường THPT Nguyễn Quán Nho - Năm học 2017-2018 - Lê Thị Thủy
- MỤC LỤC 1. Mở đầu 3 1.1. Lí do chọn đề tài 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 4 1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 5 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 5 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 6 2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề 9 2.4. Hiệu quả của sáng kiến 19 3. Kết luận, kiến nghị 21 3.1. Kết luận 21 3.2. Kiến nghị 21 Tài liệu tham khảo 23 1
- DANH SÁCH NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT THÔNG THƯỜNG PPDH Phương pháp dạy học GVCN Giáo viên chủ nhiệm GD&ĐT Giáo dục và đào tạo HS Học sinh GV Giáo viên THPT Trung học phổ thông 2
- 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Cố nhân đã dạy “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Quả thật đúng như vậy, để thực hiện được giao tiếp và giao tiếp một cách lịch sự, chúng ta cần dùng ngôn xưng sao cho phù hợp với đối tượng và môi trường tiếp xúc [1]. Giao tiếp - ứng xử trong nhà trường phổ thông có vai trò rất quan trọng như Albert Einstein đã từng nói: “Nhà trường phải luôn luôn có chủ trương tạo cho học trò một cá tính cân đối chứ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn” [2]. Do đó, trong nhà trường hiện nay việc giáo dục và đào tạo không chỉ quan tâm đến việc làm sao để các em giỏi kiến thức mà còn phải hoàn thiện về nhân cách con người, trong đó kỹ năng giao tiếp - ứng xử là một trong những kỹ năng quan trọng cần phải hoàn thiện từ cấp bậc nhỏ nhất là mầm non để tạo tiền đề cho các em bước vào xã hội thuận lợi hơn. Giao tiếp - ứng xử sư phạm là quá trình tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền đạt và lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, nghề nghiệp, xây dựng nhân cách toàn diện ở người học. Chúng ta biết rằng, giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nó được tiến hành ở trong các nhà trường từ cấp mầm non đến THPT và trên cao đẳng, đại học, ngoài ra còn được tiến hành ở mọi ngành, mọi cấp, trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình, ở tất cả các lĩnh vực kinh tế và văn hóa Tuy nhiên, giáo dục nhà trường có vai trò quyết định đến chiều hướng phát triển nhân cách học sinh. Vì nhà trường là cơ quan chuyên trách về công tác giáo dục, tổ chức xã hội dẫn đầu nhằm xây dựng cho con người có nhân cách phát triển toàn diện dựa trên những phương pháp giảng dạy khoa học [2]. Muốn thực hiện mục tiêu này thì đòi hỏi giáo viên và học sinh phải cùng nổ lực thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong đó, giao tiếp - ứng xử sư phạm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Trường THPT Nguyễn Quán Nho gồm 21 lớp, phần lớn là học sinh các xã Thiệu Quang, Thiệu Thịnh, Thiệu Giang, Thiệu Hợp, Định Công, Định Thành. Đây là những xã thuần nông của huyện Thiệu Hóa và Yên Định. Điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhiều phụ huynh phải đi làm ăn xa nhà, không có thời gian gần gủi, dạy bảo các em. Nhiều phụ huynh chưa bắt kịp với sự phát triển của công nghệ thông tin, e ngại trong việc tạo mối quan hệ với giáo viên chủ nhiệm và nhà trường. Điều đó đã làm cho kỹ năng giao - tiếp ứng xử của các em trong nhà trường cũng như ngoài xã hội bị hạn chế. Lớp 12C3 có 38 học sinh, có 12 học sinh nam và 26 học sinh nữ. 100% học sinh trong lớp là gia đình thuần nông. Kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên phụ huynh phải đi làm xa nhà như em Nguyễn Thị Hường, Đoàn Thị Sim không gần gủi, chăm sóc, uốn nắn các em. Một số phụ huynh lơ là, thiếu quan tâm trong công tác giáo dục và kết 3
- hợp với giáo viên chủ nhiệm. Phần lớn văn hóa giao tiếp - ứng xử của các em với bạn bè, thầy cô trong lớp, trường đã đáng báo động. Nề nếp và học tập của các em trong lớp có xu hướng đi xuống. Nhiều em bị ghi sổ đầu bài vì lí do văng tục, vô lễ với thầy cô, nói năng thiếu suy nghĩ Đứng trước những vấn đề trên, với cương vị là giáo viên chủ nhiệm, là người mẹ, người bạn, nhà tâm lí, luật sư. Tôi nhận thấy cần phải nâng cao thêm kỹ năng giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè cho các thành viên trong lớp để hoàn thiện hơn về nhân cách cho các em. Góp phần bé nhỏ vào việc đào tạo các em trở thành những “Chủ nhân” tương lai của đất nước vừa “Có đức vừa có tài” như Bác Hồ đã nói. Chính vì những lí do trên đã thôi thúc tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 – trường THPT Nguyễn Quán Nho” năm học 2017 - 2018. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn diện của giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Tìm ra một số phương pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh từ đó nâng cao chất lượng học tập. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 trường THPT Nguyễn Quán Nho, từ việc nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp - ứng xử chưa phù hợp của học sinh, giáo viên chủ nhiệm tìm ra những giải pháp để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu xây dựng cơ sở lí luận: Tìm đọc, nghiên cứu, phân tích các tài liệu có liên quan. Rút ra những kinh nghiệm từ đó xây dựng cơ sở lí luận. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Sử dụng các phiếu điều tra giao tiếp - ứng xử của HS. Từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho HS. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý số liệu, so sáng kết quả thu thập trước và sau khi tác động. - Phương pháp tổng kết: Trên cơ sở đã nghiên cứu, phân tích, đưa ra giải pháp giải quyết. Giáo viên kết luận đề tài và kiến nghị với các cấp lãnh đạo có thẩm quyền. - Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp này để đưa ra các tình huống giao tiếp - ứng xử cho học sinh giải quyết. 4
- 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến. Con người, ngoài nhu cầu ăn uống, mặc, ở, đi lại, vui chơi, thì giao tiếp - ứng xử là một nhu cầu tất yếu, đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển xã hội loài người. Trong tác phẩm “Triết – Mỹ chọn lọc”, Triết học gia người Đức Ludwig Andreas Feuerbch chỉ ra rằng “Con người riêng lẻ, như một thứ gì đó biệt lập, không chứa đựng trong nó bản chất người. Bản chất người chỉ tồn tại trong giao tiếp - ứng xử, trong sự thống nhất của con người với con người, trong sự thống nhất chỉ dựa trên hiện thực của sự khác nhau giữa Tôi và Bạn. Con người cho mình là con người trong nghĩa bình thường: con người trong giao tiếp - ứng xử với con người, sự thống nhất giữa Tôi và Bạn là thượng đế”. Điều đó một lần nữa khẳng định con người không thể sống, lao động, học tập mà không có giao tiếp - ứng xử. Giao tiếp chính là động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Con người có thể tự hiểu mình nhiều hơn, đồng thời hiểu được tâm tư, tình cảm, ý nghĩa, nhu cầu của người khác thông qua giao tiếp - ứng xử. Cuộc sống ngày càng thay đổi. Vì thế, việc học hành mỗi ngày một khác, việc giảng dạy của người thầy cũng phải thích ứng với sự phát triển của xã hội, của những tiến bộ khoa học, thích ứng với tâm lí, nhận thức của mỗi lứa tuổi học trò. Nhưng dù trong bất kì môi trường giáo dục nào và với bất kể đối tượng giáo dục là ai thì điều đầu tiên người thầy cũng cần dạy cho trò rằng “Tiên học lễ, hậu học văn” và điều đó không bao giờ là dư thừa [3]. Trên cơ sở nghiên cứu Chỉ thị 40/2008/CT – BGDĐT của Bộ GD&ĐT ra ngày 22/7/2008. Về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013. Giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, hoạt động giáo dục và xây dựng quy tắc ứng xử văn hoá. Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và cộng đồng cùng tham gia chăm sóc giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho học sinh. Thực hiện Chỉ thị 1537/CT-BGDĐT ngày 05/5/2014 của Bộ GD&ĐT về tăng cường và nâng cao hiệu quả một số hoạt động giáo dục cho học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục, đào tạo; Thông tư số 04/2014/TT-BGDĐT ngày 28/02/2014 ban hành quy định về quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống và hoạt động giáo dục ngoài giờ chính khóa. Căn cứ hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục phổ thông năm học 2017- 2018 của Bộ GD&ĐT, sở GD&ĐT Thanh Hóa. Căn cứ phương hướng nhiệm vụ năm học 2017 – 2018 của trường THPT Nguyễn Quán Nho. Căn cứ phương hướng nhiệm vụ năm học của lớp 12C3 đã đề ra đầu năm. Vai trò của giao tiếp - ứng xử trong nhà trường và những biện pháp khắc phục là một vấn đề mang tính xã hội và đã có nhiều tài liệu đề cập đến. Sau đây là một số bài viết nghiên cứu đăng trên báo điện tử:. 5
- Online.báo GDTPHCM ra ngày 19/3/2012: Văn hóa giao tiếp trong nhà trường “Rèn kỹ năng ứng xử”. Báo Tuyên Quang. Com. Vn ra ngày 25/10/2017: Giáo dục văn hóa giao tiếp trong học đường. Báo thpt thixaquangtri.quangtri.edu: Ra ngày 30/11/2017: Giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống, làm việc đối với tuổi trẻ trong trường THPT thị xã Quảng Trị Baocamau.com.vn>giao-duc-dao-tao>lo-ngai-van-hoa-ung-xu-cua-hoc- sinh- ra ngày 10/11/2015 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực trạng học sinh. Văn hóa giao tiếp - ứng xử của học sinh trong các nhà trường hiện nay là một vấn đề mang tính xã hội. Nhận định về văn hóa ứng xử học đường hiện nay, bà Phan Thị Thúy, nhà xã hội học, nhà giáo, nhà tâm lí học cho rằng: “Văn hóa ứng xử học đường ở Việt Nam đã ở vào cấp báo động đỏ. Quá nhiều hành vi thiếu văn hóa của HS. Văn hóa học đường đang xuống cấp nghiêm trọng, là sự xuống cấp đáng sợ nhất của cả một nền giáo dục” [4]. Mặc dù, hiện nay chúng ta đang trong thời công nghệ - thông tin và hội nhập quốc tế, học sinh có những hiểu biết khá phong phú nhờ truy cập internet, nhưng kỹ năng giao tiếp - ứng xử của các em còn nhiều hạn chế. Đa phần các em học sinh ở THPT hiện nay kỹ năng giao tiếp - ứng xử, khả năng phân tích, khả năng nhận thức đúng – sai các vấn đề còn hạn chế, không biết xử lí các tình huống thường gặp trong cuộc sống. Qua nhiều năm công tác tại trường THPT Nguyễn Quán Nho, tôi thấy thực trạng của kỹ năng giao tiếp - ứng xử ở trường như sau: Nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi nới PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc “rèn luyện kỹ năng sống”, nhất là kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho các em. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế, ngay sau khi Bộ GD&ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường đã tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp - ứng xử có văn hóa cho các em. Điều này thể hiện rõ nhất ở hoạt động của các đoàn thể trong trường như: Phong trào thi đua nề nếp tốt và làm báo tường, thi văn nghệ, thi hùng biện tìm hiểu ngày quốc tế phụ nữ mùng 8/3, thi “khi tôi 18”, thi kéo co, đá bóng nữ, thi cắm hoa Yêu cầu là như vậy, nhưng kết quả của việc rèn luyện kỹ năng sống, giao tiếp - ứng xử trong trường của các em chưa cao vẫn còn tình trạng gây gổ đánh nhau, nói tục, chửi bậy, lên mạng xã hội nói thiếu văn hóa với thầy cô giáo, tự ti ngại giao tiếp, nói năng thiếu suy nghĩ, nói ngang với thầy cô 6
- Cuối năm học 2016 – 2017, đầu năm học 2017 – 2018, các em 11B3, 12C3 bước vào giai đoạn cuối của cấp THPT, các em cần chuẩn bị cho mình không chỉ những kiến thức về chuyên môn mà còn phải chuẩn bị cả những kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp - ứng xử cơ bản để có thể đáp ứng nhu cầu của xã hội công nghiệp hóa. Việc rèn luyện các kỹ năng đó đã được thể hiện qua lồng ghép vào các môn học, được tham gia các phong trào do đoàn thể, nhà trường tổ chức. Tuy nhiên, văn hóa giao tiếp - ứng xử của đại bộ phận các em trong lớp đang ở mức đáng báo động, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến nề nếp và học tập của lớp: không chú ý lắng nghe thầy cô giảng bài ngồi lén lút nói chuyện và sử dụng điện thoại; nói tục chửi bậy trong giờ học, lớp học; nói thiếu văn hóa với bạn bè, thầy cô qua các mạng facebook; nói năng vô lễ với thầy cô; thiếu tự tin; nhút nhát; học tập thụ động; thường hay nổi nóng gây gổ đánh nhau Trong đó, đáng chú ý là em Phạm Thị Thắm, Nguyễn Văn Sơn, Đặng Trọng Thắng, Nguyễn Chúc Linh, Nguyễn Thị Ngát, Nguyễn Thị Hường, Bùi Thị Tuyết (nhút nhát, ít hoạt động các phong trào) Qua khảo sát đầu năm học 2017 – 2018, văn hóa giao tiếp - ứng xử của học sinh 12C3 như sau: Mức 1 – Mức 2 – Mức 3 – Mức 4 – Loại giỏi Loại khá Loại trung Loại yếu (15 – 16) (11 – 14) bình (Từ 7 trở (8-10) xuống) Số lượng học sinh 0 học sinh 7 học sinh 25 học sinh 6 học sinh Phần % 0 18,4 65,9 15,7 Đánh giá dựa theo thang điểm đánh giá của V.P. Đakharop Qua kết quả khảo sát, Văn hóa giao tiếp - ứng xử của phần lớn các em trong lớp thuộc loại trung bình và yếu. Hiện nay, đất nước đang bước vào thời kì hội nhập, xã hội phát triển không ngừng. Kỹ năng giao tiếp - ứng xử đang là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó góp phần quyết định sự thành công hay thất bại của đời người. Không ngoại ngữ mất cơ hội việc làm, không bằng cấp mất cơ hội tiến thân, còn riêng giao tiếp - ứng xử kém là mất tất cả: cơ hội việc làm, các mối quan hệ và cả vị trí cao trong xã hội. Như ông cha ta đã có câu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Khi giao tiếp - ứng xử hạn chế các em sẽ rơi vào các trạng thái tiêu cực như sau: Giao tiếp - ứng xử kém sẽ làm giảm sự tương tác giữa học sinh với các thành viên trong gia đình, giữa các học sinh trong lớp với nhau, thầy cô, người xung quanh. Nhiều học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, xa lánh bố mẹ, bạn bè trong 7
- lớp làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa học sinh với những người xung quanh, hậu quả nặng nhất là các em bị “trầm cảm” như em Nguyễn Thị Hường. Điều này sẽ ảnh hưởng đến gia đình và bản thân các em. Nói năng thiếu suy nghĩ, nói tục, nói tự do. Lứa tuổi các em đang còn bồng bột chỉ cần một câu nói không vừa ý là đã dẫn đến mâu thuẫn. Đỉnh cao của những mâu thuẫn đó là “đánh nhau” ở trong trường, và ngoài trường. Như em Nguyễn Văn Sơn, chỉ vì những lời nói qua lại với bạn cùng trường trên facebook đã đánh nhau với bạn. Lạm dụng điện thoại dẫn đến việc các em chán học, thích chơi, không thích làm việc, từ đó xa đà vào các tệ nạn xã hội như nghiện điện tử, nghiện facebook Những việc làm này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em. Như em Đỗ Xuân Đức, Nguyễn văn Sơn, Đặng Trọng Thắng thường hay bỏ học đi chơi. Đây là một trong những mối quan tâm lớn của nhà trường, phụ huynh và xã hội. Ngoài ra, ứng xử thiếu văn hóa với thầy cô, bạn bè tạo thói quen thiếu tôn trọng người khác. Giao tiếp - ứng xử hạn chế dẫn đến các em thiếu tự tin vào bản thân, nhút nhát, ngại giao tiếp với thầy cô, bạn bè, ít tham gia các hoạt động. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập và cuộc sống của các em. Nhiều khi khả năng của các em sẽ bị bỏ qua chỉ vì sự thiếu tự tin của bản thân. Từ đó dẫn đến các em bị thiệt thòi về mọi mặt trong học tập cũng như cuộc sống. 2.2.2. Thực trạng giáo viên. Một số giáo viên đã giáo dục các kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho các em vào những giờ dạy của mình. Uốn nắn ngôn ngữ nói, phân tích những mặt tốt và không tốt của những hành vi ứng xử thiếu văn hóa. Chính mỗi thầy cô luôn là tấm gương sáng, là chuẫn mực cho học sinh noi theo. Tuy nhiên, một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục các kỹ năng sống cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa, chưa đầu tư thời gian tìm tòi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng sống nên chưa tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh. Vẫn còn một số giáo viên chưa nắm chắc về các nội dung giáo dục kỹ năng sống theo từng khối lớp, những kỹ năng sống cơ bản, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung của nhà trường để đưa vào kế hoạch cụ thể rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho HS. Chính vì thế, tình hình lớp 11B3 từ cuối năm học 2016 – 2017 có những biểu hiện suy giảm về đạo đức, về nền nếp, dẫn đến giảm sút kết quả học tập, là một giáo viên chủ nhiệm tâm huyết với nghề, với học sinh đã thôi thúc tôi không ngừng tìm hiểu để khắc phục tình trạng trên, nâng cao hiệu quả học tập cho các em. Tuy nhiên những biểu hiện đi xuống về nề nếp, học tập vẫn còn tiếp diễn ở một số tuần đầu của năm học mới. Sau khi tìm hiểu thông qua hội nghị lớp chủ nhiệm, hội nghị phụ huynh học sinh, tâm sự với các thành viên trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm 12C3 đã tìm ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng giao tiếp- 8
- ứng xử của học sinh không những không tiến bộ mà còn có phần đi xuống, một trong những nguyên nhân đó là do mạng xã hội, xa bố mẹ. Vì vậy yêu cầu đặt ra ở đây là phải nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho các em. Ngoài việc nổ lực truyền đạt kiến thức giáo viên phải phát hiện được các ảnh hưởng tiêu cực từ xã hội công nghệ thông tin đã mang lại cho các em, từ đó có biện pháp khắc phục phù hợp nhằm nâng cao chất lượng kỹ năng sống, nề nếp và học tập cho học sinh. 2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề. Sau khi phân tích thực trạng kỹ năng giao tiếp - ứng xử của lớp chủ nhiệm, những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực do xã hội, cá nhân mang lại cho học sinh lớp 12C3 giáo viên chủ nhiệm đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả học tập và đạo đức cho HS 12C3 – THPT Nguyễn Quán Nho. 2.3.1. Giải pháp 1: Tổ chức tuyên truyền, giáo dục cho học sinh 12C3 tìm hiểu về các kỹ năng giao tiếp - ứng xử cần có, vai trò của kỹ năng giao tiếp đối với cuộc sống. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp - ứng xử thông qua tiết sinh hoạt vào sáng thứ 7 hàng tuần. * Khái niệm giao tiếp: Một số quan niệm về giao tiếp: “Giao tiếp là nói một điều gì đó với ai’. “Giao tiếp là việc chuyển tải các ý tưởng giữa loài người”. “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin”. “Giao tiếp là sự chia sẽ thông tin và tạo quan hệ”. “Giao tiếp là việc truyền đạt hướng dẫn, chỉ dẫn giữa người này và người khác, có dẫn đến hành động ”. Nếu hiểu theo nghĩa rộng “Giao tiếp là sự chia sẽ thông tin và tạo quan hệ”, hiện tượng này không chỉ có ở xã hội loài người, mà còn tồn tại khách quan, xuất hiện ở muôn loài trên thế gian. Tuy nhiên, ở góc độ nhà trường, công ty, doanh nghiệp “Giao tiếp” được hiểu là hành động xác lập mối quan hệ và sự tiếp xúc giữa con người với con người, nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định về thông tin. Trên cơ sở thu nhận thông tin, hai bên giao tiếp sẽ xây dựng, điều chỉnh mục tiêu, hành vi qua sự tương tác lẫn nhau để cùng hiểu biết về một tình huống, có cùng tiếng nói, thu được lợi ích nhiều nhất có thể. Ngoài ra, giao tiếp còn là giao lưu tình cảm, tư tưởng để phát triển và hoàn chỉnh nhân cách con người. Ở một phạm vi rộng hơn, chúng ta cũng có thể hiểu giao tiếp là: “Việc trao đổi thông tin giữa con người và thường dẫn tới hành động”. Tóm lại, với nhiều quan niệm khác nhau nhưng những quan niệm này điều có chung một cách hiểu: “Giao tiếp là quá trình chuyển giao, tiếp nhận và xử lí thông tin giữa người này với người khác để đạt được mục tiêu” [5]. * chức năng giao tiếp: 9
- Giao tiếp là phương tiện để hiểu người khác và tác động đến người khác. Giao tiếp là con đường hình thành, giáo dục và phát triển nhân cách con người. Ứng xử trong giao tiếp làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của con người. Có thể nói: uy tín, giá trị, hạnh phúc, thành công hay thất bại của bạn phần lớn tùy thuộc vào khả năng ứng xử của bạn với mọi người xung quanh. Đối với đối tượng giao tiếp ứng xử bạn phải làm sao để đối tượng đó có thể hiểu được mình từ đó mà thay đổi nhận thức, suy nghĩ và hành vi theo mục đích của bạn. * vai trò của giao tiếp ứng xử. Giao tiếp là điều kiện tồn tại rất quan trọng của con người, không có giao tiếp với người khác con người sẽ cô đơn và bị bệnh như trầm cảm, tự kỷ. Thông qua giao tiếp con người tạo dựng được các mối quan hệ với người khác trong xã hội. Cùng với hoạt động qua giao tiếp con người sẽ tiếp thu được nề văn hóa lịch sử và biến nó thành cái riêng của chính mình, đồng thời con người sẽ có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của xã hội. Thông qua giao tiếp con người biết được giá trị xã hội của người khác và của chính bản thân mình trên cơ sở tự điều chỉnh theo chuẩn mực xã hội. * các nguyên tắc trong giao tiếp xã hội: - Phải biết quan tâm đến người trong giao tiếp. - Biết tôn trọng người khác trong giao tiếp, không có thái độ chỉ trích, oán trách hay than phiền về người khác. - Luôn biết khẳng định con người và ưu điểm của người khác “Cái vốn quí nhất của ta là năng lực khêu gợi được lòng hăng hái của mọi người”. - Biết đặt vị trí của mình vào vị trí của người khác để suy nghĩ. - Dùng những lời nói tế nhị, khéo léo. - Lý và tình là hai mặt luôn được quan tâm trong qua trình giao tiếp. - Đảm bảo chữ tín trong giao tiếp. Không nói hai lời, đây là một điều rất quan trọng trong giao tiếp [6]. Để thực hiện giải pháp này, tôi đã tìm hiểu qua sách báo, mạng internet khái niệm, chức năng, vai trò và các nguyên tắc khi giao tiếp - ứng xử, đồng thời để nâng cao hiểu biết của mình về vấn đề này. Có nhiều giáo viên chỉ chú ý đến việc truyền đạt kiến thức cho học sinh, ít gần gũi với các em. Tuy nhiên với cương vị vừa là giáo viên chủ nhiệm vừa là giáo viên bộ môn, tôi thường xuyên nói chuyện, gần gũi với các em để nắm bắt tâm tư tình cảm, các mối quan hệ của các em trong lớp mình chủ nhiệm và lớp mình dạy. Để hiểu hơn về tâm tư, tình cảm của các em. Tôi đã tổ chức buổi thảo luận “Những hiểu biết của em về vấn đề giao tiếp - ứng xử của học sinh trong nhà trường ngày ngay” vào buổi sinh hoạt lớp thứ 7 ngày 7/10/2017. Để chuẩn bị cho buổi thảo luận này, tôi cho các em 10 ngày tìm hiểu qua sách báo, mạng internet 10
- Hình ảnh minh họa buổi sinh hoạt lớp 12C3, tìm hiểu về giao tiếp ứng xử đối với học sinh. Trong buổi sinh hoạt các thành viên trong lớp thảo luận tích cực các vấn đề đã tìm hiểu: khái niệm, chức năng, vai trò, các nguyên tắc khi giao tiếp - ứng xử với mọi người, tôi thật bất ngờ vì có những em hiểu biết rất tốt về vấn đề này. Có những em đã đưa ra được một số giải pháp để nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử với thầy cô, bạn bè, thậm chí với cả gia đình. Sau đó, tôi đưa ra cho các em một số điểm cần lưu ý để giao tiếp tốt hơn, có hiệu quả hơn. Kết quả khảo sát ban đầu cho thấy có 81,4% các em học sinh trong lớp giao tiếp - ứng xử ở mức trung bình và yếu. Tôi phân tích kết quả điều tra, hậu quả của việc giao tiếp - ứng xử trong cuộc sống và trong công việc sau này của các em. Đối với những trường hợp kỹ năng giao tiếp - ứng xử yếu, hay nói tục, nói không có chủ ngữ, nói ngang, phát biểu tự do như em phạm Thị thắm, Đặng 11
- trọng Thắng, nguyễn văn Sơn, Tôi dành thời gian gặp riêng trao đổi với các em, lắng nghe tâm tư, tình cảm của các em để tìm ra những biện pháp giáo dục phù hợp. Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 1: Đa số các em trong lớp tự tin hơn trong khi nói chuyện, hăng say phát biểu bài hơn, giảm hiện tượng nói tục trong trường lớp, các em lịch sự hơn trong khi giao tiếp với thầy cô, bạn bè, sự chia sẽ đồng cảm cũng tốt hơn, các thành viên trong lớp sống đoàn kết hơn biết chia sẽ với những khó khăn của một số bạn trong lớp. Ví dụ như em phạm Thị Thắm, đã giảm việc nói tục trong lớp, Đặng Trọng thắng biết lắng nghe thầy cô bạn bè hơn. Vì thế mà kết quả học tập của lớp bước đầu có những khởi sắc đáng kể. Ngoài ra, tôi hướng dẫn các em trong lớp lập nhóm kín gồm tất cả các thành viên trong lớp trên facebook để cô trò có thể trò chuyện, trình bày những tâm tư, tình cảm, những khúc mắc trong cuộc sống và gắn kết các thành viên trong lớp xích lại gần nhau hơn. Hình ảnh nhóm kín của lớp 12C3 2.3.2. Giải pháp 2: Trong giờ học ngoài giờ lên lớp tháng 10. Tôi đưa ra một số tình huống giao tiếp - ứng xử để các em suy nghĩ tìm hướng giải quyết và thực hành. GV đưa ra các tình huống: Tình huống 1: Trong một lần kiểm tra môn toán, do được điểm thấp hơn bạn mà một người bạn cùng bàn cho rằng đó không phải là “điểm thật” của bạn và thầy cô đã thiên vị bạn. Trong tình huống đó, bạn sẽ xử lý như thế nào? Tình huống 2: Trong nhóm làm bài tập lớn môn ngữ văn của bạn gồm 10 bạn, tất cả 9 thành viên đều hăng hái, chăm chỉ trừ một người. Người bạn đó luôn cố tình ỷ lại và lười biếng. Với cương vị là trưởng nhóm, trong tình huống trên bạn sẽ xử lý như thế nào? Tình huống 4: Trong lần bàn về vấn đề chụp ảnh kỷ yếu của lớp vào cuối năm lớp 12. Phần lớn các bạn trong lớp đều có ý tưởng chụp ảnh ở biển như các 12
- lớp anh chị khóa trước. Với cương vị là lớp trưởng, bạn làm thế nào để các bạn trong lớp đồng ý chụp ở trường. GV cho học sinh thời gian 10 phút suy nghĩ tìm ra cách giải quyết. GV cho học sinh trình bày các cách giải quyết của mình trong buổi thảo luận. Các em học sinh tích cực đưa ra các cách giải quyết. Như em Cơ, linh, Phúc. Giáo viên đưa ra cách giải quyết minh họa: Tình huống 1: Lời giải thích tốt nhất đối vời người bạn đó là lên bảng thường xuyên môn toán, đạt điểm cao trong những bài kiểm tra tiếp theo. Chính những hành động và kết quả đó sẽ chứng tỏ cho cả lớp và chính người bạn đó thấy rằng đó là sai. Tình huống 2: Chúng ta gặp riêng bạn đó để tìm hiểu nguyên nhân bạn không tích cực tham gia, phân tích cho bạn ấy biết mục tiêu mà nhóm muốn đạt được và những yêu cầu đối với từng thành viên trong nhóm. Khuyên bạn nên vì thành tích của cá nhân và cả thành tích của tập thể mà cố gắng. Nếu người bạn đó không sữa đổi, bạn có thể đề nghị với thầy cô giáo chuyển người bạn đó sang nhóm khác. Tình huống 4: Trước hết, bạn phải trình bày cho cả lớp hiểu ý nghĩa của việc chụp ảnh kỷ yếu. Sau đó, bạn lấy những dẫn chứng về sự tốn kém về tiền của và sức khỏe khi đi xa chụp kỷ yếu, điều quan trọng nhất là có nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng, đó là việc các bạn tắm biển và bị đuối nước, như trường hợp của bạn nam ở Nghệ An hè năm nay (2016-2017). Trong 3 tiết học ngoài giờ tôi nhận thấy các em rất sôi nổi. Tích cực suy nghĩ, trao đổi tìm ra cách giải quyết các tình huống. Có nhiều cách giải quyết tình huống của các em thật sáng tạo và hay. Các em giải quyết rất mềm mỏng, linh hoạt và khéo léo. Thậm chí có em như Đặng Thắng, Phạm Thắm trước đây rất hay nóng nảy, nói năng thiếu hiểu biết cũng đã đưa ra những cách giải quyết rất mềm dẻo, hợp lí. Sau đó, tôi phân tích, giảng giải cho các em từng tình huống một. Kết quả sau khi thực hiện giải pháp 2: Đa số các em đã tự tin hơn trong việc giao tiếp - ứng xử với bạn bè, thầy cô trong trường lớp. Khi gặp những vấn đề khó khăn trong việc học tập, cuộc sống các em giải quyết nhẹ nhàng và khéo léo hơn. Không có những hành động thiếu suy nghĩ như trước. Như em Nguyễn Văn Vĩnh, có lần do hiểu nhầm một bạn học sinh lớp 11B5 đánh em. Em Vĩnh nói với bạn sao lại tát mình. Bạn không giải thích và càng nóng hơn. Em bình tĩnh nhờ thầy hiệu phó giải quyết. Tôi hướng dẫn các em vào mạng xã hội tìm đọc những tình huống thường gặp trong cuộc sống và hướng giải quyết. 2.3.3. Giải pháp 3: Sử dụng “Bản chỉ tiêu phấn đấu đặt ra đầu năm học” làm động lực để thúc đẩy các em học tập và rèn luyện kỹ năng giao tiếp ứng xử với thầy cô, bạn bè. Một trong những lí do các em chán học, bỏ học đi chơi, có những hành động lời nói thiếu văn hóa đó là các em quá lạm dụng mạng xã hội, chính mặt trái của mạng xã hội đã làm cho các em bị ảnh hưởng. Nhiều khi những câu nói 13
- của những nhân vật nổi tiếng đã trở thành những cầu nói các em thần tượng như “quan trọng là thần thái”. Hoặc đầu tóc, cách ăn mặc của các em cũng ảnh hưởng của mạng xã hội. Điều đó, đã khiến các em rơi vào tình trạng “nghiện” điện thoại. Các em sử dụng điện thoại mọi lúc, mọi nơi, lén lút sử dụng ngay cả trong các giờ học. Do bố mẹ đi làm xa không có thời gian gần gũi dạy bảo các em. Điều đó đã hình thành cho các em một thói quen giao tiếp ứng xử tùy tiện, thích thì học, không thích thì bỏ đi chơi. Bỏ qua những lời khuyên của thầy cô, người thân. Như em Đoàn Thị sim, Nguyễn Chúc Linh. Với cương vị là GVCN, tôi yêu cầu các em cần phải đặt ra cho chính bản thân mình những cái đích để từ đó có những động lực phấn đấu. Như em Đỗ Xuân Đức, năm học 2016-2017, học lực trung bình, hạnh kiểm yếu, cần phải cố gắng để đậu tốt nghiệp, luôn luôn rèn luyện đạo đức để nâng hạnh kiểm lên loại khá. Để thực hiện giải pháp này, ngay từ đầu năm học 2017-2018, GVCN cùng ban cán sự lớp đã thảo luận đưa ra “Bản chỉ tiêu phấn đấu đầu năm học” để cả lớp thông qua. BẢN MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU NĂM HỌC 2017 – 2018 * Về học tập. - Phấn đấu 100% các thành viên trong lớp chấp hành nội qui của trường, lớp đề ra. - Phấn đấu cuối năm: + Xếp loại học lực cuối năm: Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng 0 22 16 0 % 0 57,9 42,1 0 + Thi THPT quốc gia: Phấn đấu 100% đủ điều kiện thi THPT quốc gia. 38/38 học sinh (100%) học sinh 12C3 đậu tốt nghiệp THPT quốc gia. 13/38 học sinh (34,2%) học sinh đậu đại học. * Nề nếp: - Chỉ tiêu chung: + Phấn đấu năm học 2017 – 2018, 12C3 xếp thứ 11/21 lớp trong toàn trường. + Tập thể lớp vững mạnh, không còn hiện tượng đánh nhau, giao tiếp - ứng xử thiếu văn hóa với thầy cô, trên mạng facebook, không còn hiện tượng nói tục, vô lễ với thầy cô, sử dụng điện thoại trong giờ học - Xếp loại hạn kiểm cuối năm: Tốt Khá Trung bình Yếu Số lượng 25 10 3 0 % 65,8 26,3 7,9 0 * Các hoạt động khác. - Tham gia đầy đủ các hoạt động của các đoàn thể trong trường tổ chức. - Phấn đấu: + Một tiết mục văn nghệ đạt giải. 14
- + Báo tường đạt giải khuyến khích + Hoạt động đá bóng nữ vào vòng bán kết. Giáo viên chủ nhiệm Lớp trưởng Bí thư Lê Thị Thủy Đỗ Anh Cơ Nguyễn Thị Dung Do lớp 12C3 là lớp cơ bản, đầu vào của các em thấp nên tôi hướng dẫn học sinh từ đầu năm học đặt ra mục tiêu lớn nhất là 100% đậu tốt nghiệp THPT quốc gia (trong đó 13/38 học sinh đậu đại học). Nề nếp của lớp cuối năm lớp 11 đứng thứ 18/21 lớp. Chỉ tiêu phấn đấu năm học 2017-2018, vươn lên đứng thứ 11/21 lớp trong toàn trường. Tổng kết học kì I xong, có một số em vẫn chưa đạt được mục tiêu mà bản thân mình đặt ra từ đầu năm đó là: em Đặng Trọng Thắng, Đỗ Xuân Đức, Nguyễn Văn Sơn. Tuy nhiên giáo viên chủ nhiệm luôn động viên các em không ngừng nổ lực, phấn đấu ở học kì 2, đặc biệt là ở kì thi THPT quốc gia. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng nổ lực phấn đấu của các em và luôn động viên các em cố gắng hết mình trong học tập và rèn luyện đạo đức. Kết quả thực hiện giải pháp 3: 100% học sinh 12C3 đã đạt mục tiêu ban đầu đặt ra. Các em: Đỗ Xuân Đức, Nguyễn văn Sơn, Phạm Thị Thắm, Đặng Trọng Thắng đã đạt được mục tiêu của mình. Các em đều đạt học lực khá và trung bình, hạnh kiểm tốt và khá. Trong kì thi thử THPT quốc gia ngày 13/4 do sở Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức đã có những em đạt kết quả cao như em: Đỗ Anh Cơ, Nguyễn Thị Dung. GVCN tin tưởng rằng kì thi THPT quốc gia sắp tới diễn ra vào ngày 24/6/2018, 100% học sinh lớp 12C3 đậu tốt nghiệp. Về mặt nề nếp lớp xếp thứ 9/21 lớp của trường. Như vậy về mặt nề nếp lớp đã vượt mức đăt ra từ ban đầu. 2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh sử dụng mạng xã hội, facebook, zalo, trang wed của nhà trường một cách có ích để tìm hiểu, học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm trong học tập, văn hóa giao - tiếp ứng xử góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử, kết quả học tập và nề nếp của học sinh 12C3. Hiện nay, trên mạng xã hội, facebook thường xuyên lan truyền những thông tin, video, bài viết, hình ảnh không lành mạnh trong các nhà trường, hiện tượng đánh nhau của học sinh, video ứng xử thiếu văn hóa của học sinh với thầy cô, của phụ huynh với giáo viên, ngay cả những hành vi không lành mạnh của một bộ phận giáo viên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính cách, cách hành xử của các em học sinh. Để thực hiện giải pháp này, tôi đã tìm hiểu qua mạng, báo chí để phân tích cho các em lớp chủ nhiệm thấy những lợi ích và tiêu cực mà mạng xã hội mang lại. Chúng ta sử dụng các mạng phải biết chọn lọc. Những trang wed không chính thống, những vi deo, hình ảnh, thông tin trên mạng nhiều khi không đúng, hoặc do một số người dựng nên để gây sự chú ý của người xem, và nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các em. 15
- Tôi hướng dẫn các em học sinh tìm đọc những trang wed, chương trình bổ ích trên đài báo, ti vi, mạng xã hội. Như kênh thời sự Việt nam, chương trình khoa học giáo dục phát trên kên VTV2, VTV1 đài truyền hình Việt Nam. Một số tờ báo dành cho tuổi học trò, báo “mực tím”, “hoa học trò”. Và một số bài báo viết về tấm gương sáng trong học tập của tỉnh Thanh Hóa như bài báo ca ngợi tấm gương sáng của cậu học trò Ngô Minh Hiếu, 8 năm cõng bạn đi học ở trường THPT Triệu Sơn 5, tỉnh Thanh Hóa. Hay bài văn của em Trịnh Thị Ngọc Thiện viết về tình cảm biết ơn của người trò đối với thầy giáo, cô giáo trường THPT Nguyễn Quán Nho Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn các em theo dõi trang wed của trường THPT Nguyễn Quán Nho để cập nhật những thông tin bổ ích có liên quan đến việc học tập và rèn luyện của các em, đồng thời theo dõi các hoạt động của trường, của hội cựu học sinh và những tấm gương sáng của trường đã thành công trên con đường sự nghiệp bằng chính đôi tay của mình như anh Trịnh Văn Dũng (Cựu học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho khóa 1994 – 1997), và một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của các anh chị trong xã hội đó chính là khả năng giao tiếp - ứng xử của các anh chị đối với xã hội, sự cố gắng trong cuộc sống. Kết quả thực hiện giải pháp 4: Đa phần các học sinh lớp 12C3 đã theo dõi các mạng xã hội, facebook, trang wed của trường một cách có ích. Các em tìm đọc những bài viết hay, những tấm gương sáng trong học tập, đạo đức. Theo dõi thường xuyên hoạt động của trường, đoàn thể, các anh chị cựu học sinh đăng trên trang wed của trường THPT Nguyễn Quán Nho để làm tư liệu cho bản thân trong qua trình học tập và rèn luyện. Có những em trước đây chỉ vào mạng để chơi điện tử, hay xem về các video không hay trên mạng nay đã biết vào mạng để xem các giờ giảng của giáo viên qua mạng, để giải một số đề thi THPT quốc gia qua mạng, để theo dõi thông tin của trường như em Thắng, em Đức. Kết quả học tập và hạnh kiểm của các em cuối năm đã được cải thiện rõ nét. 2.3.5.Giải pháp 5: Bản thân các thầy cô giáo trong trường, lớp luôn là tấm gương trong giao - tiếp ứng xử để các em noi theo. Hiện nay, do yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục luôn luôn phải đổi mới. Bản thân giáo viên luôn luôn phải cập nhật, thay đổi mình để phù hợp với xã hội. Gần đây, trên mạng xã hội đã xuất hiện nhiều thông tin nói về việc ứng xử chưa phù hợp của một số giáo viên với học sinh đã gây xôn xao lớn đối với các bậc phụ huynh và các em học sinh. Trường THPT Nguyễn Quán Nho, đóng trên địa bàn các xã nông thôn, kinh tế còn gặp khó khăn. Phần lớn các thầy cô giáo luôn quan niệm rằng các em không chỉ là học sinh, mà còn là những đứa con của mình nên rất tận tình giúp đỡ các em trong học tập cũng như rèn luyện đạo đức. Tuy nhiên, trong trường còn một ít các thầy cô chưa cập nhật công nghệ, ít quan tâm đến học sinh chủ yếu chỉ đề cập đến việc truyền đạt kiến thức cho các em mà quên đi phần rất quan trọng đó là đạo đức, lối sống và cách giao tiếp - ứng xử của các em. Ngoài ra, một số thầy cô vẫn còn xưng hô chưa được thiện cảm trước mặt các em: “ông – tôi”, “bà – tôi”. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các em học sinh trong trường. 16
- Lớp 12C3 có 11 thầy cô trực tiếp đứng lớp, phần lớn là các thầy cô trẻ, nhiệt tình, tâm huyết, năng động. Tuy nhiên, một số thầy cô còn thiếu kinh nghiệm, cứng nhắc trong cách ứng xử với học sinh. Với cương vị là giáo viên chủ nhiệm lớp. Tôi đã trực tiếp trao đổi với một số thầy cô góp ý, tâm sự với thầy cô. Mong các thầy cô uốn nắn các em dần dần. Ngoài ra, tôi tư vấn cho các em mạnh dạn bày tỏ tâm tư tình cảm với thầy cô. Tôi còn tư vấn, góp ý với đoàn trường, công đoàn về việc giao tiếp ứng xử của các thầy cô trước mặt học sinh, một số thầy cô cần mềm dẻo hơn trong việc ứng xử với học sinh. Để tạo ra một môi trường giáo dục thân thiện. Kết quả thực hiện giải pháp 5: Đa phần các thầy cô đã thay đổi lối xưng hô trước mặt học sinh. Mối quan hệ giữa học trò và thầy cô ngày càng thân thiện hơn. Các em tích cực hơn trong việc học tập, chú ý lắng nghe bài giảng của thầy cô, tích cực xây dựng bài, mạnh dạn trong việc gặp gỡ hỏi bài tập các thầy cô như em Phan Thị Định. Nhờ đó mà kết quả học tập của một số em đã có sự tiến bộ vượt bậc. 2.3.6. Giải pháp 6: Phối kết hợp với gia đình học sinh để giáo dục học sinh 12C3, giúp học sinh tự tin hơn trong giao tiếp - ứng xử từ đó góp phần nâng cao kết quả học tập của các em, nâng cao vị trí của lớp 12C3 trong bảng xếp hạng nề nếp của trường. Thay vì việc la mắng, dùng doi, so sánh các em mỗi khi các em vi phạm. Các bậc cha mẹ phải là một tấm gương sáng để các em noi theo, các bậc phụ huynh nên đặt mình vào tuổi các em để hiểu các em, tâm sự với các em, chia sẽ những khó khăn mà các em gặp phải trong học tập, cuộc sống. Như cùng nhau làm việc nhà, tố chức những buổi vui chơi đại gia đình ngoài trời, hay những chuyến du lịch hè bổ ích (đối với những gia đình có điều kiện), giúp các em hiểu và thân thiện hơn với các thành viên trong gia đình, giúp các thành viên trong gia đình hiểu nhau, gắn bó hơn, không chỉ vậy còn giúp các em giao tiếp với những môi trường xung quanh mới lạ, tốt đẹp. Tạo tiền đề tốt để các em hoàn thiện nhân cách của mình. Để thực hiện giải pháp này, tôi đã nghiên cứu và chuẩn bị đầy đủ các tài liệu để báo cáo trước phụ huynh trong các buổi họp phụ huynh đầu năm và đầu kỳ 2 do nhà trường tổ chức hoặc những buổi họp phụ huynh đột xuất của lớp. Qua đây, tôi hướng dẫn các bậc phụ huynh những biện pháp quản lý con em mình trong thời gian các em ở nhà, các biện pháp để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử của các em đối với các thành viên trong gia đình, người xung quanh, các biện pháp để gắn kết hơn nữa các em với các thành viên trong gia đình của mình. Chính những việc làm đó, đã góp phần nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử và kết quả học tập của các em. Tôi đề nghị tất cả 38/38 phụ huynh luôn quan tâm, theo dõi, giúp đỡ các em trong việc học tập tại trường, ở nhà và trong việc hình thành nhân cách của các em. Các phụ huynh nên thường xuyên cập nhật công nghệ thông tin để có thể hiểu những thay đổi của xã hội từ đó có giải pháp hài hòa trong việc giáo dục các em, tuy nhiên trong một số trường hợp tôi luôn 17
- làm cầu nối giữa các em và phụ huynh để các em và gia đình gắn bó hơn, hiểu nhau hơn. Như em Đặng Trọng Thắng. Kết quả thực hiện giải pháp 6: Đa phần các bậc phụ huynh được trang bị thêm những kiến thức, hiểu biết về tâm sinh lí, lứa tuổi của các em, những thay đổi của xã hội mà lâu nay phụ huynh chưa cập nhật. Đồng thời, được sự giúp đỡ từ phía gia đình kỹ năng giao - tiếp ứng xử và kết quả học tập, nề nếp của từng học sinh, của tập thể 12C3 đã có sự tiến bộ vượt bậc. Như em Nguyễn Thị Hường, đi học thường xuyên hơn, kết quả học tập tốt hơn, học kì 2 em đã đạt học sinh tiên tiến. 2.3.7. Giải pháp 7: Phối kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, đoàn trường và các đoàn thể khác nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh 12C3 thông qua các hoạt động tập thể. Việc nâng cao khả năng giao tiếp, đạo đức, nhân cách, kết quả học tập của học sinh không phải chỉ là trách nhiệm của mình giáo viên chủ nhiệm, nó còn là sự phối kết hợp của giáo viên bộ môn (nhất là giáo viên bộ môn Ngữ Văn, Giáo Dục Công Dân), nhà trường, đoàn trường và các đoàn thể khác. Để thực hiện giải pháp này, tôi có những buổi trao đổi với giáo viên bộ môn nhất là môn Ngữ Văn và Giáo Dục. Ngoài ra, tôi hướng dẫn các em theo dõi và tham gia đầy đủ các hoạt động do nhà trường, đoàn trường, đoàn thể khác tổ chức vào các dịp ngày lễ, như: Tham gia văn nghệ, làm báo tường, trồng và chăm sóc bồn hoa của lớp, thi cắm hoa chào mừng ngày quốc tế phụ nữ mùng 8/3, tham gia cuộc thi “khi tôi 18” do đoàn trường tổ chức vào ngày 26/3, đá bóng nữ và kéo co tập thể chào mừng ngày 26/3. Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm kết hợp với đoàn trường, nhà trường, tổ chức tuyên truyền, giáo dục các em giao tiếp - ứng xử văn minh, lịch sự trên mạng facebook; tháo gỡ những khúc mắc, mâu thuẫn giữa các em với nhau. Chính những hoạt động này, đã giúp các em tự tin hơn trong việc giao tiếp - ứng xử trước đám đông, hành động có suy nghĩ, đoàn kết hơn. Từ đó, đã giúp các em tốt hơn trong việc thi đua học tập và tu dưỡng rèn luyện nhân cách của mình. 18
- Một số hình ảnh hoạt động của lớp, đoàn thể trong trường. Kết quả thực hiện giải pháp 8: Đa phần các thành viên trong lớp đã tự tin hơn, đoàn kết hơn trong các hoạt động tập thể của lớp, phong trào thi đua học tập, nề nếp mạnh hơn. Điều đó thể hiện ở sổ đầu bài của lớp 12C3, không còn có hiện tượng nói chuyện tự do trong giờ học, hiện tượng vô lễ, nề nếp luôn đứng ở tốp 10 lớp có thành tích tốt. Kết quả học tập của một số em có sự tiến bộ vượt bậc như em Lê văn Bắc. Các tiết mục văn nghệ, báo tường, cắm hoa của lớp được thầy cô đánh giá cao. Nhiều tiết mục được xếp hạng trong trường như tiết mục múa nam “Việt Nam quê hương tôi”, báo tường đạt giả 3 toàn trường Các hoạt động này còn góp phần giáo dục cho các em một số kỹ năng sống khác như kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng giáo dục giới tính 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh lớp chủ nhiệm 12C3 – Trường THPT Nguyễn Quán Nho” vào công tác chủ nhiệm 12C3 năm học 2017 – 2018 Trường THPT Nguyễn Quán Nho, tôi nhận thấy sáng kiến đã mang lại những hiệu quả tích cực, khắc phục được tình trạng giao tiếp - ứng xử thiếu văn hóa của lớp chủ nhiệm ảnh hưởng đến nề nếp, học tập. Các thành viên trong lớp đều tích cực phấn đấu hoàn thành mục tiêu đề ra trong năm học. Điều đó được thể hiện qua kết quả học tập và hạnh kiểm của lớp qua hai năm học 11B3 và 12C3 như sau: Về học tập: Kết quả học tập của học sinh lớp 11B3 năm học 2016 – 2017. Tổng số học sinh: 38 Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Số lượng 0 15 18 5 0 % 0 39,4 47,4 13,2 0 Kết quả học tập của học sinh lớp 12C3 năm học 2017 – 2018. Tổng số học sinh: 38 19
- Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Số lượng 0 25 13 0 0 % 0 66 34 0 0 Về nề nếp: Kết quả hạnh kiểm của các thành viên trong lớp như sau: Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh lớp 11B3 năm học 2016 – 2017. Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Số lượng 17 15 5 1 0 % 44,7 39,4 13,1 2,8 0 Kết quả xếp loại hạnh kiểm của học sinh lớp 12C3 năm học 2017 -2018. Tốt Khá Trung bình Yếu Kém Số lượng 34 4 0 0 0 % 89,5 10,5 0 0 0 Trong năm học 2017 – 2018, lớp 12C3 đã khắc phục được tình trạng không chú ý học bài trong lớp, nói tục trong giờ học, đi học muộn, vô lễ với thầy cô, đánh nhau trong trường, giao tiếp - ứng xử thiếu văn hóa trên facebook, sử dụng điện thoại trong giờ học, nói tự do thiếu văn hóa trong giờ học.Vì thế, kết quả xếp loại nề nếp chung của lớp trong toàn trường đã được cải thiện đáng kể. Năm học 2016 – 2017: Lớp 11B3 xếp thứ 18/21 lớp toàn trường. Năm học 2017 – 2018: Lớp 12C3 xếp thứ 9/21 lớp toàn trường Ngoài ra lớp 12C3 cũng đã đạt được những kết quả đáng kể trong các phong trào của đoàn trường tổ chức như: Năm học 2016 – 2017: Lớp 11B3 không có hoạt động gì đạt thành tích cao. Năm học 2017 – 2018: Lớp 12C3 đạt được một số kết quả như sau: Đạt giải ba thi văn nghệ với hai bài: múa nam “Việt Nam quê hương tôi,” và múa tập thể “Nhớ mãi một miền quê”. Đạt giải ba báo tường với chủ đề “Nâng bước”. Đạt giả ba “kéo co”. Đạt giải ba “đá bóng nữ”. Ngoài việc thực hiện các giải pháp trên để nâng cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh 12C3. Tôi còn áp dụng những giải pháp trên thông qua việc lồng ghép vào các tiết dạy Địa lí của mình để giáo dục các em lớp tôi trực tiếp giảng dạy. Các em rất chú ý lắng nghe và thảo luận rất sôi nỗi. Ngoài ra, tôi còn tham gia đóng góp ý kiến cho đoàn trường một số giải pháp để nâng cao văn hóa giao tiếp- ứng xử trong trường và ngoài xã hội của tất cả các học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho. 20
- 3. Kết luận, kiến nghị. 3.1. Kết Luận. Trường THPT Nguyễn Quán Nho là trường đóng trên địa bàn nông thôn, đời sống kinh tế gia đình còn khó khăn. Các Bậc phụ huynh còn phải bận lo kiếm sống nên không có thời gian, điều kiện cập nhật thông tin để hiểu, gần gủi các em. Vì thế, giáo viên chủ nhiệm vừa là giáo viên giảng dạy những kiến thức cho các em vào đời, đồng thời vừa phải là những người bạn, người mẹ, nhà tâm lí dạy bảo và lắng nghe các em từ những việc nhỏ nhất, việc tế nhị, riêng tư nhất. Để từ đó phản ánh với phụ huynh, cùng phụ huynh tìm ra những giải pháp tốt nhất để giáo dục các em tiến bộ. Như vậy, có thể kết luận hiệu quả mang lại sau khi triển khai các giải pháp đã nêu ở trên là: Đa số học sinh hiểu được vai trò, lợi ích và hậu quả của giao tiếp - ứng xử có văn hóa trong cuộc sống, xã hội hiện tại và tương lai đang chờ đón, khắc phục được tình trạng giao tiếp - ứng xử thiếu văn hóa của một số học sinh 12C3. Vì thế, sau khi tôi áp dụng sáng kiến của mình vào công tác chủ nhiệm lớp 12C3 thì kết quả học tập cũng như nề nếp của học sinh đã có sự tiến bộ vượt bậc. Tất cả các em đều có những hiểu biết về giao tiếp - ứng xử trong trường và ngoài xã hội, biết ứng xử có văn hóa với thầy cô, bạn bè, ông bà, bố mẹ và những người xung quanh, biết ứng xử văn hóa trên các mạng xã hội. Các em tự tin hơn khi tham gia các hoạt động trong học tập cũng như cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, thông qua đây nhân cách của các em cũng đang dần dần được hoàn thiện. Sau khi thực hiện các giải pháp trên, tôi đã rút ra cho mình nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc giáo dục học sinh khắc phục những hạn chế trong giao tiếp - ứng xử, không chỉ áp dụng ở lớp chủ nhiệm tôi còn thực hiện lồng ghép vào các tiết dạy Địa lí ở các lớp 10A2, 11B1, 11B2, 11B3, 11B4, 11B5, 11B6, 11B7. Tham mưu cho giáo viên chủ nhiệm các lớp những giải pháp để nâng cao nhận thức của các em trong việc giao tiếp - ứng xử với mọi người xung quanh, tác hại và lợi ích của văn hóa ứng xử đang tràn lan trên mạng xã hội. Tôi nhận thấy, đề tài này có thể ứng dụng vào thực tế của trường THPT Nguyễn Quán Nho được. Tuy nhiên, đề tài này mới chỉ nghiên cứu được thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng giao tiếp - ứng xử của các học sinh lớp chủ nhiệm từ đó góp phần nâng cao kết quả học tập và nề nếp của học sinh 12C3. Nếu điều kiện cho phép tôi sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu của đề tài trên phạm vi toàn trường “Một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè cho học sinh trường THPT Nguyễn Quán Nho” 3.2. Kiến nghị. Đối với giáo viên, không ngừng học tập nâng cao, trau dồi kiến thức và nghiệp vụ sư phạm, cập nhật thông tin của các cấp. Không ngừng tìm hiểu tâm sinh lí của học sinh, gần gũi các em từ đó tìm ra những giải pháp để giáo dục các em nhanh chóng và kịp thời. 21
- Đối với nhà trường, các đoàn thể trong nhà trường, thường xuyên tổ chức các buổi ngoại khóa, các cuộc thi tìm hiểu về cách ứng xử của học sinh. Có thể kết hợp với các tổ chức xã hội khác như công an, chuyên gia tư vấn, các nhà tâm lý học lứa tuổi tổ chức các buổi trao đổi với học sinh, cung cấp cho các em những kiến thức bổ ích về tâm sinh lí lứa tuổi, pháp lý để từ đó các em có thể rút ra cho mình những kinh nghiệm sống bổ ích. Đối với Sở GD&ĐT nên mở các lớp tập huấn cho giáo viên về việc rèn luyện các kỹ năng sống cho học sinh trước sự phát triển như vũ bão của các mạng truyền thông với nhiều nền văn hóa khác nhau. Và những điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh THPT hiện nay. Với kết quả của đề tài này, tôi thiết nghĩ với những giải pháp đề tài đưa ra có thể là tài liệu để các thầy cô trong và ngoài trường áp dụng để giáo dục các em học sinh của mình. Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp trong trường và các trường trong tỉnh để tôi hoàn thiện hơn nữa đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của hiệu trưởng Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018 Tôi cam đoan đây là SKKN của mình, không sao chép của người khác. Người viết Lê Thị Thủy 22
- TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]: Báo online giáo dục thành phố Hồ Chí Minh – Diễn đàn của ngành GD – ĐT TP. Hồ Chí Minh ra ngày 24/4/2018. [2]: tiep-ung-xu-cho-hoc-sinh – tác giả Nguyễn Thúc Hải [3]: dulieu.tailieuhoctap.vn/books/ky-nang-mem/ky-nang-giao-tiep/van-hoa- giao-tiep-trong-nha-truong1-1108.pdf [4]: baocamau.com.vn>giao-duc-dao-tao>lo-ngai-van-hoa-ung-xu-cua-hoc-sinh – ra ngày 10/11/2015 [5]: hthps://www.slideshare.net [6]: aitech.edu.vn>ky-nang-giao-tiep-84 23