Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 9 - Bài: Cảm nhận bài thơ Đồng chí (Chính Hữu)

docx 7 trang Hoài Anh 17/05/2022 2141
Bạn đang xem tài liệu "Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 9 - Bài: Cảm nhận bài thơ Đồng chí (Chính Hữu)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxde_cuong_on_thi_mon_ngu_van_lop_9_bai_cam_nhan_bai_tho_dong.docx

Nội dung text: Đề cương ôn thi môn Ngữ văn Lớp 9 - Bài: Cảm nhận bài thơ Đồng chí (Chính Hữu)

  1. CẢM NHẬN BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ – CHÍNH HỮU -Lê Trần Thảo Vy- Là một trong những mặt trời chiếu sáng trên nền văn học Việt Nam, Chính Hữu đã vẽ nên biết bao tác phẩm văn học huy hoàng, vẻ vang. Nổi bật hơn cả hẳn những tập thơ mang một cảm xúc dồn nén cùng ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc luôn ánh mãi ngàn đời. Vốn là một thi sĩ nhưng cuộc đời lại gắn liền với chiến tranh nên ông có cái nhìn khác về những người chiến sĩ lên đường hành quân bảo vệ đất nước bởi chính ông cũng nằm trong khía cạnh đó. Vậy nên trong những bài thơ của ông luôn ánh lên tình đồng chí thắm thiết, xúc động đã, đang và sẽ đi vào trong lòng người đọc một sự đồng cảm sâu sắc. Một trong những minh chứng cho điều đó, ta không thể không nhắc đến bài thơ “ Đồng chí”- tác phẩm ngợi ca tình đồng đội, tình đồng chí của những người lính cụ Hồ thời kì chống Pháp được gửi gắm qua lời tâm tình thắm thiết của hai anh bộ đội cùng xuất phát từ những nông dân nghèo. Mở đầu bài thơ được viết bằng hai câu sóng đôi, đối xứng rất tinh tế: Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Bằng lời thơ mộc mạc giản dị, những câu thơ dòng chữ hệt như lời thủ thỉ của hai đồng chí khi nhớ lại ngày đầu tiên gặp gỡ. “Quê hương anh” - “ làng tôi ” tuy đến từ những miền quê khác nhau nhưng đều xuất thân từ những người nông dân bình dị. Chính vì điều đó mà “ anh” và “tôi” có thể hiểu nhau, thương nhau như người bạn thân quen. Đều lớn lên trong một hoàn cảnh éo le mà cái nghèo đã xô đẩy, từ việc đói khát do “nước mặn đồng chua” gợi cho ta đến một vùng đồng bằng chiêm trũng đất phèn đất mặn , hoặc chốn “đất cày lên sỏi đá” đất khô cằn gợi về một vùng miền xa xôi nơi mà “Chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Hoàn cảnh xuất thân nghèo khó, đều từ người nông dân quần nâu áo vải khi nhìn từ con mắt người đọc lại cho thấy sự đồng cảm giữa những người chiến sĩ nhưng dưới con mắt của tác giả nó còn hơn cả thế. Đó sự đồng cảm, một niềm tự hào, ý chí nghị lực của những con người yêu nước khi nghe thấy tiếng gọi của tổ quốc họ đều đứng dậy chiến đấu để dành lại một cuộc sống bình yên mà vô vạn người dân trên mảnh đất hình chữ S đều mong ước. Thông qua việc đã sử dụng các thủ pháp đối ở hai cặp câu này một cách thuần phục, điêu luyện Chính Hữu đã làm cho “anh” và “tôi” trở nên đồng điệu, đăng đối đến lạ thường. Và đó cũng chính là sợi dây kết nối tình đồng chí giữa
  2. những người lính trở nên gần gũi, thân mật gắn bó với nhau. Trước ngày nhập ngũ, họ cũng tự phương trời xa lạ đến với nhau: Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Tại sao từ hai người xa lạ, không quen không biết mà giờ đây họ đã thể thấu hiểu, cảm thông cho nhau như những người anh em đến như vậy? đó là bởi vì họ cùng chung một nhịp đập trái tim, cùng chung “một lòng một dạ hướng” về đất nước , cùng chung lí tưởng cách mạng đã thôi thúc họ đến với nhau và cùng đi trên một con đường quân ngũ. Tưởng chừng “ anh” với “tôi” đôi người xa lạ “tự phương trời” không hề quen biết nhau song giữa họ lại có mối liên kết đặt biệt khó mà diễn tả được. Trong hình ảnh tươi đẹp ấy lại có một hình ảnh “súng bên súng, đầu sát bên đầu” lại hiện lên trong mắt người sự chiến đấu anh dũng cùng với ý chí kiên định của những người lính ra quân. Khi nghĩ đến súng người ta lại nghĩ đến tinh thần chiến đấu sắt thép, đầu tượng trưng cho lí tưởng, quả cảm cao đẹp. Chính vì thế mà nhà văn đã sử dụng điệp ngữ “súng”, “đầu” , “bên” để nhấn mạnh sự gần gũi, kề vai sát cánh của hai người đồng chí trong một khuôn khổ gian lao của cuộc kháng chiến trường kỳ dân của dân tộc. Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội để bảo vệ đất nước. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí! Có lẽ trong cái gió lạnh lẽo heo hút của đêm khuya, trong cái cảnh hoang vắng của cánh rừng, cái giá lạnh đã khép chặt những người lính lại với nhau trong một tắm chăn mỏng nhưng lại ấm áp, đầy tình thương của đôi bạn “tri kỉ”. Đó là những hơi ấm mà họ truyền cho nhau trong cái hiện thực khắc nghiệt gian khổ mà họ phải trải qua. Những thứ đó đã hàn gắn sâu vào tâm trí của những người lính thứ kỉ niệm vừa chân thực vừa đẹp đẽ để rồi họ trở nên ấm lòng và cùng nhau cam khổ trên chiến trường đầy khắc nghiệt. Họ cùng chia sẻ những thiếu thốn, gian lao trong “tấm chăn đắp lại, tâm tình mở ra”. Và nó cũng đã khiến cho những người “xa lạ” từ phương nào trở nên quen biết rồi đến đôi bạn “tri kỉ” kề vai sát cánh và trở thành đồng chí hữu nghị của nhau. Với cụm từ “đôi bạn tri kỉ” tác giả đã khéo léo nhấn mạnh sự hiểu biết giữa họ dành cho nhau như hai người bạn tâm giao, hiểu
  3. bạn như hiểu chính mình. Để trở thành tri kỉ của nhau hẳn là một chặng đường rất khó, nó phải trải qua bao sóng gió, biến cố và cần rất nhiều thời gian trong đời. Có lẽ “ tri kỉ” là một thứ mà khó có thể có được. Ấy thế mà, tự phương trời xa xôi, họ đã trở thành tri kỉ của nhau trên chiến trường đầy thử thách. Thật là một điều tuyệt vời của sức mạnh tinh thần giữa tình người với nhau trên chiến trường đầy đạn pháo! Bao nhiêu yêu thương muốn gửi gắm tác giả gửi gắm qua những hình ảnh đơn sơ nhưng lại mang một hàm súc đặc biệt của một tình thương mãnh liệt giữa các chiến sĩ . Khép lại sức nặng của nhữnng khó khăn, khó nhọc của hoàn cảnh nghèo khó cùng đứng dậy vì lí tưởng bảo vệ Tổ quốc, những đêm thiếu thốn mà những người lính đã trải qua, trong tâm họ giờ đây đã thốt lên hai từ “Đồng chí!” một cách mạnh mẽ, kiên định như một tiếng gọi thiêng liêng nhất. Đó là tiếng gọi bật lên từ trong tâm thức, từ sự chân thành mà người lính nông dân dành cho nhau, ngắn gọn nhưng thiêng liêng biết mấy. Hai tiếng bật lên giữa bao khó khăn, thử thách mà người lính cùng nhau trải qua. Nó trở thành biểu tượng cho khối đại đoàn kết toàn dân, cho tình cảm cách mạng. Khi họ gọi nhau là đồng chí, họ tự nguyện sát cánh bên nhau, xả thân chiến đấu vì quê hương đất nước, vì độc lập dân tộc, vì những người thân yêu mà trong đó có cả người đồng đội bên cạnh mình. Và dường như từ “đồng chí” quả cảm ấy vọng xa lấn át đi cái tiếng bom, tiếng mìn chói tai chỉ để lại sự kiên cường, ý chí từ sâu trong tâm thức những người nông dân mặc áo lính ra trận. Vỏn vẹn với hai âm tiết, đặc biệt cùng với dấu chấm cảm cuối câu lại khiến cho tinh thần đó trở nên thuần khiết, mãnh liệt cao trào hơn bao giờ hết của con mắt rực lửa đang bùng cháy trong họ. Sâu trong tâm của những người lính đó luôn nêu cao tư tưởng “ đồng tâm hiệp lực” của tình đồng chí, tình đồng đội. Cất lên như một tiếng nói, như một lời khẳng định rồi khép lại như một bản lề gắn kết của khổ thơ đầu, đồng thời mở ý của khổ thơ thứ hai: Ruộng anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Dù đi đâu hay ở đâu, gia đình vẫn luôn là nơi chúng ta cảm thấy an tâm để có thể dựa dẫm, chia sẻ và yêu thương. Nó dường như là một một món quà vô giá ,là một thứ luôn tồn tại mãi mãi trong tình yêu bất diện mà còn người nhận được. Song cũng có những người lính đã hi sinh cũng như mặc bỏ tất cả những điều đó để mang lại hạnh phúc cho người khác cũng như cứu sống chính người thân của họ. Nó hệt như là một sự hi sinh âm thầm của kháng chiến. Họ đã có những hoàn cảnh nghèo khổ vậy mà giờ đây càng thêm thiếu thốn. Chính vì phải trang trải trên chiến
  4. trường khắc nghiệt của thời kì kháng chiến chống Pháp mà “đôi bạn tri kỉ” đã để lại nơi hậu phương công việc đồng ánh, nhờ người thân, bạn bè giúp đỡ “ ruộng nương anh gửi bạn thân cày”. Là ruộng nương của anh nhưng chính tôi cũng thấu hiểu điều đó. Chúng ta cùng chung cảnh ngộ bỏ mặc “gian nhà không” để lên đường hành quân để xứng đáng với hai chữ “yêu nước”, là những người lính dũng mãnh của cụ Hồ. Đáng thương thay là họ phải “ mặc kệ” đi “ ruộng nương”, “nhà cửa” đó là những gì mà nông dân quần nâu áo vải phải cực cùng xây nên để nuôi sống bản thân. Những thứ đó mà nói là tất cả đối với họ, vậy mà họ đã sẵn sàng bỏ lại việc hậu phương, vật chất, hi sinh lợi ích riêng để bảo vệ lợi ích chung đứng dậy đấu tranh vì tiếng gọi của đất nước. Đối với tác giả cũng như người dân Việt Nam mà nói họ giống như những người anh hùng hi sinh thầm lặng, dù không mang cho mình một chiến tích vẻ vang nhưng họ lại góp phần nào vào sự bình yên của Tổ Quốc. Phải chăng hình ảnh “ giếng nước gốc đa” vừa sử dụng như nghệ thuật nhân hóa, vừa là một phép ẩn dụ để nhấn mạnh nỗi nhớ thường trực, đau đáu trong đầu tâm trí một người nông dân ngày đêm cày cuốc, vui đùa dưới gốc đa đang ra trận như có một tâm hồn mãnh liệt? Cũng giống như thế, quê hương luôn nhớ các anh và niềm thương nhớ quê hương da diết cũng luôn tồn tại, đau đáu trong tâm hồn của những người lính. Từ đó ta cũng khẳng định được một ý chí vững chắc, quyết tâm cứng cỏi quyết ra đi bảo vệ nền độc lập, tự do của những người nông dân mặc áo lính. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đường đường là một thi sĩ lỗi lạc trong văn học hiện đại, song ông còn là một chiến sĩ trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Vì thế mà ông có thể thấu hiểu, cảm thông cho những người lính đã từng vượt qua bao gian nan của cuộc đời. Cái thiếu thốn, bệnh tật bao trùm lên họ trong cái hoàn cảnh hoàn cảnh trớ trêu, cực cùng quá đỗi gian nan. Trong cái gian nan đó họ phải trải qua từng “cơn ớn lạnh “của bệnh sốt rét rừng đã tàn phá đi sức khỏe của những người lính. Những cơn sốt
  5. ấy hành hạ những “người bạn tri kỉ” từng ngày này qua ngày kia trong cơn đau đớn, sốt run người của cái thiếu thốn thuốc men. Thời kì chống Pháp đó, cùng là lúc cơn bệnh phổ biến những mà những người lính phải trải qua trong cái khắc nghiệt của cánh rừng lạnh lẽo. Và cũng nhờ những cơn sốt rét ấy, những người nông dân mặc áo lính càng biết chăm sóc, quan tâm tới nhau. Có thể nói rằng bờ lưng, bờ vai của họ luôn là điểm dựa vững chắc để họ vượt qua cơn sốt rét quái ác nhất. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Có thể nói, đoạn thơ ngắn ngủi này đã sử dụng thủ pháp liệt kê và cả câu thơ sóng đôi để tạo điểm tương đồng giữa những người lính tội nghiệp phải trải qua hoàn cảnh “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày” trong thời tiết khắc nghiệt. Đó cũng là lí do mà người lính luôn gặp phải nhiều cơn bệnh, họ thiếu thốn tới mức cực cùng. Ngày nay, những người đọc sống trong hòa bình với cuộc sống đủ đầy và sung túc, không khỏi đau xót trước sự hi sinh của những thế hệ đi rước và cảm phục tinh thần quật cường của họ. Mặc cho những thử thách phía trước, họ vẫn cười, một nụ cười rất tươi, cười để lấy sự lạc quan để sống, để tồn tại trong cánh rừng buốt giá chứ không phải nêu khó khăn để kẻ khổ, than vãn. Đối với họ mà nói, thà rằng chết vì sự hi sinh, vì các căn bệnh, sự thiếu thốn của thời kháng chiến, ít nhất cũng đóng góp một phần nào trong các nhiệm vụ để cho đất nước được giải phóng, tự do. Không chỉ vậy, cụm từ “ anh” với “ tôi” lại một lần nữa cho thấy họ đã và đang kề vai sát cánh cùng nhau vượt qua nhiều thử thách. Tất cả những cảm xúc thắm thiết, thiêng liêng vô hạn của các chiến sĩ được tác giả dồn nén vào dòng thơ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Cái nắm tay chứa bao nhiêu ý nghĩa của những ngày gian lao, sự đồng cảm giữa những người lính. Đó là lời động viên chân thành, một lời cỗ vũ chính bản thân cũng như dàng tặng những người bạn được xem là “tri kỉ”. Thiếu thốn vật chất thì đã sao? Không có đủ thuốc men, không được sống sung sướng thì đã sao? Tất cả đều nhún nhường dưới cái bắt tay đó, họ đều coi thường sự mặc cảm của thiên nhiên, bệnh tật để truyền cho nhau hơi ấm trong những ngày rét lạnh. Dùng hình ảnh để gợi mối thâm tình, dùng chất thơ miêu tả hiện thực, Chính Hữu đã khẳng
  6. định sức mạnh của anh bộ đội nhỏ bé so với kẻ thù lớn mạnh. Họ không có tiền bạc, thuốc men, áo quần hay thức ăn để chia sẻ cho nhau nhưng họ đã giúp nhua vượt qua được nhiều thử thách bởi chính tình cảm đồng chí, đồng cam cộng khổ ấy. Cái bắt tay còn vương giá buốt mùa đông là hình ảnh đẹp cho niềm lạc quan và tinh thần vượt khó của họ. Tinh thần đó băng qua lửa đạn chiến tranh, bền bỉ cùng những năm tháng chống Pháp: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Trong ba dòng thơ này, tác giả một lần nữa đã mở ra sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí trong không gian vắng lặng của cánh rừng hoang vào chập đêm khuya. “Anh”và “tôi”một lần nữa lại kề vai sát cánh đứng trong tư thế chủ động “chờ giặc tới”. Nhưng trớ trêu thay, cái lạnh giá độc hại của “ sương muối” đã bao trùm lên “đôi bạn tri kỉ”. Điều đó khẳng định tinh thần chiến đấu kiên cường và lòng quyết tâm cao độ. Giữa cánh rừng hoang sương muối, tinh đồng chí giúp họ không đơn độc cũng như không yếu mềm.Tình cảm đẹp ấy trở thành điểm tựa nâng đỡ tâm hồn của những người lính, là biểu tượng đẹp của tình đồng chí giữa chiến tranh cũng như của nhân dân Việt Nam : Dân ta nhớ một chữ đồng Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh Xuyên suốt bài thơ, không chỉ về sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện lại hình ảnh của những người lính, Chính Hữu còn vẽ nên một bức tranh rất lãng mạn, chân thực và độc đáo: Đầu súng trăng treo. Đó là một bức tranh đẹp hoàn mỹ đến tuyệt diệu với hai hình ảnh chính “súng” và “trăng”. Nhưng đó chỉ là một bức tranh mang tính biểu tượng khái quát được các chiến sĩ hát hiện trong ngày tham gia chiến đấu. Tuy chỉ vỏn vẹn có bốn âm tiết nhưng đây hẳn là câu thơ đặc sắc nhất bài. Sự kết hợp tuyệt vời đến nhuần nhuyễn của hai chất hiện thực và lãng mạn của “ đầu súng trăng treo” đã cho ta thấy sự đối lập tuyệt đối của câu thơ trên. Nếu trước đó là những khó khăn lao mà các chiến sĩ phải trải qua thì ở đây bức tranh nên đậm chất thi sĩ, thơ mộng đến kì lạ đã in sâu trong tâm trí người đọc. Khi nhắc đến trăng người ta lại nghĩ ngay đến
  7. chất lãng mạn trong thơ ca và dần dần nó đã trở thành một biểu tượng độc đáo. Ở trong đôi mắt của các người lính, vầng trăng xa xa kìa như muốn chạm xuống mặt đất và cũng chính tầm ngắm đó đã khiến cho trăng “ treo” lơ lửng trên đầu mũi súng. Có lẽ súng thường là biểu tượng của chiến tranh của sự chết chóc nhưng ở đây súng lại là một biểu tượng của một nền hòa bình, sự chiến đấu. Thơ mộng hơn cả là ở trong không gian khắc nghiệt đầy sương muối này lại “ treo” một vầng trăng lung linh đến thế. Nó như xoa dịu mọi căng thẳng, mệt mỏi ở trong lòng của mỗi chiến sĩ. Trên đầu súng kia chính là ánh trăng muôn thu ở hấp dẫn và kì lạ, thanh bình của thi ca. Trăng như là một ngọn đuốc thắp lên trong tâm hồn mỗi chiến sĩ một tia hi vọng, về một tương lai tươi sáng hòa bình hạnh phúc và đó cũng sự phản ánh giữa hiện thực và ảo mộng trong khuôn trường khắc nghiệt của chiến tranh. Giữa chất hiện thực của súng và chất trữ tình của trăng như hòa vào nhau kết thành một biểu tượng quyết tâm băng qua lửa đạn chiến đấu vì hòa bình, vì Tổ Quốc của dân tộc nói chung và những người lính nói riêng. Bằng ngôn ngữ hết sức chọn lọc, cô động, hình ảnh thơ giản dị chân thực, Chính Hữu đã tô đậm nên tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Chính vì điều đó, bảy mươi đã qua đi nhưng bài thơ vẫn lan tỏa sự ấm áp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Tình cảm ấy đã cho chúng ta thấy được đỉnh cao của tình người, kết tinh của tình bạn và ngợi ca được tình cảm cao đẹp của thời đại một cách giản dị song lại thấm đẫm lòng người một cảm xúc thiêng thiêng, tự hào đến khó tả. Đồng thời tình cảm ấy như một lời gợi nhắc về vẻ đẹp của những người lính cũng như những người bạn xung quanh mình.